Nguồn tin: Thời báo kinh tế Sài Gòn, 16/11/2008
Ngày cập nhật:
25/11/2008
Sản xuất theo hợp đồng và quỹ bảo hiểm nông nghiệp là hai công cụ cấp thiết và hữu ích giúp nông dân ứng phó với những biến động của thị trường: giá vật tư nông nghiệp tăng cao, nông sản rớt giá mạnh, lúa gạo khó tiêu thụ cũng như thiên tai dịch bệnh.
Chia sẻ với TBKTSG xoay quanh chủ đề này, PGS.TS. Vũ Trọng Khải - trường Cán bộ quản lý nông nghiệp và Phát triển nông thôn II, cho biết:
- Nông dân hiện phải đối mặt với ba vấn đề mà họ không tự giải quyết được. Thứ nhất, là thị trường và thương hiệu. Thứ hai, là vốn. Thứ ba, là công nghệ. Các hộ nông dân chỉ có ưu thế trong sản xuất linh hoạt nhờ những đặc tính ưu việt của kinh tế nông hộ như quy mô sản xuất nhỏ nên có năng lực kiểm soát quá trình phát triển của cây trồng vật nuôi, khi giá cả biến động thì lấy công làm lời...
Vậy giải quyết ba vấn đề trên như thế nào, theo ông?
- PGS.TS. Vũ Trọng Khải: Phải áp dụng hình thức sản xuất theo hợp đồng (contract farming) để giải quyết. Trong Quyết định 80/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng có quy định doanh nghiệp phải xác định giá sàn cho nông dân theo kiểu “nước lên, thuyền lên”, nếu giá lên thì doanh nghiệp không mua theo giá sàn, khi giá xuống lại phải mua theo giá sàn. Vướng mắc nằm ở chỗ này, vì giá sàn là mức giá do Nhà nước quy định để đảm bảo cho nông dân có thể tồn tại khi giá cả xuống thấp không có lợi nhuận chứ không phải giá của doanh nghiệp.
Theo tôi, Nhà nước phải quy định, nếu giá thị trường xuống dưới mức giá sàn thì sẽ đứng ra mua nông sản cho nông dân theo giá sàn, lấy từ nguồn vốn quỹ bảo hiểm nông nghiệp, như Thái Lan đang làm.
Cần phân biệt, đó không phải là trách nhiệm của doanh nghiệp vì nếu mua với mức giá sàn chắc chắn họ sẽ bị thua lỗ. Bắt doanh nghiệp mua theo giá sàn là không hợp lý vì như thế có nghĩa là bắt họ thực hiện vai trò của Nhà nước.
- Việc ký hợp đồng với doanh nghiệp giúp đảm bảo lợi ích cho nông dân như thế nào? Nếu có rủi ro, giải quyết ra sao?
- Giá sản xuất theo hợp đồng là giá do doanh nghiệp và nông dân thỏa thuận theo ngày ký hợp đồng để chia sẻ lợi ích và rủi ro trong sản xuất. Với giá đó nông dân sẽ có lời khi bán nông sản, doanh nghiệp cũng có lợi khi tiêu thụ và giá không căn cứ vào cung - cầu mà dựa vào việc phân chia lợi ích và rủi ro.
Quan trọng là doanh nghiệp sẽ giúp nhà nông, thông qua cung ứng vốn trước bằng giống xác nhận (cung cấp giống xác nhận là đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng đầu ra như yêu cầu của doanh nghiệp), hướng dẫn sản xuất theo GAP (tiêu chuẩn quy trình kỹ thuật sản xuất nông nghiệp đảm bảo an toàn).
Có thể coi sản xuất theo hợp đồng chính là dự án sản xuất khả thi để nông dân thế chấp, vay vốn ngân hàng nếu họ cần vốn lớn. Rủi ro của nhà nông trong sản xuất nông nghiệp, như thiên tai, thì Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ bằng quỹ bảo hiểm nông nghiệp, còn doanh nghiệp tự chịu rủi ro về “đầu ra” và vẫn phải mua theo giá đã thỏa thuận trong hợp đồng.
- Tại sao nhiều hợp đồng ký theo Quyết định 80/2002 lại bị phá vỡ, thưa ông?
- Các hợp đồng ký theo Quyết định 80/2002 trên thực tế hầu hết đều bị phá vỡ. Nguyên nhân là do, trừ một số sản phẩm đặc biệt như sữa, nếu không ký hợp đồng với doanh nghiệp thì nông dân không tiêu thụ được nên họ buộc phải ký.Còn lại nông dân nước ta đa phần sản xuất manh mún, chỉ có vài công đất nên bán nông sản cho ai cũng được, không cần hợp tác với doanh nghiệp theo dạng sản xuất theo hợp đồng.
Hơn nữa, khi giá nông sản lên nông dân đòi giá cao khiến doanh nghiệp bị lỗ vì họ đã ký hợp đồng tiêu thụ với nhà xuất khẩu rồi nên không thể tăng giá. Nhưng nếu giá nông sản xuống thấp, nông dân ép doanh nghiệp mua theo giá sàn. Chính tâm lý này gây khó khăn cho hình thức sản xuất theo hợp đồng. Lấy ví dụ, hiện nay nhiều hộ nông dân không bán được khoai mì vì không ký hợp đồng, giá thấp doanh nghiệp không mua.
- Vì vậy, đã đến lúc Nhà nước nên lập quỹ bảo hiểm nông nghiệp để chia sẻ gánh nặng rủi ro cho nông dân? Theo ông, nguồn vốn cho quỹ lấy từ đâu?
- Chính phủ đứng ra hỗ trợ cho nông dân thông qua quỹ, còn các doanh nghiệp nông nghiệp kinh doanh tốt phải trích ra một phần từ lợi nhuận để đóng góp vào quỹ. Lấy ví dụ, doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo khi bán được giá cao, 700-800 đô la Mỹ/tấn thì trích ra một phần nhỏ đóng góp cho quỹ. Doanh nghiệp cao su, cà phê khi xuất khẩu được giá cũng vậy.
Tôi lên Lục Ngạn - Bắc Giang mùa hè vừa rồi, hỏi giá vải tại vườn chỉ có 2.500 đồng/ki lô gam. Giá rẻ mạt như thế thì chuyện trồng chặt của bà con nông dân còn tái diễn nếu chúng ta không sản xuất theo hợp đồng, không có quỹ bảo hiểm nông nghiệp. Phải thúc đẩy hai công cụ này để đặt người nông dân vào đúng “vai” của họ: chủ thể của quá trình vận động đổi mới nông nghiệp.
- Một vấn đề bức xúc khác là nông dân mất đất do đô thị hóa. Đâu là lời giải cho vấn đề này, thưa ông?
- Phải có khung pháp lý để tạo cơ sở cho thị trường đất đai nông nghiệp hình thành một cách lành mạnh, tạo điều kiện cho nông dân tích tụ ruộng đất, lập trang trại lớn, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để xóa bỏ tình trạng canh tác, chăn nuôi manh mún.
Cần phát triển các ngành phi nông nghiệp, hình thành đô thị nhỏ và vừa ở nông thôn để thu hút lao động dư thừa trong nông nghiệp, chỉ khi đó bài toán lao động dư thừa mới được giải quyết căn cơ.
Chúng ta đang đứng trước một thực trạng khó khăn là tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chỉ là 20%, nhưng tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm tới 57-58% lực lượng lao động toàn xã hội. Đặc biệt, dân cư nông thôn vẫn chiếm 70% dân số cả nước, nghĩa là 70% dân số đang sống dựa vào 20% GDP thì làm sao có mức sống cao được.
Ở các nước phát triển, tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm 5% trong GDP và cũng chỉ có tương ứng 5% dân số sống dựa vào nông nghiệp mà thôi.
THÀNH TRUNG
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.