• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại

Nguồn tin:  Nhân Dân, 20/11/2008
Ngày cập nhật: 21/11/2008

Quan sát trên đồng ruộng tỉnh Bắc Ninh, chúng tôi thấy, kinh tế trang trại (KTTT) với các loại hình sản xuất đa dạng đã phát triển rộng khắp địa bàn trong tỉnh. Ðây là yếu tố góp phần quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng mức thu nhập cho nông dân.

Bắc Ninh có nét tương đồng với các tỉnh đồng bằng sông Hồng, đó là KTTT đã có quá trình phát triển lâu dài. Vào thập niên cuối thế kỷ trước, trong nông thôn xuất hiện một số hộ nông dân có tiềm lực kinh tế, dám nghĩ, dám làm, chấp nhận rủi ro, họ tham gia nhận thầu đất công điền của xã để làm KTTT theo mô hình sinh thái VAC (vườn, ao, chuồng). Khi ấy KTTT phát triển mang tính tự phát, chưa theo quy hoạch, sản xuất kinh doanh của từng trang trại còn mang nặng dấu ấn của nền kinh tế tự cung, tự cấp, chưa thể hiện rõ nét của mô hình sản xuất nông sản hàng hóa.

Từ năm 2002 đến nay, thực hiện chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, các đơn vị và hộ nông dân trong tỉnh Bắc Ninh đã tiến hành dồn điền, đổi thửa, khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất trên đồng ruộng; các ngành chức năng, các huyện và từng xã, thôn cùng phối hợp triển khai việc rà soát quy hoạch sử dụng đất đai các loại, nhất là đất nông nghiệp.

Trong đó, có việc chuyển đổi các chân ruộng thuộc vùng úng, trũng (cấy một vụ lúa/năm không ăn chắc) sang nuôi trồng thủy sản; UBND tỉnh đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn, chính sách khuyến khích các tổ chức kinh tế, hộ nông dân áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào thâm canh, tăng năng suất chất lượng sản phẩm nông sản hàng hóa, tăng giá trị sản xuất/mỗi ha đất canh tác, v.v...

Những việc làm trên được xem là những biện pháp tạo động lực cho KTTT phát triển vượt bậc trên phạm vi rộng. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Ninh (chỉ tính số trang trại đạt tiêu chí theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đến nay, toàn tỉnh có tới 1.810 trang trại các loại, tăng 33,5 lần so với năm 2002 và tăng 201 trang trại so với năm 2005.

Các trang trại đã tận dụng, cải tạo hơn 444 ha đất ruộng trũng, hơn 750 ha mặt nước đưa vào sử dụng, hình thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung trên địa bàn của các huyện, xã trong tỉnh.

Loại hình và cơ cấu sản xuất của KTTT đang chuyển dịch theo hướng: giảm tỷ trọng chuyên ngành trồng trọt, tăng dần số trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp. Mục tiêu của KTTT là lợi nhuận kinh doanh, do đó phổ biến các trang trại đều áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh.

Ở vùng ngoại thành TP Bắc Ninh, vùng trung tâm các huyện, thị xã trong tỉnh, các trang trại trồng trọt đã chuyển từ sản xuất các cây trồng ngắn ngày, có giá trị thấp, sang trồng hoa, cây cảnh trong nhà lưới cho hiệu quả kinh tế cao. Ðiển hình là các trang trại ở thôn Giói Tế, xã Phù Lâm, huyện Tiên Du; trang trại Thu Thủy chuyên trồng hoa ở xã Ðình Bảng, thị xã Từ Sơn. Nhiều trang trại chăn nuôi lợn nái ngoại, lợn thịt siêu nạc xuất khẩu hoặc chăn nuôi gà, thủy cầm theo quy trình công nghiệp; nuôi trồng thủy sản theo phương pháp thâm canh, tăng năng suất, sản lượng.

Chúng tôi về thôn Guột, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ gặp ông Nguyễn Ðức Cao, chủ trang trại nổi danh về chăn nuôi lợn và thủy sản. Ông Cao cho biết, năm 2002, ông đã sử dụng toàn bộ gần 0,72 ha ruộng chân vàn đổi lấy 1,2 ha ruộng khu đồng trũng của 12 hộ trong thôn để lập trang trại.

Bằng số vốn huy động, ông Cao đã đầu tư 500 triệu đồng vào việc xây dựng hai khu chuồng trại chăn nuôi lợn thịt, bảo đảm nuôi ba lứa lợn thịt với quy mô khoảng 500 con lợn/năm và hai ao với diện tích 0,72 ha nuôi cá theo phương thức thâm canh. Năm 2006, trang trại này đã sản xuất được 35 tấn lợn thịt, gần 20 tấn cá các loại. Năm nay, ông Cao dự kiến thu 700 triệu đồng, trong đó thu từ nuôi cá 300 triệu đồng, thu từ bán lợn 400 triệu đồng. Từ năm 2003 đến năm 2007, trang trại thu được 560 triệu đồng tiền lãi. Sau khi trừ 500 triệu đồng vốn đầu tư ban đầu còn lãi ròng tới 60 triệu đồng. Ðó là chưa tính giá trị toàn bộ tài sản trang trại hiện có.

Ông Nguyễn Trí Nghệ, Chủ tịch Hội Nông dân, kiêm Phó trưởng Ban khuyến nông xã Việt Hùng cho hay: Ðến nay, thôn Guột đã hình thành vùng chuyên canh tập trung với quy mô rộng 60 ha được tổ chức sản xuất theo mô hình KTTT của ông Cao hoặc mô hình gia trại, sản phẩm hàng hóa chính là lợn thịt và cá các loại.

Kết quả điều tra về KTTT của Chi cục HTX và phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh cho thấy: Năm 2007, mức doanh thu bình quân đạt khoảng 156 triệu đồng/trang trại, tăng 6,5% so với năm 2002 và tăng 3,2% so với năm 2006. Giá trị sản phẩm hàng hóa/ha diện tích đất và mặt nước sử dụng phát triển KTTT đạt hơn 230 triệu đồng, đạt mức cao nhất trong nông nghiệp hiện nay.

Ở khu vực nông thôn, lực lượng KTTT đã thu hút và tạo việc làm cho hơn 5.300 lao động ở lứa tuổi từ 35 đến 40 trở lên. Trong đó có gần 4.300 lao động có việc làm thường xuyên; số còn lại là lao động thời vụ. Hằng tháng, mức thu nhập bình quân của lao động làm KTTT đạt hơn 1,2 triệu đồng/người, tăng hai lần so với mức thu nhập của lao động trong ngành nông nghiệp, thủy sản và tăng 1,6 lần so với lao động nông thôn.

Hiện nay, quỹ đất nông nghiệp của Bắc Ninh vào loại ít nhất so với các địa phương trong cả nước, lại có xu hướng giảm dần trước yêu cầu phát triển các khu, cụm công nghiệp và đô thị hóa. Dân số tiếp tục tăng hơn. Số lao động dôi dư, thiếu việc làm đang diễn ra khá gay gắt.

Trong khi việc đầu tư đào tạo nghề mới cho người lao động, phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp và hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp, v.v... còn rất hạn hẹp, chưa đủ sức giải quyết việc làm tại chỗ trong khu vực nông thôn thì phát triển KTTT và chuyển dịch cơ cấu sản xuất KTTT theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hóa là giải pháp góp phần thiết thực vào việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn.

Vị thế của KTTT là vậy nhưng trên địa bàn tỉnh, KTTT đang gặp những khó khăn, hạn chế và những vấn đề nảy sinh gây bức xúc trong đời sống xã hội. Trước hết là quy mô về diện tích đất đai, lao động làm việc trong các trang trại, vốn đầu tư phát triển còn quá nhỏ bé.

Hiện nay diện tích đất nông nghiệp bình quân chỉ có 0,6 ha/trang trại, bằng một phần ba so với các trang trại trong vùng và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nên các chủ trang trại chưa thật sự yên tâm đầu tư phát triển. KTTT mới chỉ sử dụng và tạo việc làm cho gia đình, chưa có điều kiện tạo nhiều việc làm cho lao động nông thôn. Trình độ quản lý và chuyên môn kỹ thuật của chủ trang trại và lao động làm KTTT còn thấp, ảnh hưởng việc tiếp thụ và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quản lý, sản xuất kinh doanh.

Trong khi đó việc vay vốn ngân hàng gặp nhiều khó khăn, mức vay vốn thấp, lãi suất cao, thời hạn ngân hàng cho trang trại vay vốn chưa phù hợp chu kỳ sản xuất, kinh doanh, chưa tạo điều kiện cho các trang trại đầu tư phát triển lâu dài. Sản phẩm nông sản hàng hóa của KTTT chủ yếu ở dạng thô, chưa qua chế biến nên sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường còn thấp, khó khăn cho việc tiêu thụ.

Mặt khác, giá các loại vật tư nông nghiệp, giống cây trồng, vật nuôi, thức ăn chăn nuôi gia súc và nuôi trồng thủy sản... đầu vào sản xuất tăng lên rất nhanh, làm tăng chi phí, tăng giá thành sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Về môi trường sản xuất, nhiều nơi vẫn còn tình trạng các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm vẫn tồn tại xen kẽ trong các khu dân cư, chất thải chưa được xử lý, môi trường bị ô nhiễm nặng, ảnh hưởng trực tiếp công tác phòng và chống dịch bệnh cho người và gia súc. Các trang trại nuôi trồng thủy sản chưa có hệ thống cấp, thoát nước và xử lý nước thải, dễ xảy ra dịch bệnh gây bức xúc trong đời sống, xã hội nông thôn.

HOÀNG HIỂN

Các tin mới:

21/11/2008
21/11/2008
21/11/2008
21/11/2008
21/11/2008
21/11/2008
21/11/2008
21/11/2008
21/11/2008

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang