Nguồn tin: TT, 11/05/2008
Ngày cập nhật:
12/5/2008
Cơn sốt gạo sau mấy ngày gây hoang mang đã chấm dứt vào giữa tuần qua, nhưng dư luận vẫn âm ỉ một vấn đề rất hệ trọng, đó là vai trò của Nhà nước trong chiến lược sản xuất nông nghiệp khi chúng ta đang là nước thứ ba trên thế giới về xuất khẩu gạo (4 triệu tấn/năm), sau Thái Lan (8,7 triệu tấn) và Ấn Độ (5,5 triệu tấn).
Đến bây giờ có thể khẳng định một điều là lúa gạo của chúng ta không thiếu. Chỉ riêng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), vùng trọng điểm lương thực của cả nước, vụ đông xuân vừa qua đã trúng lớn với 9,6 triệu tấn lúa, vụ hè thu tới đây dự kiến 7,5 tấn, tổng cộng cả hai vụ thu hoạch khoảng 17 triệu tấn tương đương 9 triệu tấn gạo. Đó là chưa kể các vùng trồng lúa khác như Tây Ninh, Quảng Ngãi, Quảng Nam cũng được mùa.
Trên bình diện cả nước, sản lượng lương thực năm nay dự kiến lên đến 37 triệu tấn lúa và màu. Trong khi đó chỉ tiêu xuất khẩu gạo của Việt Nam năm nay chỉ từ 3,5 đến 4 triệu tấn, trong đó đến hết tháng 9-2008 cũng chỉ được ký hợp đồng không quá 3,2 triệu tấn và đã giao 1,2 triệu tấn. Hiện nay lượng gạo xuất khẩu đang tồn kho của các doanh nghiệp là hơn 1,1 triệu tấn.
Không mấy khó khăn để tìm nguyên nhân của cơn sốt gạo vừa qua.
Trước hết, những thông tin dồn dập về tình trạng thiếu hụt lương thực trên thế giới đã tác động vào tâm lý nhiều người trong nước về một nỗi lo - rất vô lý - là thiếu gạo.
Thứ hai là do yếu tố đầu cơ trục lợi. Điều này càng dễ nhận ra hơn khi có tin sau tháng 6-2008 việc ngưng xuất khẩu gạo có thể được giải tỏa, là cơ hội cho không ít doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận do nhu cầu và giá gạo trên thị trường thế giới vẫn ở mức cao. Đó là chưa kể, gần đây một số kẻ xấu đã tung tin thất thiệt về khả năng mất cân đối lương thực trong nước để thu gom lúa gạo nhằm mục đích đầu cơ, lợi dụng chênh lệch giá gạo trong và ngoài nước để buôn lậu qua biên giới.
Nhưng trên tất cả, tác nhân chính gây nên tình trạng rối rắm vừa qua, thậm chí còn có thể lặp lại trong thời gian tới, chính là do khâu bảo quản, dự trữ và phân phối lúa gạo của chúng ta còn quá yếu.
Cần trở lại với hoạt động kinh doanh lúa gạo trước năm 1975 tại ĐBSCL để nhìn rõ hơn những khiếm khuyết của chúng ta hiện nay trong lĩnh vực này.
Vào thời kỳ ấy, các công ty kinh doanh lúa gạo là của tư nhân với tên gọi dân gian quen thuộc là “chành” bao gồm bộ phận cung cấp vật tư, nhà máy xay xát, kho chứa và một mạng lưới “hàng xáo” về tận đồng ruộng để mua lúa của nông dân. Đây cũng là nơi mà nông dân có thể tin cậy đưa lúa đến bảo quản và sử dụng khi cần. Trải qua hàng trăm năm, các chành này hoạt động có hiệu quả dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và là nơi cung cấp gạo cho hệ thống phân phối lương thực nội địa cũng như xuất khẩu.
Sau năm 1975, các đợt cải tạo đã xóa sạch hệ thống chành ở ĐBSCL, hoạt động này được giao cho các cơ quan nhà nước cấp tỉnh, huyện, với các trạm thu mua lương thực, nhà máy xay xát, cửa hàng vật tư nông nghiệp; tất cả đều hoạt động trong cơ chế bao cấp. Đến khi nền kinh tế chuyển đổi - vào giữa thập niên 80 của thế kỷ trước - thì hàng loạt công ty lương thực các địa phương ra đời, hoạt động trong một thị trường chưa hoàn chỉnh khiến người nông dân luôn chịu thiệt thòi ngay cả khi được mùa. Câu nói đầu môi hồi ấy là “lúa gạo đầy kho mà nỗi lo vẫn nặng trĩu”, do sức ép của vốn vay ngân hàng để trang trải cho các chi phí sản xuất ra hạt lúa, cũng như trước điệp khúc “được mùa mất giá” tái diễn nhiều năm liền.
Các công ty kinh doanh lương thực nói trên thừa hưởng tất cả cơ sở vật chất của hệ thống thu mua thời bao cấp để mua bán lương thực trong nước và xuất khẩu. Do thiếu đầu tư về kho chứa, nhà máy xay xát, nên mua đến đâu bán đến đó, lại do mục tiêu lợi nhuận nên mua giá thấp bán giá cao vì nông dân ít nắm được thông tin về giá cả. Vì thế mỗi khi có biến động giá lương thực thì các đơn vị kinh doanh lương thực của Nhà nước không có hàng để bình ổn trên quy mô lớn và gây không ít lúng túng cho kế hoạch xuất khẩu.
Trong khi đó, Quỹ dự trữ Quốc gia cũng chưa thiết lập kho dự trữ đều khắp tại các địa phương, đặc biệt là ở vùng trọng điểm lương thực. Hiện nay, ở các địa phương chỉ có kho chứa của những công ty lương thực phục vụ cho mục đích kinh doanh mà chưa có kho dự trữ phục vụ cho mục đích điều tiết lương thực trong mùa giáp hạt, mua lúa vào mùa thu hoạch để nông dân không bị ép giá, rồi khi lương thực được giá thì đem bán hoặc xuất khẩu.
Một vấn đề khác đặt ra cho hạt gạo xuất khẩu của chúng ta là những tổn thất sau thu hoạch thuộc vào loại cao nhất tại châu Á. Kết quả của một số nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch lúa của Việt Nam khoảng từ 13 đến 16% (ở Ấn Độ chỉ 3 - 3,5%, Bangladesh 7%, Pakistan 2 - 10%, Indonesia 6 - 17%...). Trong đó ba khâu tổn thất lớn nhất là phơi sấy, bảo quản và xay xát, do thiếu phương tiện làm khô, kho bảo quản nghèo nàn và thiết bị xay xát còn lạc hậu. Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hồ Xuân Hùng, đây là con số “khủng khiếp và không thể chấp nhận được”, nếu so với mức tăng trưởng hàng năm của ngành nông nghiệp chỉ đạt từ 3 đến 4%.
Khâu tồn trữ cũng đang là một vấn nạn. Với sản lượng lương thực hơn 36 triệu tấn/năm mà đến nay chúng ta chưa có hệ thống kho chứa lương thực hiện đại (silo) là điều khó chấp nhận. Trên thế giới, việc tồn trữ trong sản xuất và tiêu thụ nông sản nói chung và lúa gạo nói riêng luôn được ưu tiên, vì nó góp phần quan trọng trong việc hạ giá thành sản phẩm, điều tiết lưu thông xuất khẩu, mang lại lợi ích thiết thực cho nhà sản xuất, người nông dân và dự trữ quốc gia.
Hiện nay ba hệ thống silo ở Sóc Trăng, Cần Thơ và Đồng Tháp do FAO và UNDP viện trợ từ mấy chục năm trước chỉ có tổng công suất 30.000 tấn. Nếu vòng quay sử dụng đạt mỗi tháng một lần cũng chỉ mới đủ bảo quản cho 360.000 tấn lúa gạo một năm, trong khi sản lượng của vùng ĐBSCL lên đến gần 19 triệu tấn lúa trong năm qua.
Do không đủ phương tiện bảo quản sau thu hoạch, không ít nông dân nghèo đành chấp nhận bán lúa non trên đồng ruộng ngay khi vừa thu hoạch xong. Trung nông thì cất giữ lúa hàng hóa trong những bồ chứa gia đình có sức chứa giới hạn. Hình ảnh lúa được phơi đầy trên các trục lộ giao thông hiện nay vẫn phổ biến tại ĐBSCL sau mỗi mùa thu hoạch.
Một khi không có hệ thống bảo quản, chế biến tốt thì việc dự trữ cho nhu cầu an ninh lương thực gặp khó khăn và bị động theo mùa vụ. Trong khi đó thì Tổng công ty Lương thực không đủ khả năng thực hiện tốt vai trò điều tiết thị trường, các nhà xuất khẩu không thể giữ lúa gạo để chờ đợi đến khi giá thị trường thế giới biến động có lợi.
Không hiểu sao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dù đã có chủ trương nhưng đến nay vẫn chưa có một kế hoạch cụ thể nào giải quyết nhu cầu trên đây, trong khi nhà đầu tư nước ngoài rất ngại đầu tư xây dựng silo khi họ chưa được quyền xuất khẩu gạo. Theo tính toán, số tiền đầu tư cho một hệ thống silo 10.000 tấn lên đến 3,7 triệu USD và tình hình xuất khẩu gạo hiện nay cần ít nhất khoảng 40 hệ thống silo như vậy.
Những hệ thống silo trải đều tại các địa phương vùng trọng điểm lương thực sẽ là một tiềm năng rất lớn dành cho các nhà đầu tư trong nước và cả nước ngoài, vừa giúp nông dân cải thiện cuộc sống vừa giúp doanh nghiệp không bị động về giá cả, mà ngược lại có thể chủ động tìm kiếm lợi nhuận tối đa trên thị trường gạo thế giới thay vì ép giá nông dân trong nước như lâu nay.
Thành quả của nông nghiệp sẽ mất đi rất nhiều ý nghĩa nếu nông dân không được hưởng thụ công bằng những giá trị mình làm ra. Thật không đơn giản chút nào khi quan điểm bảo vệ lợi ích nông dân chỉ là thửa ruộng, mảnh vườn để canh tác. Điều quan trọng là họ thu được gì trên diện tích bình quân đầu người chỉ 0,225 hecta như lâu nay? Đó là vấn đề chính sách, là những thách thức về phúc lợi xã hội, là chuyển đổi cơ cấu lao động ở nông thôn, đặc biệt trong tình hình năng suất lao động bình quân của ngành nông nghiệp hiện nay chỉ bằng 1/9 nhóm ngành dịch vụ và 1/8 nhóm ngành công nghiệp.
Theo THANH VŨ
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.