Nguồn tin: Báo Cần Thơ, 10/10/2013
Ngày cập nhật:
12/10/2013
Thực hiện bảo hiểm nông nghiệp là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, có ý nghĩa to lớn và thiết thực trong xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương, nhất là vùng nông thôn vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, quá trình thí điểm bảo hiểm nông nghiệp ở một số tỉnh ĐBSCL cũng cho thấy còn nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ.
* Góp phần phát triển nông nghiệp bền vững
ĐBSCL có tổng diện tích đất khoảng 3,96 triệu ha; trong đó, khoảng 2,60 triệu ha được sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản; trong đó có hơn 300.000 ha có khả năng nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ. Thủy - hải sản cũng là nguồn lợi kinh tế lớn và quan trọng của các địa phương vùng ven biển.
Chăm sóc ao nuôi tôm thẻ chân trắng ở tỉnh Sóc Trăng. Ảnh: XU N TRƯỜNG
Tuy nhiên, vùng ĐBSCL còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển nông nghiệp, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, nhất là nông dân, bởi với gần một nửa diện tích bị ngập lũ từ 3-4 tháng mỗi năm, cùng với thiên tai, dịch bệnh trên cây lúa, thủy sản xảy ra hàng năm,… Năm 2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 315/QĐ-TTg ngày 01-3-2011 thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2011-2013 đối với 7 tỉnh vùng ĐBSCL; trong đó, thực hiện bảo hiểm đối với cây lúa tại 2 địa phương là An Giang và Đồng Tháp, thực hiện bảo hiểm đối với nuôi trồng thủy sản cá tra, cá ba sa, tôm sú, tôm chân trắng tại các tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu và Cà Mau. Thời gian thực hiện từ ngày 01-7-2011 đến hết năm 2013. Mục đích của thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp nhằm hỗ trợ cho người sản xuất nông nghiệp chủ động khắc phục và bù đắp thiệt hại tài chính do hậu quả của thiên tai, dịch bệnh gây ra, góp phần bảo đảm ổn định an sinh xã hội nông thôn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Có 4 mức hỗ trợ, gồm: hỗ trợ 100% phí bảo hiểm cho hộ nông dân, cá nhân nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm bảo hiểm nông nghiệp; hỗ trợ 80% phí bảo hiểm cho hộ nông dân, cá nhân cận nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm bảo hiểm nông nghiệp; hỗ trợ 60% phí bảo hiểm cho hộ nông dân, cá nhân không thuộc diện nghèo, cận nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm bảo hiểm nông nghiệp; hỗ trợ 20% phí bảo hiểm cho tổ chức sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm bảo hiểm nông nghiệp.
Quyết định số 315 của Thủ tướng được các địa phương vùng ĐBSCL khẩn trương triển khai thực hiện ngay từ những tháng cuối năm 2011. UBND 7 tỉnh đều có thành lập Ban Chỉ đạo, xây dựng kế hoạch triển khai, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng tổ chức, cá nhân thực hiện; thành lập các tổ giúp việc, tổ giám sát,... Đối với bảo hiểm nuôi trồng thủy sản cá tra, cá ba sa, tôm sú, tôm chân trắng tại các tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu và Cà Mau, các địa phương đã chọn 51 xã và 5 huyện, thành phố tham gia thực hiện thí điểm, với tổng số 9.333 hộ gia đình và tổ chức tham gia, trong đó có khoảng 3.500 hộ nghèo và cận nghèo; diện tích tham gia bảo hiểm khoảng hơn 11.000 ha; trong đó diện tích lúa tham gia bảo hiểm hơn 6.000 ha tại 2 tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Tổng số tiền bảo hiểm khoảng 2.000 tỉ đồng, trong đó phí bảo hiểm chiếm khoảng 400 tỉ đồng. Đối với bảo hiểm trên cây lúa tại hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp, hai địa phương này đã chọn 6 huyện tham gia để thí điểm, gồm Thoại Sơn, Châu Phú và An Phú của An Giang; Tháp Mười, Châu Thành và Tân Hồng của Đồng Tháp, với khoảng hơn 11.400 lượt hộ tham gia; tổng diện tích tham gia bảo hiểm khoảng hơn 6.600 ha. Đến cuối tháng 7-2013, có 9.333 hợp đồng bảo hiểm đã được đơn vị bảo hiểm (Công ty Bảo Minh, Công ty Bảo Việt) ở địa phương ký kết với các hộ.
Theo đánh giá của các địa phương trong vùng, các chính sách về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, trong đó có chính sách hỗ trợ của Nhà nước về phí bảo hiểm trong bảo hiểm nông nghiệp, có ý nghĩa hết sức to lớn và quan trọng đối với phát triển bền vững nông nghiệp, an sinh xã hội và đời sống nhân dân nông thôn; giúp nông dân giảm bớt khó khăn do hậu quả thiên tai, dịch bệnh gây ra, tạo công cụ cho người nông dân quản lý rủi ro và tìm kiếm nguồn tài chính bù đắp thiệt hại. Việc thí điểm bảo hiểm cũng tạo cơ hội cho người dân nuôi tôm và sản xuất lúa tiếp cận cách sản xuất mới, áp dụng quy trình kỹ thuật trong sản xuất, hướng đến sự hợp tác cao hơn trong cộng đồng, nâng cao ý thức về mùa vụ sản xuất, tham gia bảo vệ môi trường, tiến tới xây dựng vùng sản xuất, nuôi trồng có tính bền vững cao.
* Còn nhiều vướng mắc
Qua hơn một năm thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đã giải quyết bồi thường thiệt hại cho hơn 4.000 hộ trong tổng số hơn 6.400 hộ bị thiệt hại, với số tiền hơn 280 tỉ đồng. Tuy nhiên, vẫn còn hơn 2.150 hồ sơ bảo hiểm, với số tiền bồi thường hơn 120 tỉ đồng, chưa được đơn vị bảo hiểm xem xét giải quyết; nhiều nhất là ở Cà Mau và Sóc Trăng.
Ở Cà Mau, đến cuối tháng 7-2013, Công ty Bảo Minh Cà Mau đã ký 1.866 hợp đồng với nông dân; trong đó tôm sú 178 hợp đồng, tôm chân trắng 1.688 hợp đồng, với 31 hộ nghèo, 15 hộ cận nghèo, các diện còn lại 1.820 hộ; diện tích nuôi gần 714 ha. Từ năm 2012 đến cuối tháng 7-2013, Công ty Bảo hiểm Bảo Minh Cà Mau đã tiếp nhận thông tin khai báo tôm bị thiệt hại là 1.740 vụ. Đã xem xét giải quyết bồi thường 600 vụ, với diện tích bị thiệt hại gần 200 ha, số tiền bồi thường trên 35 tỉ đồng. Tuy nhiên, vẫn còn đến hơn 1.200 vụ, tổng số tiền bồi thường ước tính 76,5 tỉ đồng, chưa được Công ty Bảo Minh bồi thường. Tương tự, đến cuối tháng 1-2013, Công ty Bảo hiểm Bảo Việt Sóc Trăng đã ký 3.447 hợp đồng với nông dân; với diện tích nuôi hơn 2.686 ha. Tuy nhiên, trong tổng số 3.156 vụ đã xác định thiệt hại (khoảng hơn 195,6 tỉ đồng), đơn vị bảo hiểm cũng chỉ mới xem xét giải quyết bồi thường 2.135 vụ, với số tiền bồi thường là 89,5 tỉ đồng; còn trên 1.000 hồ sơ chưa được bồi thường. Các tỉnh khác như Trà Vinh còn 1 trường hợp đang xem xét bồi thường. Bạc Liêu diện tích đang xem xét bồi thường là 12,36 ha, với số tiền bồi thường là 2,3 tỉ đồng…
Cũng theo UBND các tỉnh trong vùng, các chính sách thực hiện thí điểm bảo hiểm trong nông nghiệp chưa hoàn chỉnh và chưa sát với thực tế địa phương nên trong quá trình thực hiện còn nhiều khó khăn, vướng mắc giữa quy định của cơ quan có thẩm quyền và thực tế sản xuất, nuôi trồng ở địa phương. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân triển khai thực hiện còn lúng túng; thủ tục bảo hiểm còn phức tạp. Bên cạnh đó, một số quy định vẫn chưa hợp lý đã gây nhiều bức xúc cho nông dân tham gia bảo hiểm. Điển hình như trước đây, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 2114/QĐ-BTC ngày 24-8-2012 quy định tỷ lệ phí bảo hiểm nuôi tôm thâm canh từ 7,42% lên 9,72%; doanh nghiệp bảo hiểm có quyền từ chối bồi thường hoặc từ chối một phần, nếu mật độ tôm thực tế thấp hơn 80% so với mật độ trong giấy chứng nhận bảo hiểm, tôm chết không đồng nhất về kích cỡ được xác định nhiều loại độ tuổi cùng nuôi trong một cơ sở nuôi trồng. Tuy nhiên, ngày 23-7-2013 Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 1725, tiếp tục nâng mức phí bảo hiểm đối với tôm từ 9,72% lên 13,73%, như vậy sẽ gây khó khăn cho những hộ nuôi những vụ trước bị thiệt hại. Đơn vị thực hiện là Công ty Bảo Việt hoạt động theo cơ chế kiêm nhiệm là chính, lực lượng chuyên trách thiếu và yếu, chưa có kinh nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ; Công ty Bảo Minh ban hành quy tắc một số nội dung chưa phù hợp thực tế, nên lúng túng, xử lý chưa phù hợp quy định, gây bức xúc cho người tham gia bảo hiểm. Cụ thể: Theo hợp đồng với người dân, trong thời hạn 1 tháng kể từ khi bị thiệt hại nếu đầy đủ hồ sơ, thủ tục phải bồi thường cho người dân, nhưng có những trường hợp bị thiệt hại trên 6 tháng vẫn chưa được công ty bồi thường. Không chỉ thế, công ty còn tự ý trừ 30% giá trị hợp đồng và thương lượng với người dân để giảm trừ từ 15%-60% giá trị của hợp đồng được bồi thường,... Ngoài ra, một số hộ nuôi chưa tuân thủ việc ghi nhật ký ao nuôi, chứng từ đầu tư, giấy kiểm dịch giống. Các hộ nghèo được nhà nước hỗ trợ đầu tư nên phát sinh tâm lý ỷ lại, thiếu tuân thủ quy trình kỹ thuật, thả giống với mật độ quá dầy, nên nguy cơ phát sinh dịch bệnh cao.
Đối với những khó khăn của các địa phương, hiện tại các tỉnh ven biển thực hiện thí điểm bảo hiểm đối với tôm chưa có quy trình xét nghiệm, chuẩn đoán bệnh hoại tử gan tụy cấp trên con tôm, mà chỉ xác định bằng phương pháp kiểm tra lâm sàng, gây khó khăn cho cơ quan Thú y của tỉnh trong việc xác định dịch bệnh.
Đối với bảo hiểm nông nghiệp trên cây lúa tại An Giang và Đồng Tháp, một số cán bộ, đảng viên có đất canh tác tại các huyện thí điểm chưa thể hiện tinh thần nêu gương đi tiên phong trong việc thực hiện; các quy định về bảo hiểm nông nghiệp trên cây lúa còn mang tính tổng thể trên phạm vi rộng lớn, chưa phù hợp cho từng cá nhân hộ tham gia, các quy định về bồi thường còn nhiều phức tạp, tốn nhiều thời gian làm giảm sự tin tưởng của nông dân tham gia bảo hiểm, như: có thiệt hại xảy ra, nhưng phải chờ đến cuối vụ lúa, khi thống kê công bố năng suất mới bồi thường,…Còn nhiều tác nhân thiệt hại trên lúa, như mưa lớn bất thường, triều cường gây ngập úng, ốc bươu vàng, chuột... chưa được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bổ sung vào đối tượng thiên tai, dịch bệnh thuộc phạm vi bảo hiểm nông nghiệp trên cây lúa…
Để tiếp tục phát triển, nhân rộng chính sách bảo hiểm này, đồng thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, lãnh đạo các địa phương cho rằng Bộ Tài chính cần sớm rà soát lại những văn bản đã ban hành có nội dung chưa phù hợp với thực tế địa phương, có sửa đổi, bổ sung; chỉ đạo các Tổng Công ty Bảo hiểm thực hiện bồi thường đúng theo giá trị hợp đồng và thời gian hợp đồng đã ký với các hộ dân, không được tự đặt ra mức phần trăm khấu trừ giá trị hợp đồng được bồi thường với người dân. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục sửa đổi, bổ sung Thông tư số 47/2011/TT-BNNPTNT ngày 29-6-2011 theo hướng các hộ tham gia thí điểm bảo hiểm nông nghiệp phải có giấy chứng nhận kiểm dịch của cơ quan địa phương nơi thí điểm bảo hiểm chứng nhận; căn cứ bắt buộc bồi thường thiệt hại khi dịch bệnh xảy ra, chủ hộ nuôi tôm tham gia bảo hiểm phải có giấy chứng nhận kiểm dịch đốm trắng, đầu vàng, MBV đối với tôm sú; đốm trắng, đầu vàng, MBV và Taura đối với tôm chân trắng. Bộ cần sớm ban hành quy trình xét nghiệm bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, cá nhân, tổ chức và hộ gia đình tham gia bảo hiểm. Các địa phương cũng kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có tổng kết, đánh giá việc thực hiện bảo hiểm nông nghiệp để ban hành chính sách ổn định, lâu dài (không còn thí điểm) và nhân rộng các địa phương toàn vùng ĐBSCL triển khai thực hiện.
Tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn vùng ĐBSCL đạt hơn 270.340 tỉ đồng
Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ cho biết, qua 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn vùng ĐBSCL giai đoạn đạt hơn 270.340 tỉ đồng. một số địa phương có vốn đầu tư cao như: Bạc Liêu hơn 61.711 tỉ đồng, Trà Vinh 54.548 tỉ đồng, Đồng Tháp 52.419 tỉ đồng, Kiên Giang 23.670 tỉ đồng, Sóc Trăng 18.161 tỉ đồng, Hậu Giang 14.600 tỉ đồng,...
Cũng trong khoảng thời gian này, các ngân hàng trên địa bàn vùng ĐBSCL, nhất là các ngân hàng thương mại nhà nước, đã có những chính sách ưu đãi cho việc phát triển nông nghiệp, nông thôn; thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về cho vay xây dựng nông thôn mới; các chương trình cho vay theo chỉ định của Chính phủ. Dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL giai đoạn 2009-2013 đạt 117.489 tỉ đồng, chiếm tỷ trọng gần 41% tổng dư nợ ở các tổ chức tín dụng.
Xuân Quang
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.