• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Nâng cao trách nhiệm và năng lực của mỗi “nhà”

Nguồn tin:  Báo Nghệ An, 15/05/2013
Ngày cập nhật: 16/5/2013

Có thể nói hiệu quả rõ nhất trong thực hiện liên kết 4 nhà theo Quyết định 80/TTCP năm 2002 tại Nghệ An, là nông dân đã tiếp cận với cách sản xuất chuyên nghiệp, tiêu thụ hàng hóa lớn thông qua hợp đồng. Như vậy, cơ bản có thể tiếp tục định hướng phát huy vai trò các “nhà” trong thời gian tiếp theo. Trong đó nổi lên yêu cầu cơ bản là giải quyết những khúc mắc về giá, về thu mua, ép cấp… trong quan hệ giữa nhà nông và nhà máy.

Thời gian gần đây, người trồng rừng ở nhiều huyện như Con Cuông, Tương Dương, Anh Sơn, Quỳ Châu… đang lo lắng khi mà đầu ra cho cây nguyên liệu bị ách tắc, khó tiêu thụ.

Khi nhà máy bột giấy Tân Hồng được xây dựng đồ sộ, hoành tráng, cán bộ nhà máy xuống tận nhà dân thuyết phục, người dân Môn Sơn, Mậu Đức - Con Cuông đã chặt hết cây mét - là cây trồng hiệu quả nhất ở đây để chuyển sang trồng keo nguyên liệu cho nhà máy này. Nhưng nay nhà máy này đóng cửa, cả ngàn ha keo của Môn Sơn, Chi Khê, Đôn Phục… đều không có ai thu mua, đứng già. Anh Nguyễn Vinh ở bản Hợp Thành - Đôn Phục bức xúc: Gia đình có hơn 3 ha keo đã quá 2 năm tuổi, nhưng cũng chỉ mới bán được 1 ha với giá rẻ như củi. Giá bình quân hơn 10.000 đồng/cây keo lai. Bên cạnh đó, xã Mậu Đức có trên 400 ha cây nguyên liệu chưa thu hoạch được.

Cây chè là cây xóa đói giảm nghèo bền vững cho nông dân bởi chu kỳ kinh doanh kéo dài, tuy nhiên diện tích vùng nguyên liệu hằng năm vẫn khó mở rộng. Nguyên nhân là đầu tư của doanh nghiệp chưa thu hút người nông dân. Người trồng chè ở Thanh Chương cho biết thêm: Trong quá trình chăm sóc cho cây chè, Xí nghiệp thường hỗ trợ lãi suất để người dân mua các loại phân về chăm bón nhưng lại hỗ trợ chậm nên khi lấy về, ảnh hưởng đến phát triển, sinh trưởng của cây chè. Giá chè cũng gây băn khoăn cho người trồng. Giá chè mà chè Xí nghiệp chè Ngọc Lâm thu mua thấp so với giá tư thương mua ngoài. Cụ thể như hiện tại giá chè búp tư thương mua ngoài là trên 3000 đ/kg, trong khi giá xí nghiệp là 2.850 đ/kg. Bên cạnh đó, không ít xí nghiệp mua chè xong lại chậm trả tiền cho nông dân (XN chè Con Cuông), một tháng mới trả một lần, trong khi đó các xưởng chế biến chè ở ngoài mua chè lại trả ngay, vì vậy mà có nhiều hộ dân không muốn bán chè cho xí nghiệp.

Vào mùa cao điểm thu mua nguyên liệu, các vùng chè, mía vẫn có hiện tượng các xí nghiệp và tư thương mua chè ép giá, ép cấp dân. Các xưởng chế biến chè nhỏ ở Thanh Chương khá nhiều, các xưởng này chủ yếu chế biến không đảm bảo an toàn thực phẩm, không đầu tư nên thường hạ giá cạnh tranh không lành mạnh. Không ít nhà máy không đầu tư mà chỉ thu mua. Với cây sắn thì có những thời điểm giá sắn tăng lên người dân tự mở rộng diện tích, phá vỡ vùng nguyên liệu nên các nhà máy sắn ở Yên Thành, Thanh Chương có những thời điểm ứ đọng nguyên liệu. Đối với cây lạc chỉ mới có mô hình liên minh tiêu thụ lạc ở Diễn Thịnh do Dự án cạnh tranh nông nghiệp tài trợ, còn nhiều nơi người nông dân vẫn tự lo đầu ra.

Một thực tế nữa là trên một địa bàn, cùng một loại cây, nhưng giá mỗi nơi một khác. Đó là trường hợp cây mía. Nơi thì mua mía giá 900.000 đồng/tấn, nơi thì mua 870.000 đồng/tấn, nơi thì mua 850.000 đồng/tấn, gây bức xúc cho người dân. Trong liên kết lợi ích, mặc dù tính “thỏa thuận” là nguyên tắc cao nhất của hợp đồng, song hiện nay chủ yếu là ý chí của doanh nghiệp, nhà máy. Hợp đồng ký kết với nhà nông có nhiều điều khoản không có lợi cho nông dân. Chẳng hạn: thời hạn thu mua mía đến hết 30/4 hàng năm. Như vậy, nông dân cứ mòn mỏi chờ, mía thì trổ cờ, trời đã chuyển mùa hè. Khi mía được thu hoạch xong thì nông dân rất khó để trồng được cây trồng khác bởi đã hết thời vụ.

Ông Từ Đức Hà ở xóm 5, Nghĩa Hành (Tân Kỳ) có khoảng 30 tấn mía chưa được thu hoạch mặc đã đến 10/4/2013. Ông cho hay trong hợp đồng ký kết thời hạn thu mua mía là 30/4, nhưng giá như nhà máy thu mua sớm hơn bởi đây là khu vực lụt, mía non dễ gặp lụt không phát triển được. Trong hợp đồng cũng có những điều khoản ngặt nghèo đối với nông dân. Như chia mía, chè thành nhiều loại. Để rồi khi bán sản phẩm, nông dân rất ít khi bán được sản phẩm theo giá loại 1. Các biện pháp chia sẻ rủi ro giữa hai bên cũng ít được thực hiện trong thực tế. Khi giá đường cao, nhà máy lãi lớn nhưng nông dân vẫn chỉ bán được giá đã ký kết. Nhiều doanh nghiệp không có tiềm lực đã không ký kết ổn định lâu dài với nông dân, nên đã không thu hút được họ đầu tư thâm canh. Trong hợp đồng, các công ty, nhà máy đang chú trọng hơn về lợi ích của mình.

Xem xét ở mặt khác, thì phải thừa nhận một hạn chế của nhà nông khi tham gia vào liên kết “ 4 nhà”. Đó là: Việc tuân thủ hợp đồng đã ký kết giữa các nhà máy với nông dân chưa nghiêm, khi xẩy ra tranh chấp thiếu chế tài xử lý. Cụ thể như: nhiều hộ nông dân ký hợp đồng, nhận đầu tư vốn và kỹ thuật của doanh nghiệp (DN), nhưng khi có sản phẩm lại bán ra ngoài, dây dưa trong việc hoàn trả, chiếm dụng vốn của DN. Việc chấp hành các qui trình đầu tư, thâm canh của nhiều hộ chưa đúng yêu cầu, qui cách sản phẩm chưa đạt nên nông sản khó đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, nhất là đối với sản phẩm xuất khẩu. Trong sản xuất kinh doanh vẫn còn những tranh chấp, mâu thuẫn.

Nguyên nhân của tình trạng trên theo ông Hồ Ngọc Sỹ - Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Giám đốc Sở NN và PT NT Nghệ An, đó là trong sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp gặp nhiều khó khăn: Giá cả nông sản luôn biến động, thị trường tiêu thụ không ổn định, trong khi đó giá vật tư đầu vào liên tục tăng làm cho cả người sản xuất lẫn DN khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng. Do tính thời vụ, thời gian thu hoạch tập trung ngắn, trong khi đó công suất của một số nhà máy không đáp ứng được. Về chủ quan: Một số nhà máy do năng lực tài chính hạn chế đã không chủ động ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản cho nông dân một cách lâu dài, ổn định. Trình độ hiểu biết về hợp đồng kinh tế của một bộ phận nông dân còn hạn chế, nhiều hộ không thích sự ràng buộc, trách nhiệm.

Thời gian tới, để đẩy mạnh liên kết “4 nhà”, mấu chốt vẫn là Nhà nước và doanh nghiệp. Các DN cần có chính sách đầu tư phát triển vùng nguyên liệu bền vững, có chất lượng, đầu tư khoa học kỹ thuật vào vùng nguyên liệu. Giá cả thu mua hợp lý, có lợi cho người sản xuất trong tương quan so sánh với cây trồng khác. Nhà nước cần tăng cường công tác tuyên truyền để người dân và các DN, đơn vị thấy rõ được trách nhiệm của mình trong việc thực hiện hợp đồng đã ký kết. Khuyến khích DN và người dân ký hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hợp đồng phải có ràng buộc lẫn nhau giữa quyền và nghĩa vụ, hợp đồng có sự tham gia tích cực của chính quyền địa phương (Nhà nước) theo Quyết định số 80/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

UBND tỉnh cũng cần chỉ đạo các cơ quan chức năng có biện pháp hạn chế tình trạng DN ngoại tỉnh thu mua nguyên liệu theo hướng phá giá, làm hại đến DN và người sản xuất nguyên liệu.

Châu Lan - Văn Trường

Các tin mới:

16/5/2013
16/5/2013
16/5/2013
16/5/2013
16/5/2013
16/5/2013
16/5/2013
16/5/2013
16/5/2013

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang