• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Biến đất cằn thành trang trại

Nguồn tin:  Báo Khánh Hoà, 28/09/2011
Ngày cập nhật: 29/9/2011

Vùng đất Mã Rống dưới chân hồ Hoa Sơn (Vạn Long, Vạn Ninh, Khánh Hòa) từ lâu “nổi danh” là vùng đất cằn, trồng cây gì cũng không phát triển. Vậy mà ông Trần Hỏi (Long Hòa, Vạn Long), một nông dân trong tay “không một tấc sắt” đã dám “tuyên chiến” với mảnh đất này và chẳng bao lâu đã biến vùng đất này thành trang trại xanh tốt. Không chỉ giỏi cải tạo đất bạc màu, ông Hỏi còn là người biết tính toán làm ăn và đi đầu trong việc giúp đỡ bà con trong vùng sản xuất có hiệu quả.

“Hồi sinh” vùng đất cằn

Theo chân hai ông Trần Kỳ Hải - Chủ tịch Hội Nông dân (HND) xã và ông Võ Thông - Chi hội trưởng HND Long Hòa, chúng tôi tìm đến trang trại của ông Hỏi nằm không xa lòng hồ Hoa Sơn. Băng qua con đường đất với nhiều ụ rơm, chuồng bò, điều đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là diện tích sả xen lẫn cây sanh được trồng bạt ngàn. Tiếp mọi người bên ly trà nóng, ông Hỏi bắt đầu kể về những ngày đầu khai phá vùng đất này.

Những lúc thư thả, ông Hỏi tìm được “khoảng lặng” hiếm có.

“Tuy đây không phải là vùng đất đồi núi, mặt đất bằng phẳng nhưng quá xấu, đầy sỏi đá, lại nhiễm phèn nặng (đất sạn cốm) nên rất khó canh tác, trồng cây gì cũng không sống nổi. Những người đến đây lập nghiệp chỉ làm được một vài vụ rồi “chào thua”, ra đi để lại đất hoang, đất xấu. Bỏ ra một số tiền, tôi tậu lại với quyết tâm cải tạo thành đất trồng màu mỡ, phát triển trang trại nhưng ngày đó tôi cũng chưa hình dung nổi mình phải làm thế nào…” ông Hỏi trầm tư nhớ lại. Đi làm ở đâu, gặp ai ông cũng hỏi về cách cải tạo đất bạc màu. Xem ti vi chuyên mục “Nhà nông làm giàu”, ông học được cách mà nhiều nông dân cải tạo đất gò, mả hoang cằn cỗi. Thế là, ông tìm ra “công thức” để cải tạo đất bạc màu nhà mình một cách dễ làm nhưng tốn ít chi phí nhất. Ông Hỏi sôi nổi: “Đúc rút được những điều qua thực tế “tai nghe, mắt thấy”, tôi đã tổng hợp được một công thức mà từ đó có thể cải tạo được mảnh đất “cứng đầu” nhất của vùng đất này. Đó là, dùng rơm phủ kín lên đất, nuôi gà trên rơm để tạo nguồn phân bón, kết hợp tưới nước thường xuyên, sau cùng là trồng cây họ đậu tăng dinh dưỡng cho đất…”.

Bình quân mỗi năm cây sả cho thu nhập khoảng 70 triệu đồng, với diện tích 1 ha

Nghĩ là làm, ông Hỏi bắt đầu thuê công gánh rơm sau vụ gặt, rải kín mặt đất, phát triển đàn gà hàng trăm con, dùng rơm làm thức ăn nuôi gà, gà thải phân ra làm tốt cho đất. Hàng ngày, ông bơm nước tưới rơm, tạo độ ẩm, thúc đẩy rơm nhanh hoại mục, cộng với sức phân hủy của phân gà, tạo ra lớp đất trồng màu mỡ… Sau một năm, khi đất đã có “sức sống”, ông Hỏi bắt tay vào trồng cây họ đậu. Mùa mưa, ông tranh thủ trồng hai vụ đậu: một đậu xanh, một đậu phụng. Ngoài việc thu hoạch hoa màu, cây họ đậu còn để lại một khối lượng chất xanh sử dụng làm phân xanh rất tốt. Trồng đậu mùa mưa đỡ tốn kém chi phí bơm nước. Ông Hỏi phân tích: “Sử dụng phân trâu bò rất hiệu quả nhưng tốn kém hơn, bình quân mỗi cộ bò chi phí hết 150.000 đồng, mỗi héc-ta phải bón 15 - 20 cộ bò, giá thấp nhất cũng tốn 2 triệu đồng/ha. Trong khi vào vụ thu hoạch lúa, huy động 2 công lao động thu gom 10 ngày có trên 10 tấn rơm, tương đương 15 cộ bò nhưng giá chỉ hơn 2 triệu đồng. Đất có rơm giữ được ẩm, phân hủy làm tốt đất lại nuôi được đàn gà đông đảo mà không lo tìm kiếm nguồn thức ăn cho chúng. Chưa kể, phân trâu bò hay sinh cỏ, lại tốn chi phí diệt cỏ sau này…”.

Mặt ông bỗng giãn ra khi nhìn ra “cánh đồng” sả xanh tốt. Sau vài ba năm, đất đã “hồi sinh”, màu xanh trở về trên vùng đất hoang, ông Hỏi bắt đầu thử một loạt các loại cây trồng như: sanh, mận, sả, dừa, bưởi…, nhiều nhất là cây dừa để tìm kiếm cho được cây trồng “chủ lực” thích hợp với vùng đất này. Và cuối cùng ông đã “chọn mặt gửi vàng” với hai loại cây: sanh và sả. Ông Hỏi khẳng định: “Cây sanh hiện rất có giá, trồng sanh là hợp thời. Bình quân một năm, cây sanh cho thu nhập hơn 80 triệu đồng nhưng lại không tốn nhiều công sức. Còn cây sả là giống ngắn ngày, giá trị kinh tế cao hơn lúa rất nhiều. Bình quân mỗi năm cây sả cho thu nhập khoảng 70 triệu đồng, với diện tích 1 ha…”.

Nuôi gà chọi vừa cho lợi nhuận cao, vừa giúp ông cải tạo đất.

Ông Hỏi có cách làm rất độc đáo. Những ngày đầu trồng cây sanh, ông bỏ ra nhiều thời gian đến các nơi có tiếng về trồng cây cảnh như Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Bình Thuận… để học hỏi chủ nhân của những làng nghề đem về áp dụng. Ông mua sanh nhiều nhất từ Đại Lãnh (Vạn Ninh), kết hợp với sưu tầm, trao đổi với bạn bè, sau một thời gian chiết, ghép, phát triển cây, ông Hỏi đã có trong tay hơn 3.000 gốc sanh các loại. Gần đây, ông Hỏi đưa người con trai theo học lớp cây cảnh do HND tổ chức để trực tiếp phát triển vườn sanh. Đến trang trại của ông trong những ngày này, chúng tôi thấy nhiều cây sanh được bó rễ, tạo dáng, chuẩn bị đưa lên đá “ngồi”… Ngày ngày, ông Hỏi tranh thủ thời gian rỗi, thăm thú vườn sanh, tỉa tót tạo dáng cho cây như lấy lại “khoảng lặng” hiếm có sau bao năm cực khổ bươn chải vì “gánh nặng” mưu sinh. Vườn sanh của ông chẳng mấy chốc trở thành “gia tài” đồ sộ không phụ lòng người chủ nhân tháo vát. Đối với cây sả, ông Hỏi cho biết, sả là nông sản được tiêu thụ rất mạnh, thường xuyên, nhất là thị trường miền Trung và các tỉnh phía Bắc. Đây là giống sả trắng, cao sản, một ngày có thể cho thu hoạch hơn 4 tạ tươi. Kỹ thuật trồng sả khá đơn giản, 8 tháng trồng chỉ cần cắt 3 lần đọt là có kết quả củ sả trắng, đẹp. Sả là hương liệu cũng là chất đệm được các nhà hàng, khách sạn trong, ngoài tỉnh tiêu thụ mạnh, hàng ngày hàng trăm cân thịt cần đến hàng trăm củ sả để phối trộn thức ăn, tạo hương vị đặc biệt cho các món ăn. Sả của ông Hỏi được tư thương chọn mua bởi có chất lượng đặc biệt mà nơi khác không có. Củ sả sạch, trắng, thơm, chất lượng tốt. Đào củ xong, làm sạch rễ, rửa sạch, để ráo, đưa vào đóng bao, sau một đêm sáng hôm sau mới xuất nên củ sả khi lấy ra còn tươi rói, để 3 ngày vẫn tươi. Ông Hỏi tự hào: “Sả tui trồng thương lái rất thích, lúc đầu người ta lấy những nơi khác nhưng sau đó biết được chất lượng sả nơi này bèn dừng những nơi khác, chỉ tập trung lấy sả ở đây, khi nào hết mới sang chỗ khác lấy…”.

Nói đến cây trồng chủ lực mà không nói đến đàn gà ở trang trại của ông Hỏi thì quả là thiếu sót. Chính đàn gà của ông Hỏi đã theo ông vượt qua gian khó những ngày đầu khai phá mảnh đất hoang. Ông Hỏi tâm đắc: “Con gà đã theo tôi suốt hành trình và cho mãi đến giờ, con gà vẫn đem lại nguồn lợi lớn. Không chỉ là “cái máy” giúp tôi cải tạo đất bạc màu, gà còn cho nguồn thu đáng kể, giúp tôi xoay xở lúc khó khăn khi chưa có nguồn thu…”. Hiện đàn gà của ông thường xuyên có hơn 200 con, một năm thu lợi từ đàn gà không dưới 70 triệu đồng. Cách nuôi gà của ông cũng có nhiều nét độc đáo. Ông Hỏi tâm đắc: “Nuôi gà ta ăn thóc lúa, bình quân 2 kg cũng chỉ thu 150 ngàn đồng, nhưng nếu nuôi gà nòi (gà chọi) thức ăn vẫn là lúa nhưng 2 kg thu tới 500 ngàn đồng. Nuôi gà chọi có hai cái lợi, vẫn sử dụng bán thịt, bán trứng như gà thường, nhưng khi thị trường cần lại bán theo giá gà chọi. Gà chọi có sức đề kháng cao, ít bệnh tật nên có lợi nhiều mặt…”.

“Cứu tinh” trên miền đất hoang

Được như ngày hôm nay, ông Hỏi đã phải trải qua cái thời mà cả nhà không có “một hột gạo nấu”. Đông con, bản thân là trụ cột gia đình, trong khi kinh tế chỉ trông chờ vào mấy sào ruộng, có lúc ông Hỏi cảm thấy hoang mang. Làm ruộng, nuôi bò, sắm ghe, làm đủ thứ nhưng chưa lúc nào ông thấy gia đình mình ổn định, cuộc sống dư dật. Cái nghèo bám riết, buộc ông phải tìm hướng mới. Và việc tậu lại vùng đất hoang hóa, bạc màu, đất xấu “ma chê quỷ hờn” này đã đưa cuộc đời ông và gia đình ông “sang trang” mới. Món nợ “ân tình” này đã làm ông không bao giờ quên, dù đi lên với nhiều chật vật, gian khó.

Ông Hỏi nhớ lại, ngày về làm ruộng ở khu vực này, bà con xung quanh vẫn sử dụng những bờ đất nhỏ, cỏ hoang lấp đầy, khó khăn cho đường nước chảy. Ông Hỏi đã vận động bà con làm mương to, khơi thông đường nước, làm ruộng 2 vụ. Bà con chưa làm, ông làm trước cho bà con thấy. Ông nạo nét mương, mở rộng lòng mương từ 20 lên 50 cm. Cỏ lên che kín mương, ông mua thuốc khai hoang về xịt không cho mương bít. Việc làm của ông được bà con học tập làm theo, cải tạo dần cách làm ăn cũ, đưa ruộng lúa từ một vụ bấp bênh lên 2 vụ ăn chắc. Bây giờ năng suất lúa ở đây không thua kém nơi khác, cũng 7 tấn/ha trên diện tích 2,7 ha trong khu vực.

Con đường đi vào vùng Mã Rống trước đây là con đường nhỏ hẹp, trơn trợt, lúa khi thu hoạch phải kéo lê thúng đi theo rất vất vả vì nước ngập. Ông Hỏi lại phải vận động bà con làm đường, cải tạo đồng ruộng. Ông phân tích với bà con: “Làm đường rộng, có cộ bò đi được, đầu tư, chăm sóc, thu hoạch gì cũng dễ. Có xe kéo vào được, không phải mang vác tốn công, tốn sức…”. Bà con chưa làm ông làm trước. Ông còn đứng ra bảo lãnh: “Nếu ai chưa có tiền, tôi tự bỏ tiền, mua đất, mở rộng đường, sau trả lại…”. Và ông Hỏi đã bỏ ra 12 triệu đồng để sửa lại con đường cùng nhiều người khác. Cuối cùng, một con đường mới, bằng phẳng, khang trang (dài 300 m, rộng hơn 2,5 m) hình thành, mang niềm vui đến cho nhiều người.

QUANG VIÊN

Các tin mới:

29/9/2011
29/9/2011
29/9/2011
29/9/2011
29/9/2011
29/9/2011
29/9/2011
29/9/2011
29/9/2011

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang