• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Tìm hướng đi mới cho kinh tế trang trại ĐBSCL

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ, 03/04/2011
Ngày cập nhật: 4/4/2011

Sau 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 2-2-2000 của Thủ tướng Chính phủ Về kinh tế trang trại (KTTT), ở ĐBSCL những mô hình trang trại hiệu quả xuất hiện ngày càng nhiều. Các trang trại không chỉ mở mang diện tích trồng trọt, chăn nuôi; tăng thêm nguồn nông sản hàng hóa trên thị trường mà còn tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, sau một thời gian phát triển ồ ạt, những năm gần đây, KTTT ở ĐBSCL, đang có xu hướng chựng lại do gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.

Những mô hình hiệu quả...

Với hơn 30 ha nuôi tôm sú công nghiệp, áp dụng quy trình nuôi tôm sạch, bền vững, quá trình nuôi chỉ sử dụng các chế phẩm vi sinh để xử lý môi trường, không sử dụng thuốc kháng sinh và hóa chất, trang trại nuôi tôm sú của ông Võ Hồng Ngoãn (Sáu Ngoãn), ở ấp Biển Đông A, xã Vĩnh Trạch Đông, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu, đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận thương hiệu độc quyền “Trang trại nuôi tôm sú sạch Sáu Ngoãn Việt Nam”. Những sản phẩm tôm sú sạch ở trang trại này đã được nhiều công ty ở các nước EU, Nhật Bản trực tiếp ký hợp đồng mua với giá cao hơn thị trường từ 15% - 30%. Mô hình này đang được nhân rộng ở nhiều địa phương vùng ĐBSCL.

Ông Đỗ Quý Hạo (Ba Hạo), ở ấp Hiệp Lợi, xã Mỹ Hiệp Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang trồng khoai lang diện tích 100 ha đất nhiễm phèn, đạt sản lượng bình quân hàng năm khoảng 2.500 tấn. Giờ đây, các loại khoai lang từ trang trại Ba Hạo không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn được xuất khẩu sang Singapore, Nhật, Trung Quốc... Một trong những bước đột phá của chủ trang trại Đỗ Quý Hạo là mạnh dạn đầu tư phòng thí nghiệm để nghiên cứu các loại dịch bệnh trên khoai, các phương pháp canh tác đạt năng suất cao; mở xưởng cơ khí, trang bị máy đào mương, máy phun thuốc cỏ, máy trồng khoai... để giảm chi phí sản xuất. Ông còn lập DNTN Ba Hạo, xây dựng website để khuếch trương thương hiệu “Khoai lang Ba Hạo”.

Sau nhiều năm cần cù lao động, chuyên tâm học hỏi, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào canh tác, tích lũy vốn để tậu thêm đất... từ chỗ chỉ có vài công ruộng trên vùng đất phèn, đến nay trang trại trồng lúa của ông Nguyễn Lợi Đức (Sáu Đức), ở xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, đã lên đến hơn 100 ha với hàng chục công nhân làm việc quanh năm. Ông Đức đã đầu tư cơ giới hóa 100% các khâu làm đất, bơm tưới, cắt gặt, suốt lúa và làm dịch vụ cho nhiều nông hộ lân cận... Cánh đồng nhiễm phèn trước đây chỉ làm mỗi năm một vụ lúa với năng suất 4 tấn/ha/năm nay đã thành đồng lúa làm mỗi năm 2 vụ với năng suất bình quân 13 tấn/ha/năm. Mỗi năm ông Đức thu vào khoảng 1.000 tấn lúa.

Ông Phan Thừa Nghĩa, chủ trang trại trồng nấm đồng thời là Giám đốc Công ty TNHH Mai Mỹ (ở phường Phước Thới, quận Ô Môn, TP Cần Thơ) trở thành tỉ phú nhờ trồng nấm, cung cấp meo nấm giống cho nông dân. Năm 1999, ông đầu tư gần 1 tỉ đồng mua 1 ha đất ở Cần Thơ để thành lập trang trại. Ngoài trang trại trồng nấm bào ngư Nhật, nấm linh chi, nấm mèo theo công nghệ sạch, từ năm 2007, ông Nghĩa thành lập Công ty TNHH Mai Mỹ và trở thành một trong những cơ sở sản xuất, cung cấp phôi giống nấm sạch lớn nhất ở ĐBSCL. Hiện nay, mỗi ngày trang trại cung cấp cho thị trường 500 - 600 kg nấm tươi, mỗi tháng công ty cung ứng khoảng 100.000 bịch phôi giống nấm. Hàng trăm công nhân của công ty hiện hưởng lương bình quân trên 3 triệu đồng/người/tháng...

Thành công của một số trang trại đã nêu cho thấy, chủ trương phát triển kinh tế trang trại của Đảng và Nhà nước là đúng đắn. Bài học rút ra từ các mô hình trang trại thành công là bên cạnh sự trợ lực của Nhà nước, nhiều chủ trang trại đã năng động, sáng tạo, phát huy tinh thần tự lực, tự chủ trong việc tạo nguồn vốn tích tụ ruộng đất; tích cực học tập, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất; chủ động xây dựng chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ (thông qua mối liên hệ với các nhà khoa học, doanh nghiệp) để tạo thế phát triển ổn định và bền vững.

...Nhưng vẫn còn bấp bênh

Tuy đạt được những hiệu quả bước đầu nhưng thực tế những năm gần đây cho thấy, KTTT ở ĐBSCL đang có dấu hiệu chựng lại. Ở nhiều địa phương, số lượng và tỷ lệ trang trại ra đời hàng năm sụt giảm mạnh, không ít trang trại lâm vào tình trạng phá sản, hoạt động cầm chừng. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, ở Trà Vinh năm 2001 có 757 trang trại, năm 2005 tăng lên 2.584 trang trại nhưng đến cuối năm 2009 chỉ còn 1.807 trang trại. Tương tự, tỉnh Long An năm 2001 có 2.502 trang trại, năm 2005 tăng lên 7.691 trang trại, đến cuối năm 2009 chỉ còn 3.435 trang trại. Tỉnh Cà Mau năm 2001 có 2.494 trang trại, năm 2005 tăng lên 3.450 trang trại, đến cuối năm 2009 là 3.477 trang trại (chỉ tăng thêm 27 trang trại trong 4 năm). Gần đây, nhiều trang trại nuôi cá tra ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, TP Cần Thơ cũng ngưng hoạt động vì thua lỗ nặng.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sa sút của KTTT ở ĐBSCL. Trong đó, nổi lên một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Chạy theo phong trào. Để kích thích phát triển trang trại, một số địa phương đã đưa ra chính sách hỗ trợ vốn ban đầu. Ở Trà Vinh, sau khi tỉnh ban hành chủ trương hỗ trợ các chủ trang trại 100% lãi suất khi vay ngân hàng (trong thời hạn 3 năm) để đầu tư xây dựng chuồng trại, ao đầm; hỗ trợ bò giống, bông cỏ cho các hộ nuôi bò nái sinh sản; hỗ trợ máy vắt sữa cho trang trại bò sữa... thì các trang trại nuôi cá, heo, gà, bò phát triển ồ ạt. Nhiều nông hộ dù thiếu kiến thức về chăn nuôi - thú y, quản lý trang trại, chưa nắm bắt được yêu cầu của thị trường để định hướng sản xuất... vẫn “mạnh dạn” thành lập trang trại vì chạy theo phong trào. Khi chính sách ưu đãi đầu tư kết thúc thì nhiều trang trại cũng lụn bại. Theo kết quả điều tra sơ bộ gần đây nhất, ở Trà Vinh chỉ có khoảng 25% trang trại làm ăn có lãi, 50% hoạt động trung bình, 25% thua lỗ.

Nhiều chính sách hỗ trợ chưa đến được trang trại. Những năm qua, dù Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về thuế, tín dụng, đất đai, lao động, tiêu thụ sản phẩm... để hỗ trợ phát triển KTTT nhưng trên thực tế phần lớn các chính sách này chưa đến được các trang trại. Từ năm 2003, UBND tỉnh Bến Tre có văn bản chỉ đạo thực hiện một số chính sách ưu đãi cho KTTT. Song, đến cuối năm 2010, toàn tỉnh chỉ có 432 trong tổng số hơn 4.000 trang trại đủ tiêu chuẩn được cấp giấy chứng nhận. Các trang trại chưa được cấp giấy chứng nhận hầu như không tiếp cận được các chính sách ưu đãi của trung ương và địa phương nên hầu hết đều phải tự lo vốn để sản xuất, tự tìm đầu ra, khó liên kết được với các doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm.

Chưa được ưu đãi về tín dụng. Nhiều chủ trang trại ở ĐBSCL cho biết tuy rất muốn đầu tư mở rộng quy mô sản xuất nhưng hiện một số ngân hàng chỉ cho vay tối đa từ 50 - 70% giá trị tài sản hiện có nên khó đầu tư. Nhiều trang trại nuôi tôm công nghiệp ở Sóc Trăng, Bạc Liêu đang gặp khó khăn trong việc vay vốn vì trang trại và hộ nông dân đều được ngân hàng đối xử như nhau là cho vay dựa trên tài sản thế chấp. Thậm chí, nhiều ngân hàng còn e dè khi các chủ trang trại xin vay vốn hỗ trợ lãi suất ưu đãi theo chủ trương gần đây của Chính phủ.

Thiếu quy hoạch vùng sản xuất tập trung, chưa gắn kết với doanh nghiệp. Vì thế nên nhiều chủ trang trại không chủ động được kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Dễ nhận thấy nhất là năm vừa qua hàng ngàn trang trại nuôi cá tra ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, TP Cần Thơ... đồng loạt ngưng hoạt động, “treo ao” vì giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, thiếu vốn đầu tư nuôi mới, nhiều lúc cá đến kỳ thu hoạch rộ bị doanh nghiệp ép giá, chủ trang trại phải lâm vào cảnh nợ nần, thua lỗ...

Do những hạn chế trên nên phần lớn trang trại ở ĐBSCL hiện vẫn ở quy mô nhỏ, năng lực ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn yếu, chưa liên kết được để hình thành các vùng sản xuất tập trung nhằm tạo ra những vùng sản xuất hàng hóa lớn. Hậu quả là nông sản hàng hóa làm ra sản lượng ít, chất lượng chưa cao, không đồng bộ, giá cả và sức tiêu thụ bấp bênh.

Để KTTT phát triển đúng hướng, bền vững

Từ những bài học thành công và thất bại trong quá trình phát triển 10 năm qua, có thể rút ra một vấn đề cần quan tâm để thúc đẩy KTTT ở ĐBSCL tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Đó là:

Về phía Nhà nước: Cần sớm nghiên cứu, tổng kết từ thực tiễn để tìm ra những nguyên nhân thành công và thất bại của các mô hình KTTT, từ đó bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, chính sách tạo điều kiện cho KTTT tiếp tục phát triển đúng hướng và bền vững. Trong đó, cần quan tâm sửa đổi, điều chỉnh các chính sách về tích tụ đất đai, thuế, hỗ trợ tín dụng, xúc tiến thương mại, khuyến nông khuyến ngư... nhằm tạo thêm nhiều điều kiện cho KTTT ra đời và phát triển đúng thực chất, làm nền tảng thành lập một số công ty nông nghiệp, dịch vụ quy mô lớn đi lên từ trang trại.

Tăng cường đào tạo nghề, hỗ trợ phổ biến và ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản xuất, cung cấp kịp thời các thông tin về thị trường cho các chủ trang trại... Mở lớp đào tạo kỹ năng quản lý, kỹ thuật sản xuất cho các trường hợp đạt các tiêu chí thành lập trang trại, giúp các chủ trang trại chủ động trong sản xuất - kinh doanh.

Xây dựng quy hoạch phát triển KTTT phù hợp với tình hình và điều kiện sản xuất từng địa phương như vùng sản xuất lúa, cây ăn quả, nuôi cá tra, heo, trâu, bò gia cầm... Nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng mối liên kết “4 nhà”, giúp các trang trại có điều kiện phát triển với quy mô, năng lực phù hợp với từng khu vực đặc thù.

Về phía chủ trang trại: Phải xuất phát từ mục đích tự thân, điều kiện cụ thể của địa phương, nhu cầu thị trường và năng lực thực tế về vốn, kinh nghiệm, kỹ năng để thành lập trang trại phù hợp, không chạy theo phong trào.

Chủ trang trại cần chủ động học tập để nâng cao kiến thức và kinh nghiệm điều hành sản xuất, quản lý lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, quan hệ thị trường, không nên hoàn toàn trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước.

Liên kết các chủ trang trại và nông dân sản xuất giỏi để xây dựng vùng nguyên liệu sản xuất hàng hóa lớn đáp ứng yêu cầu của khách hàng, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Song song đó, cần tạo mối liên kết pháp lý vững chắc với các viện, trường, các doanh nghiệp uy tín để có được sự đầu tư, hỗ trợ về khoa học - công nghệ, đầu vào trong sản xuất và đảm bảo đầu ra sản phẩm với chất lượng tốt, đồng bộ, giá cả hợp lý.

GIA HƯNG

Các tin mới:

4/4/2011
4/4/2011
4/4/2011
4/4/2011
4/4/2011
4/4/2011
4/4/2011
4/4/2011
4/4/2011

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang