Nguồn tin: Tuổi Trẻ, 12/01/2011
Ngày cập nhật:
13/1/2011
Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, Viện Nghiên cứu và phát triển ĐBSCL vừa đề xuất Chính phủ có chính sách hỗ trợ đẩy mạnh việc liên kết “bốn nhà” ở ĐBSCL. Vấn đề liên kết đã được đặt ra từ lâu nhưng triển khai thực hiện chẳng mấy kết quả. Đề xuất mới này đang đặt ra nhiều kỳ vọng vực dậy vựa lúa lớn nhất cả nước này.
Ông Trần Hữu Hiệp - phó chánh văn phòng Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, thành viên nhóm xây dựng chương trình liên kết vùng ĐBSCL - trăn trở câu chuyện nông dân ĐBSCL là tác giả của công trình đưa VN giữ vững vị trí cường quốc xuất khẩu gạo thứ hai thế giới, song đời sống của họ lại luôn bị đe dọa bởi điệp khúc “được mùa mất giá”, “được giá, hết hàng”.
Tự phát nên không hiệu quả
Từ việc trồng lúa đến cây ăn trái hay nuôi tôm, cá xuất khẩu ở ĐBSCL gần như đều tự phát. Theo ông Hiệp, việc bảo quản sau thu hoạch, đóng gói và phát triển thương hiệu gạo hay khâu xay xát, lưu trữ gạo trước khi đưa ra thị trường cũng cần cải thiện. Bên cạnh đó, đầu tư cho phát triển vừa thấp vừa chậm, cơ sở hạ tầng yếu kém lại thiếu đồng bộ nên không hiệu quả. Nuôi cá tra là một ví dụ điển hình.
Năm 2000, thấy nơi nơi đổ xô đóng bè nuôi cá tra, ông Nguyễn Hữu Nguyên (Khánh Hòa, Châu Phú, An Giang) rủ người bạn cùng hùn vốn đầu tư sáu bè nuôi, mỗi năm họ thu hoạch cả ngàn tấn cá tra. Thời hoàng kim nuôi cá bè, chỉ riêng An Giang có hơn 4.000 bè lớn nhỏ chuyên nuôi cá tra xuất khẩu. Thế rồi sau đó phong trào nuôi cá tra trong ao quầng phát triển mạnh.
Các doanh nghiệp cũng tập trung chuyển qua thu mua loại cá nuôi theo hình thức này, bởi nó đáp ứng số lượng lớn và có tỉ lệ chế biến cao. “Con cá tra nuôi bè trở nên khó tiêu thụ, giá bán lại thấp dẫn tới thua lỗ, các làng bè dần đi đến phá sản. Mỗi bè có chi phí đóng mới cả trăm lượng vàng lần lượt trở thành... phế liệu” - ông Nguyên nhớ lại.
Sau đợt khủng hoảng đầu ra vào năm 2008, ông Nguyên và bạn thua lỗ gần chục tỉ đồng, phải bán đất để trả nợ. Thua keo này bày keo khác, nhưng rồi họ tiếp tục lỗ thêm 6 tỉ đồng, đành bán đất cùng nhà xưởng để trang trải nợ nần.
Theo hiệp hội thủy sản các tỉnh ĐBSCL, cá tra chủ yếu cung ứng cho xuất khẩu nhưng người nuôi không gắn kết được với các doanh nghiệp chế biến trong khâu tiêu thụ. “Thực tế lâu nay hầu như mạnh ai nấy nuôi, mạnh ai nấy thu mua chế biến để xuất khẩu. Đó là nguyên nhân chính khiến hàng loạt hộ liên tục bị thua lỗ phải lần lượt bỏ nghề” - ông Lê Chí Bình, phó chủ tịch Hiệp hội Nghề nuôi và chế biến thủy sản An Giang, nhận định.
Theo GS.TS Võ Tòng Xuân, ĐBSCL là vựa lúa xuất khẩu của cả nước, tuy nhiên hình thức sản xuất vẫn còn manh mún, tự phát. Khâu tiêu thụ lúa gạo lắm lúc gặp khó khăn, giá cả xuống thấp khiến nông dân thường thua lỗ. Mặt khác doanh nghiệp chưa chủ động được nguồn nguyên liệu tập trung nên sản phẩm gạo không đồng nhất, chất lượng chưa ổn định. Cũng như con cá tra, tuy là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới nhưng mãi tới giờ VN vẫn chưa xây dựng được thương hiệu cho hai sản phẩm xuất khẩu chủ lực đầy lợi thế của mình. Nguyên nhân chính vẫn là thiếu liên kết trong tổ chức sản xuất.
Manh nha… liên kết
Gần đây đã xuất hiện vài mô hình liên kết trong sản xuất. Tại An Giang, từ năm 2005 Công ty Agifish đã quy tụ 30 hộ tham gia câu lạc bộ nuôi cá sạch mỗi năm cung ứng 60% lượng cá chế biến xuất khẩu. Mặc dù thị trường nhiều biến động nhưng nhờ doanh nghiệp bao tiêu nên số hộ này có lợi nhuận ổn định. Tương tự, HTX Thới An (Ô Môn, Cần Thơ) và ba HTX ở Mang Thít (Vĩnh Long) được Công ty cổ phần Hùng Vương hợp tác đầu tư nuôi theo hình thức giao khoán. Sau khi ký hợp đồng, người dân tiến hành thả con giống thì doanh nghiệp cung cấp thức ăn, sau đó bao tiêu sản phẩm.
Ông Nguyễn Ngọc Hải, chủ nhiệm HTX Thới An, cho biết HTX có 36 hộ nuôi cá, mỗi năm giao cho công ty 10.000 tấn cá đạt tiêu chuẩn chế biến. “Cứ mỗi ký cá nguyên liệu người nuôi được hưởng 2.500 đồng, trừ tiền mua con giống, chi phí bơm nước, thuốc men phòng trị bệnh, nếu nuôi tốt thì có lãi trung bình 1.000 đồng/kg” - ông Hải nói.
Liên kết là giải pháp
Căn bệnh làm trì trệ phát triển kinh tế vùng ĐBSCL đã được xác định là mạnh ai nấy làm, đầu tư theo phong trào. Nhiều địa phương chạy theo “cơ cấu đẹp”, chứ chưa dựa trên lợi thế chung để hợp tác và khai thác lợi thế so sánh của từng tỉnh.
Điều này được thể hiện qua tình trạng tỉnh nào cũng có khu - cụm công nghiệp, chợ đầu mối, nhà máy đường hoặc đang có xu hướng chạy đua xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trung tâm giống...
Chính vì vậy, liên kết vùng được đặt ra với kỳ vọng khắc phục những khiếm khuyết trong quá khứ.
Theo ông Trần Hữu Hiệp, liên kết vùng ngoài việc khắc phục các nhược điểm khiến chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế, còn tính đến liên kết bốn nhà và sự đồng thuận của chính quyền 13 tỉnh thành trong vùng.
Về sản xuất lúa gạo, tập trung vào bốn nhóm giải pháp chính: ứng dụng khoa học - công nghệ trong chọn tạo giống, hỗ trợ kỹ thuật sản xuất lúa gạo, tổ chức và liên kết sản xuất, cuối cùng là giải pháp về thị trường. Về cây ăn quả sẽ xây dựng mạng lưới sản xuất và tiêu thụ thông qua giải pháp tham gia bốn nhà, liên kết các viện trường nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào sản xuất, xây dựng mô hình sản xuất và tiêu thụ theo chuẩn GAP (thực hành nông nghiệp tốt), mô hình công nghệ sau thu hoạch...
Ông Hiệp nhấn mạnh để liên kết hiệu quả, ngoài sự đồng thuận và nhất quán từ trung ương đến địa phương, quan trọng nhất là quy hoạch sản xuất và tập trung nguồn nguyên liệu của những ngành hàng mũi nhọn, ưu tiên đầu tư cho cơ sở hạ tầng...
TS NGUYỄN VĂN SÁNH - Viện Nghiên cứu và phát triển ĐBSCL: “Xe duyên” bốn nhà
- Để ĐBSCL phát triển bền vững thì bên cạnh sự gắn kết giữa doanh nghiệp với nông dân còn cần hoàn thiện thêm mối liên kết bốn nhà. Trong đó, doanh nghiệp cần tập trung phát triển thị trường, định ra khả năng tiêu thụ; nông dân hợp tác sản xuất có định hướng theo hợp đồng; nhà khoa học nghiên cứu đưa ra giải pháp tăng sản lượng, chất lượng và giảm giá thành sản phẩm; Nhà nước cần đầu tư cơ sở hạ tầng, cung cấp thông tin, tiêu chuẩn hóa sản phẩm xuất khẩu, có cơ chế chính sách thúc đẩy sản xuất, hỗ trợ tín dụng và tổ chức thực hiện liên kết.
- Việc triển khai chính sách tam nông là một định hướng tốt để xây dựng mối liên kết bốn nhà, liên kết vùng giúp ĐBSCL phát triển toàn diện. Đồng thời triển khai việc liên kết là giải pháp toàn cục để thực hiện thành công chính sách tam nông.
TS Lê Văn Bảnh - viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL: Cần có “nhạc trưởng” và “phân vai”
- Việc liên kết vùng là hết sức cần thiết, nhờ liên kết vùng Nhà nước mới có quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội cho cả vùng. Đối với nông nghiệp, tùy lợi thế của từng vùng sinh thái mà đưa ra chủ trương sản xuất cây gì, con gì cho hiệu quả nhất. Việc quy hoạch tránh cho các địa phương cạnh tranh nhau không đáng có.
- Đặc biệt là trong biến đổi khí hậu, nước biển dâng gây ngập mặn, khô hạn, bão lũ ngập úng... thì chỉ liên kết vùng mới giải quyết nổi. Sự liên kết này phải cần có người chỉ huy, “nhạc trưởng” tầm cỡ quốc gia. Tuy liên kết mang tính tự nguyện nhưng cũng phải có ràng buộc qua chính sách, pháp lý và có “nhạc trưởng”, như vậy mới thành công.
- Yếu tố quyết định cho liên kết vùng là sự đồng thuận của 13 tỉnh, thành ĐBSCL với sự chủ trì của Ban chỉ đạo Tây Nam bộ. Trong liên kết “bốn nhà”, mấu chốt nhất ở doanh nghiệp và người sản xuất. Doanh nghiệp đặt hàng ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm, bảo hiểm sản xuất với điều kiện sản phẩm đúng chất, đủ lượng, đúng hạn, đúng giá. Nhà sản xuất không thể sản xuất nông hộ nhỏ mà trang trại, tổ hợp tác... để tạo vùng nguyên liệu chuyên canh.
- Thiếu liên kết vùng thì khó giải quyết mối tương tác giữa công nghiệp và nông nghiệp trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà trong đó giai đoạn đầu cần đầu tư mạnh vào khu vực nông nghiệp.
- Thời gian qua do phát triển công nghiệp và kêu gọi đầu tư từng tỉnh kém hiệu quả vì không thấy hết mối quan hệ hỗ tương phát triển công nghiệp trong cùng một vùng hoặc giữa vùng ĐBSCL với vùng Đông Nam bộ. Từ đó sẽ khó phát triển công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động hợp lý cho từng địa phương và cho toàn vùng.
- Áp lực cho nông dân và khu vực sản xuất nông nghiệp ngày càng cao vì công nghiệp và dịch vụ kém phát triển. Mặt khác, khó gặp nhau giữa chính sách vĩ mô và vi mô để tìm ra cơ chế, tổ chức và chính sách liên quan đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn toàn vùng.
- Trong khi từng địa phương không thể thực hiện được. Thật ra chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn của nước ta đã định ra từ lâu, nhưng thể chế liên kết vùng và tham gia “bốn nhà” thực hiện chưa tốt.
ĐỨC VỊNH - P.NGUYÊN
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.