Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng, 18/11/2010
Ngày cập nhật:
19/11/2010
Không phải địa phương nào làm kinh tế trang trại cũng phát triển. Thực tế cho thấy, kinh tế trang trại đã bộc lộ nhiều bất cập dẫn đến phá sản hàng loạt. Cơ chế, chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với kinh tế trang trại hầu như rất khó đến tay những đối tượng được hưởng.
Phá sản hàng loạt
Năm 2000, thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước, Trà Vinh là một trong những tỉnh đầu tiên của ĐBSCL chú trọng đầu tư phát triển kinh tế trang trại. Từ chỗ 76 trang trại (năm 2001), chỉ một năm sau tổng số trang trại đã tăng lên 3.200. Sở dĩ số trang trại của Trà Vinh tăng lên chóng mặt như vậy là do chính sách ưu đãi của Nhà nước và tỉnh, nhưng giờ còn khoảng 1.820 trang trại, phần lớn hoạt động cầm chừng, làm ăn kém hiệu quả, vỡ nợ.
Chúng tôi đến thăm trang trại nuôi heo của ông Hoàng Văn Hỏn, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Dãy chuồng trại được đầu tư quy mô, trị giá hàng trăm triệu đồng đã bỏ trống. Ông Hỏn kể: “5 năm trước, tôi làm trang trại nuôi heo nái và heo con. Xui quá, gặp dịch đàn heo nái 28 con và 200 heo con chết sạch. Tài sản tôi đầu tư vào đây 300 triệu đồng cộng với 100 triệu đồng vay ngân hàng tiêu tan hết. Ngân hàng đang đòi phát mãi căn nhà tôi ở để trả nợ”.
Ở huyện Châu Thành có 3 trang trại tan hoang. Một chủ trang trại đã bỏ nhà đi xứ khác để trốn nợ. Trang trại bò sữa thì vừa ra đời đã “chết”.
Theo ông Nguyễn Quốc Huy, cán bộ Phòng NN-PTNT, huyện Châu Thành có 225 trang trại nhưng đến thời điểm này chỉ còn 8.
Ở huyện Tiểu Cần cũng trong tình trạng tương tự, lúc cao điểm có đến 232 trang trại bò giống, heo giống, tôm giống, hiện giờ 115 trang trại đã khai tử.
Ông Trần Văn Quân, Phó Trưởng phòng NN-PTNT huyện Tiểu Cần, cho rằng các trang trại ở đây phá sản là do dịch bệnh, chi phí đầu vào cao, nhưng giá bán ra thấp hoặc thị trường bấp bênh; trình độ chuyên môn và quản lý của các chủ trang trại kém nên không hiệu quả. Phong trào phát triển kinh tế trang trại khi đó diễn ra ồ ạt là vì háo hức với chính sách ưu đãi của tỉnh nên nhiều hộ chưa đủ điều kiện nhưng vẫn tìm mọi cách thành lập trang trại.
Chúng tôi đến Duyên Hải, một huyện ven biển của tỉnh Trà Vinh, ở đây có 204 trang trại nuôi tôm sú công nghiệp, bán công nghiệp và sản xuất tôm giống, đã có 200 trang trại phải chuyển sang nuôi cua, cá kèo vì thất tôm sú.
Theo báo cáo của ông Lâm Văn Huynh, Phó Chủ tịch xã Long Khánh, các chủ trang trại ở đây vỡ nợ đang cầm cố đất đai ở ngân hàng gần 100 tỷ đồng. Phong trào phát triển trang trại thủy sản ồ ạt đã để lại hậu quả nghiêm trọng là ô nhiễm môi trường dẫn đến tôm sú chết trên diện rộng, người nuôi phá sản, đất nuôi tôm giờ kêu bán trả nợ ngân hàng nhưng chẳng ai mua.
Không chỉ ở Trà Vinh, mấy năm qua nhiều chủ trang trại nuôi tôm vùng kháng chiến cũ gồm 6 xã của huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) và một số địa phương của tỉnh Bạc Liêu; các vùng nuôi cá tra ở An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ cũng sống dở chết dở vì thất bát, phá sản, treo ao hầm.
Theo thống kê của Sở NN-PTNT Đồng Tháp cho thấy: tỉnh này có hơn 50% trang trại nuôi cá tra lâm vào cảnh trắng tay, số còn lại phải chuyển sang nuôi các loại thủy sản khác để kiếm tiền trả nợ ngân hàng, cầm lại đất đai, nhà cửa. Được biết, lúc thịnh hành Đồng Tháp có hơn 4.600 trang trại, nhưng nay chỉ còn chưa tới 100, trong đó hộ nuôi cá đếm trên đầu ngón tay.
Chúng tôi đến cù lao Tân Lộc, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ, nơi từng được mệnh danh là “cù lao tỷ phú”. Hàng trăm trang trại phất lên giàu có nhờ nuôi cá tra trúng đậm mấy năm liền. Nhưng khoảng 3 năm trở lại đây, Tân Lộc được biết đến với biệt danh khác, “cù lao mắc nợ”, vì nuôi cá tra thua lỗ.
Chính sách hỗ trợ không đến được trang trại
Trong những năm qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên phát triển kinh tế trang trại như thuế, tín dụng, đất đai, lao động, xúc tiến thương mại, tiêu thụ… nhưng phần lớn chính sách này không đến được các chủ trang trại. Hầu hết chủ trang trại “tự bơi” để trang bị tư liệu sản xuất, nguồn vốn, tìm đầu ra cho hàng hóa.
Dù làm ăn rất hiệu quả, có uy tín nhưng nhiều năm qua, ông Nguyễn Lợi Đức, xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (có 100 ha) vẫn phải tự bươn chải bán sản phẩm, không liên kết được với các doanh nghiệp nhà nước để tiêu thụ sản phẩm.
Ông Nguyễn Lợi Đức phản ánh: “Hợp tác với doanh nghiệp nhà nước khó lắm, nhất là khi ký hợp đồng họ đều giành phần lợi về mình. Hiện nay tôi đang cần đầu tư một nhà kho rộng 1.000 m², tạm trữ được 1.000 tấn lúa và hệ thống xay xát, lau bóng, đóng bao và chế biến gạo xuất khẩu, chi phí khoảng 800 triệu đồng nhưng không được vay vốn ngân hàng và chưa tìm ra đối tác thích hợp để hùn hạp làm ăn”.
Theo ông Đức, dù là khách hàng thân thiết, uy tín, ngân hàng cũng chỉ cho vay tối đa từ 50% đến 70% giá trị tài sản hiện có. Khi xin vay vốn theo Nghị định 41/2010 của Chính phủ thì ngân hàng nói trung ương chưa rót vốn nên không cho vay được.
Trưởng phòng NN-PTNT huyện Tri Tôn tỉnh An Giang, Nguyễn Văn Mì, cũng nhìn nhận như vậy. Ông nói: “Chúng tôi đang tìm cách giúp các trang trại có thêm vốn nhưng khi chủ trang trại xin vay vốn của Chính phủ, mắc phải thủ tục rườm rà khiến họ nản lòng, không muốn đầu tư phát triển sản xuất lớn”.
Còn ở tỉnh Bến Tre, ngay từ năm 2003 đã có chỉ thị và quy định về thực hiện một số chính sách ưu đãi cho kinh tế trang trại theo hướng khuyến khích phát triển. Thế nhưng đến thời điểm này tỉnh chỉ cấp giấy chứng nhận cho 432 trang trại, quá ít so với thực tế hơn 4.000 hộ sản xuất đạt các tiêu chí trang trại. Nguyên nhân là cơ sở triển khai chậm, chưa phổ biến rộng trong dân. Theo đó, một số xã không quan tâm tuyên truyền chủ trương, chính sách về kinh tế trang trại; việc phối hợp giữa phòng kinh tế, phòng nông nghiệp và các ngành liên quan chưa đồng bộ; cán bộ cơ sở kiêm nhiệm nhiều việc không chuyên sâu, chậm trễ, lúng túng trong triển khai hỗ trợ lập chứng từ thanh quyết toán, thiếu kinh phí thẩm định công nhận trang trại…
Trong khi đó, về nguyên tắc chỉ có trang trại được cấp giấy chứng nhận mới được tiếp cận các chính sách ưu đãi của trung ương và địa phương. Trong số các trang trại có giấy chứng nhận, số trường hợp được hưởng các chính sách hỗ trợ rất thấp. “Đa phần các trang trại chưa tiếp cận được các nguồn ưu đãi của chính phủ, ảnh hưởng không nhỏ đến đầu tư sản xuất, kinh doanh” - ông Hồ Văn Thiệt, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre, thở dài.
Ông Nguyễn Minh Hiền, Chi cục phó Chi cục Phát triển nông thôn Cần Thơ, cho biết sau gần 10 năm hình thành và phát triển, thành phố này hiện có 1.330 trang trại. Kinh tế trang trại có bước phát triển khá, tạo ra vùng sản xuất tập trung, quy mô, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương. Bình quân mức đầu tư ban đầu 140 triệu đồng và thu nhập bình quân 90 triệu đồng/trang trại/năm (có không ít trang trại doanh thu 300 - 400 triệu đồng/năm). Nhưng thực tế, Cần Thơ chỉ có 4 trang trại được cấp giấy chứng nhận, do đó khả năng tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi thấp. Có một thực tế khác là không ít hộ dân đạt các tiêu chí trang trại nhưng lại không muốn đăng ký vì lo ngại khó được hưởng các chính sách ưu đãi, trong khi phải đóng thuế thu nhập.
Trong 7 năm thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư cho kinh tế trang trại, Trà Vinh đã chi gần 80 tỷ đồng từ nguồn ngân sách tỉnh, bao gồm trả lãi vay hỗ trợ cho nông dân 61,7 tỷ, hỗ trợ bò giống 2,4 tỷ đồng, heo giống 1,4 tỷ đồng, quạt bơm ao nuôi tôm 11,7 tỷ đồng… Bình quân, một trang trại doanh thu 33 triệu đồng, hiệu quả rất thấp so với tiềm năng và nguồn vốn đầu tư…
Bài học rút ra từ thực tế mô hình kinh tế trang trại ở ĐBSCL là quá trình hình thành và phát triển thời gian qua đều mang tính tự phát, quy mô nhỏ, vốn đầu tư thấp, thiếu quy hoạch vùng sản xuất tập trung và mang tính chiến lược bền vững. Sản phẩm hàng hóa làm ra sản lượng, chất lượng chưa cao, không đồng nhất và bấp bênh trong tiêu thụ. Trình độ khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa phục vụ sản xuất của các chủ trang trại còn nhiều hạn chế.
L.BÌNH - B.ĐẠI - Đ.CẢNH
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.