• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Giúp các trang trại giảm thiểu rủi ro trong sản xuất

Nguồn tin:  Nhân Dân, 10/03/2010
Ngày cập nhật: 11/3/2010

Mô hình kinh tế trang trại (TT) ở tỉnh Quảng Bình được hình thành theo hướng tự phát từ những năm 1990 và đến nay, loại hình kinh tế này đã phát triển tạo ra sự đột phá trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất trong các TT nói riêng ở Quảng Bình luôn tiềm ẩn sự rủi ro. Vậy làm gì để giúp các chủ TT giảm thiểu sự rủi ro đó.

Sự rủi ro tiềm ẩn

Đến nay, tỉnh Quảng Bình có 1.170 TT, tăng 271 TT so với năm 2008. Số TT tăng mà trong đó chủ yếu TT lâm nghiệp là do chính sách khuyến khích phát triển lâm nghiệp của tỉnh bắt đầu phát huy hiệu quả. Các hộ trước đây được giao đất, giao rừng nay chuyển sang phát triển kinh tế theo hướng TT lâm nghiệp kết hợp chăn nuôi mang lại doanh thu lớn.

Theo số liệu của Chi cục phát triển nông thôn Quảng Bình, đến cuối năm 2009, tổng nguồn vốn đầu tư của TT hơn 235 tỷ đồng, tăng hơn so với năm 2008. So với các TT sản xuất trong các lĩnh vực khác thì số vốn và doanh thu của TT chăn nuôi, nhất là nuôi gia súc và TT nuôi thuỷ sản cao gấp nhiều lần. Nếu vốn đầu tư cho một TT trồng trọt bình quân khoảng 100 - 120 triệu đồng thì vốn của một TT chăn nuôi là 250 triệu đồng, riêng chăn nuôi đại gia súc lên tới 300 triệu đồng và trong lĩnh vực nuôi thuỷ sản, con số đó khoảng 230 triệu đồng/TT (riêng đối với TT nuôi tôm trên cát thì vốn đầu tư xây dựng hạ tầng lên tới hàng tỷ đồng). Tất nhiên với số vốn lớn như thế, không phải người dân nào cũng có đủ tiền để đầu tư làm TT mà phải huy động từ nhiều nguồn, trong đó có lượng vốn lớn vay từ ngân hàng.

Từ năm 2005 đến nay, nhờ tác động mạnh mẽ của các chính sách khuyến khích phát triển TT và các dự án phát triển thuỷ sản, trồng rừng, chăn nuôi nên nguồn vốn đầu tư cho kinh tế TT từ các ngân hàng và quỹ tín dụng ở Quảng Bình tăng đột biến. Theo con số thống kê thì nguồn vốn vay từ ngân hàng, quỹ tín dụng chủ yếu đầu tư cho nuôi thuỷ sản (năm 2009 số tiền mà các chủ TT nuôi thuỷ sản vay ngân hàng chiếm 45 - 50% tổng nguồn vốn vay). Trong khi đó nhiều chủ TT chăn nuôi gia súc trên địa bàn đã mạnh dạn vay vốn từ ngân hàng theo dự án độc lập với lãi suất từ 1,0 đến 1,2 %/năm (trước khi được hỗ trợ lãi suất). Năm 2008 chị Bùi Thị Giang ở phường Bắc Nghĩa, thành phố Đồng Hới đã vay 2,2 tỷ đồng lập TT chăn nuôi gia súc, trong đó thế chấp nhà để vay ngân hàng 1 tỷ đồng, lãi suất 1,2 %/tháng trong vòng 2 năm để nuôi lợn, ba ba trên diện tích 3 ha. Tương tự như vậy, anh Đoàn Mạnh Hùng ở xã Thuận Đức (Đồng Hới) đầu tư 1,4 tỷ đồng cho TT chăn nuôi, trong đó vay ngân hàng gần 1 tỷ đồng với lãi suất 1,2 %/tháng. Anh Hùng cho biết: “Từ khi Nhà nước có chính sách cho vay vốn được hỗ trợ lãi suất, tôi đến ngân hàng hỏi thì được biết thời hạn vay vốn tối đa là 8 tháng nên việc vay vốn để làm ăn lâu dài như chúng tôi rất khó. Không thể đầu tư cho trang trại mà 8 tháng đã thu hồi được vốn. Ngoài ra có nhiều vướng mắc khi vay vốn được hỗ trợ lãi suất nên có thời điểm tôi quyết định chuyển sang vay vốn với lãi suất bình thường để đỡ lo các thủ tục và chủ động được sản xuất”.

Trước đây, chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi thuỷ sản ở Quảng Bình thuần tuý theo quy mô hộ gia đình, góp phần quan trọng vào quá trình cải thiện đời sống của người dân. Với mô hình chăn nuôi của kinh tế hộ gia đình, nếu có dịch bệnh xảy ra, hậu quả không thật sự trầm trọng do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, nguồn lực cho sản xuất không lớn và chưa mang tính xã hội. Còn bây giờ xuất hiện nhiều TT rộng 3-5 ha trở lên chuyên chăn nuôi gia súc theo hướng công nghiệp, nuôi thuỷ sản theo hướng thâm canh và bán thâm canh, sản phẩm mà các TT này tạo ra thực sự đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế của tỉnh. Trong trường hợp nếu dịch bệnh xảy ra đối với các TT lớn này thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng đối với bản thân người chủ TT và cả xã hội.

Thời gian qua, dù tỉnh Quảng Bình đã xuất hiện nhiều loại dịch bệnh nguy hiểm ở gia súc, gia cầm nhưng mới dừng lại ở mức độ nhỏ lẽ, động vật bị bệnh chủ yếu nuôi tại hộ gia đình và chưa ảnh hưởng đến sản xuất của các TT. Thế nhưng, nguy cơ tiềm ẩn và bùng phát dịch bệnh đối với vật nuôi tại các TT là rất lớn và người chủ TT vẫn chưa hết âu lo.

Giúp các chủ TT giảm thiểu rủi ro?

Như đã nói, mức đầu tư của TT chăn nuôi và nuôi thuỷ sản lớn hơn nhiều so với các TT khác, điều này cũng đồng nghĩa với hậu quả sẽ rất trầm trọng nếu xảy ra rủi ro đối với các TT. Với lưng vốn của các TT này, họ khó gượng dậy nếu rủi ro xảy ra.

Để giảm thiểu rủi ro hay nói cách khác là hạn chế hậu quả của dịch bệnh, tất nhiên biện pháp phòng trừ là quyết định. Phòng ở đây nên hiểu theo 2 khía cạnh: Một là theo nghiã thông thường, tức là các TT cần thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp về kỹ thuật khống chế không để dịch bệnh xảy ra. Theo đánh giá của Chi cục Thú y Quảng Bình, về cơ bản các TT chăn nuôi trong tỉnh đã tuân thủ các quy định này và bước đầu đã phát huy hiệu quả trong việc phòng chống dịch bệnh. Hai là cần đề phòng khi dịch xảy ra thì cũng không để lại hậu quả nghiêm trọng. Dưới góc độ kỹ thuật, đó là việc xử lý chuồng trại, ao hồ, xử lý gia súc, gia cầm, nuôi nuôi đã bị bệnh hoặc khoanh vùng ngăn chặn không để dịch lây lan. Dưới góc độ về kinh tế, đó là việc giảm thiếu tổn thất cho chủ TT, từ đó ngăn chặn hiệu ứng dây chuyền ra xã hội. Để làm được việc này, cần sự vào cuộc của cơ quan bảo hiểm.

Trên thực tế cho thấy, các chủ TT ở Quảng Bình chưa có khái niệm về tham gia bảo hiểm và tất nhiên Công ty bảo hiểm tỉnh cũng chưa tìm tới người dân để thực hiện dịch vụ này. Và ngay cả đối với các cấp chính quyền từ tỉnh đến cơ sở, dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ, động viên phát triển chăn nuôi, nuôi thuỷ sản nhưng cũng chưa quan tâm để hỗ trợ các chủ TT trong vấn đề này.

Trong bối cảnh đó, hoạt động của một chi hội nuôi tôm Hói Hà xã Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh (Quảng Bình) đã có một nội dung gần như cơ chế tự bảo hiểm dù chưa thật rõ nét. Điều này thể hiện ở chỗ, nguồn tài chính dùng để hỗ trợ các TT khi bị rủi ro chưa được quy định rõ về mức và cách thức đóng góp của mỗi thành viên trong chi hội. Hiện tại, chi hội dùng khoản phí 100 nghìn đồng/ha và chi phí quỹ hội 20 nghìn đồng/20 triệu doanh thu để để hỗ trợ cho các hộ bị rủi ro.

Một chuyên gia trong lĩnh vực chăn nuôi ở Quảng Bình chia sẻ: qua cách làm của chi hội Hói Hà, các chủ TT, tổ hợp tác trong nuôi thuỷ sản cần nghiên cứu để thực hiện cơ chế tự bảo hiểm đối với một số rủi ro do thiên tai, dịch bệnh. Tất nhiên, khi đã ngồi lại với nhau thì cần quy định rõ phí đóng bảo hiểm của mỗi thành viên, cơ chế sử dụng và cách quản lý nguồn quỹ đó.

Trong một chừng mực nào đó, hợp đồng ứng trước vật tư, thức ăn cho gia súc, cho con tôm và bao tiêu sản phẩm đầu ra giữa các TT và doanh nghiệp chế biến, doanh nghiệp thương mại cũng là hình thức chia sẻ rủi ro trong sản xuất. Tất nhiên, cơ chế này cần được cụ thể hoá trong hợp đồng kinh tế giữa các chủ TT và doanh nghiệp.

Như vậy có thể thấy, giảm thiểu rủi ro cho các chủ TT chăn nuôi, nuôi thuỷ sản nói riêng, sản xuất TT nói chung được thông qua nhiều hình thức khác nhau. Vấn đề là chủ các TT phải nắm rõ và lựa chọn hình thức phù hợp với mình thông qua việc định hướng thông tin của cơ quan quản lý Nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các bên với nhau.

Hương Giang

Các tin mới:

11/3/2010
11/3/2010
11/3/2010
11/3/2010
11/3/2010
11/3/2010
11/3/2010
11/3/2010
11/3/2010

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang