Nguồn tin: Kinh tế Sài Gòn, 12/01/2010
Ngày cập nhật:
14/1/2010
Thí điểm thực hiện bảo hiểm sản xuất nông nghiệp tại một số khu vực cho một số loại sản phẩm nông thủy sản là một phần trong quyết định phê duyệt đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng 2020” của Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải ký ngày 6-1. Đây cũng là một phần trong mục tiêu hướng tới an ninh lương thực quốc gia của Chính phủ ban hành cuối năm ngoái.
Không phải bây giờ mà trong hai chục năm qua, bảo hiểm một số vật nuôi, cây trồng, thủy sản được thí điểm liên tục ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm, trên nhiều sản phẩm nông thủy sản khác nhau nhưng cuối cùng thì đa phần bị thất bại hoặc công ty bảo hiểm lặng lẽ rút lui khỏi thị trường bảo hiểm nông nghiệp.
Câu chuyện Groupama
Tháng 7-2001, Groupama của Pháp được Bộ Tài chính cấp phép hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp khá mới mẻ ở Việt Nam với số vốn đầu tư 5 triệu đô la Mỹ. Sau hai năm chuẩn bị với kinh nghiệm của một công ty bảo hiểm nông nghiệp hàng đầu của Pháp, đến năm 2003, công ty này đã triển khai được 5 sản phẩm bảo hiểm cho vật nuôi là bò (bò thịt, bò sữa), heo, gà, tôm sú, tôm càng xanh ở Nam bộ.
Thời gian đó, gần như trong các cuộc họp của Câu lạc bộ trang trại ở TPHCM, lúc nào cũng có mặt người của Groupama Việt Nam để giới thiệu sản phẩm bảo hiểm mới mẻ này. Lúc đầu, 15 hộ nông dân nuôi tôm sú diện tích 30 héc ta mạnh dạn mua bảo hiểm mức phí bảo hiểm từ 0,9 - 2 triệu đồng/héc ta trong 6 tháng và mức đền bù tính theo tuần.
Cách tính bồi thường là 2 tuần đầu không tính bồi thường, tuần thứ ba trở đi nếu thiệt hại hơn 80% thì bồi thường tối đa 42 triệu đồng/héc ta và cao dần cho đến tuần cuối cùng của tháng thứ sáu là 190 triệu đồng/héc ta.
Công ty đã trả giá ngay trong lần ra mắt là thu phí bảo hiểm con tôm vụ nghịch năm 2003 chỉ có 30 triệu đồng nhưng chi phí bồi thường cho 6 hộ nông dân trong 15 hộ tham gia bảo hiểm đến 400 triệu đồng, bởi nuôi tôm nghịch vụ rủi ro cao.
Sau đó công ty nâng mức phí bảo hiểm và mở rộng diện tích được bảo hiểm cho nông dân nhiều tỉnh ĐBSCL vào vụ tôm chính năm 2003 lên hơn 120 héc ta, thậm chí lúc đó công ty còn tuyên bố năm 2004, diện tích tôm có mua bảo hiểm lên hơn 1.500 héc ta của 3.000 hộ nông dân. Sau đó công ty tuyên bố mở rộng ra con bò sữa ở Củ Chi và một số nông sản khác.
Thế rồi không hiểu sao, tới năm 2006, câu chuyện bảo hiểm nông nghiệp của Groupama Việt Nam im lặng kéo dài cho tới nay. Họ không còn xuất hiện trong các hội nghị, hội thảo ngành nông nghiệp để giới thiệu về sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp. Hỏi nông dân nuôi bò sữa ở Củ Chi hay nuôi tôm ở Cần Giờ thì “có nghe nói nhưng lâu nay không thấy họ (ý nói công ty bảo hiểm) tới”.
Liên tục… thí điểm
Hiếm có lĩnh vực nào mà thí điểm nhiều bằng bảo hiểm nông nghiệp. Đi tiên phong và Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (nay là Tập đoàn Bảo Việt) từ năm 1980 cho cây lúa tại hai huyện của tỉnh Nam Định và thập kỷ 90 mở rộng sản phẩm bảo hiểm cây lúa ra 16 tỉnh, thành trong nước nhưng đầu năm 1999, doanh nghiệp bảo hiểm của nhà nước này phải ngừng triển khai bảo hiểm trên cây lúa với lý do thua lỗ.
Ba nguyên nhân khuyến bảo hiểm cây lúa không thành công thì khá đơn giản. Sản xuất lúa chịu yếu tố rủi ro bởi thiên tai; doanh nghiệp bảo hiểm gặp nhiều khó khăn trong đánh giá rủi ro, cũng như chọn đối tượng tham gia bảo hiểm; đứng sau bảo hiểm nông nghiệp phải có ngành tái bảo hiểm, nhưng thị trường nhận tái bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam gần như chưa có.
Thua trên cây lúa nhưng Bảo Việt vẫn tiếp tục thí điểm bảo hiểm nông nghiệp trên một số cây trồng vật nuôi ít rủi ro hơn như cây cao su, bò sữa, tôm, cá tra. Bảo Việt Khánh Hòa thì thí điểm bán bảo hiểm cho con tôm sú nước lợ một thời gian vào đầu những năm 2000 nhưng sau đó lặng lẽ rút lui.
Việt Nam là quốc gia sản xuất nông nghiệp, 60 - 70% dân số sống ở nông thôn, lẽ ra bảo hiểm nông nghiệp có một thị trường rất lớn, thực tế thì ngược lại. Theo thống kê của Vụ Bảo hiểm, Bộ Tài chính, tỷ trọng tham gia bảo hiểm của nông dân rất thấp, chưa tới 1% tổng diện tích cây trồng, vật nuôi. Trong khi đây lại là ngành chịu nhiều thiên tai, mất mùa, rất cần tới bảo hiểm để giảm thiểu thiệt hại cho nhà nông.
Dù các công ty bảo hiểm liên tục thử nghiệm các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp nhưng đa phần chỉ nhận bảo hiểm cho các loại cây, con ít rủi ro, sản xuất lớn, quy mô trang trại (một kiểu doanh nghiệp nông nghiệp). Những loại cây, vật nuôi nhiều rủi ro, người nông dân muốn mua bảo hiểm thì các doanh nghiệp bảo hiểm không dám nhận, còn những loại cây, con ít rủi ro, doanh nghiệp nhận bảo hiểm thì nông dân không muốn mua.
Ông Lê Quý Đăng, Cục phó Cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn, cho rằng bảo hiểm nông nghiệp chưa phát triển là do tiếng nói của nông dân và doanh nghiệp bảo hiểm chưa chưa gặp nhau, chưa hợp tác với nhau.
Còn Vụ Bảo hiểm, Bộ Tài chính trong một báo cáo gần đây nói về bảo hiểm nông nghiệp, lý giải thị trường bảo hiểm nông nghiệp chưa phát triển một phần là do hiện nay chưa có một phương pháp đánh giá nào chính xác, giúp doanh nghiệp bảo hiểm đánh giá rủi ro và phân định thiệt hại một cách khách quan trong sản xuất nông nghiệp.
Hơn nữa, thay vì mỗi khi có thiên tai, dịch bệnh, nhà nước hỗ trợ nông dân một phần kinh phí thì nhà nước nên có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nông nghiệp để doanh nghiệp cùng gánh vác trách nhiệm với nhà nước, còn nông dân thì bớt trông chờ vào hỗ trợ của nhà nước.
Cũng trong những năm đầu thập niên 2000, nông dân nuôi heo ở một số địa phương phía Bắc, ở TPHCM đã tập hợp thành nhóm 30 - 50 hộ chăn nuôi, đóng gói tiền chi phí tiêm phòng 30.000 - 40.000 đồng/con heo và thường một cán bộ thú y đứng ra đảm nhiệm “quỹ tiêm phòng dịch bệnh”. Nếu gặp rủi ro, heo bị bệnh chết thì quỹ sẽ bồi thường một phần thiệt hại.
Đây là một hình thức bảo hiểm nông nghiệp mang tính tự phát của nông dân ở các vùng chăn nuôi phát triển và cho tới nay, nhiều nơi còn tồn tại, thậm chí phát triển mạnh.
Hồng Ngọc
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.