• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Nhọc nhằn nghề quay rớ

Nguồn tin:  Báo Khánh Hòa, 18/10/2009
Ngày cập nhật: 20/10/2009

Không biết từ bao giờ, nghề đánh bắt cá bằng rớ đã có tên là “nghề quay rớ”. Nghề này đã đem lại cái ăn, cái mặc cho không ít ngư dân sinh sống quanh đầm Thủy Triều (khu vực giáp ranh Cam Ranh và Cam Lâm). Thế nhưng, để sống được với nghề này không đơn giản…

Quay rớ cũng lắm nhọc nhằn.

QUAY RỚ CŨNG LẮM “CÔNG PHU”!

Một ngày giữa tháng 10, từ Cam Ranh, chúng tôi theo con đường nối từ cầu Long Hồ (thuộc phường Cam Nghĩa, thị xã Cam Ranh) để ra Đại lộ Nguyễn Tất Thành về TP. Nha Trang. Trong bóng hoàng hôn mát rượi gió biển và tiếng reo của những rặng phi lao hai bên đường, chúng tôi nhìn thấy thấp thoáng những chiếc rớ “khổng lồ” của ngư dân nhô lên trong làn sương mỏng trên mặt đầm Thủy Triều. Chốc chốc, tiếng khua mái chèo đuổi cá của một vài ngư dân đánh lưới vang lên. Thấy tôi tò mò về những chiếc rớ giăng kín một góc đầm, anh bạn tôi cười bảo: “Đó là những chiếc “rớ chàng” - một loại ngư cụ độc đáo của ngư dân sống quanh đầm Thủy Triều. Hứng thú thì tối nay, cậu ở lại một đêm xem họ đốt đèn, giăng rớ bắt cá”.

Sẵn “máu ngao du”, tôi dễ dàng bị hấp dẫn ngay bởi lời nghị của anh bạn, vội vàng dắt “con ngựa sắt” men theo mép nước. Lục cục mãi, chúng tôi cũng đến được chòi rớ của anh Hồ Văn Lợi - một ngư dân ở phường Cam Nghĩa, thị xã Cam Ranh. Nghe anh bạn của tôi tỉ tê, muốn biết về công việc của những ngư dân đánh cá bằng rớ, anh Lợi hồ hởi nói: “Tưởng gì, chuyện đó thì dễ! Các anh cứ ở lại đây, sẵn có rượu, chốc nữa giở rớ, có con cá to, anh em mình cùng lai rai rồi trò chuyện…”.

Bơi thuyền thúng ra lưới thu cá.

Theo quan sát của chúng tôi, chòi rớ được dựng lên bằng 4 cột gỗ to, những cây cột này liên kết với nhau bằng những đoạn cây dương liễu cỡ bằng bắp tay, vừa để giữ vững chòi trước sóng gió, vừa dùng làm bậc thang lên xuống; 4 phía được neo bằng những sợi dây thừng rắn rỏi. Căn chòi là nơi ngư dân ngồi quan sát đàn cá và thao tác giở rớ, hạ rớ. Đây cũng là nơi sinh hoạt của những ngư dân sống bằng nghề này. Chòi được lót bằng những tấm ván mỏng, 4 phía được quây bằng những tấm nilon hoặc cót. Chúng tôi quan sát thấy căn chòi của anh Lợi đã bị nắng mưa làm thủng từng lỗ lớn, nóc chòi lợp bằng tôn. Dụng cụ để bắt cá cũng thật đơn giản, chỉ cần một tấm lưới (bề ngang dài khoảng 18 sải tay, bề dọc khoảng 17 sải tay, sâu chừng 3 - 4 sải tay tùy theo chỗ đặt rớ sâu hay cạn), mấy cây đèn măng-xông, 4 cọc tre và 4 sợi dây dài để giăng 4 góc lưới. Tại 2 cọc tre gần chòi canh, anh Lợi cột thêm 2 sợi dây nối liền giữa con quay với tấm lưới để có thể ngồi trên chòi quay rớ lên, hạ rớ xuống.

Chúng tôi theo anh Lợi leo lên chòi, chưa kịp ngồi gọn lại, đã thấy đàn cá chạy vào rớ. Anh bảo chúng tôi ngồi yên, còn anh tiến đến con quay để giở rớ. Vừa quay, anh vừa nói trong tiếng thở gấp: “Mỗi lần quay thế này mệt lắm! Vừa phải dùng cả tay chân để quay thật nhanh, đưa rớ lên khỏi mặt nước mới mong đàn cá không chạy thoát ra ngoài”. Quay rớ lên xong, anh Lợi bơi thuyền thúng ra chỗ tấm lưới nhô lên khỏi mặt nước. Lần quay này, anh thu được gần 2kg “chiến lợi phẩm”. Bắt cá xong, anh lên chòi hạ rớ xuống; mỗi lần quay lên hạ xuống như thế mất khoảng 10 phút.

Hạ rớ xong xuôi, anh Lợi quay vào trong chòi lấy bình trà rót mời chúng tôi, anh tâm sự: “Ở vùng đầm này, người ta chủ yếu sống bằng nghề đi biển, nuôi trồng thủy sản. Nghề rớ ai cũng biết nhưng chẳng mấy người làm, vì ngày trước làm nghề này không đủ ăn, lại phải làm ngày, làm đêm. Mấy năm trước, tôi cũng theo người làng đi biển nhưng chịu không nổi sóng gió nên đành quay về dựng chòi cất rớ, đến nay đã được 6 năm”. Tìm hiểu thêm, chúng tôi được biết, gia đình anh Lợi có 7 người con trai thì 3 người làm nghề này. Cạnh chòi rớ của anh Lợi còn có hơn chục chòi khác cũng đang hoạt động. Anh Lợi nhẩm tính, toàn bộ vùng đầm Thủy Triều có trên dưới 200 chiếc rớ như thế. Theo anh Lợi, để tìm được vị trí đặt rớ tốt, phải mất nhiều ngày quan sát, theo dõi luồng nước, luồng cá đi. Chi phí toàn bộ để dựng chòi, đặt rớ hết khoảng 10 triệu đồng. Phần lớn những người làm nghề này đều là những người yếu sức, không chịu nổi vất vả của những chuyến đi biển dài ngày, không có vốn để đầu tư nuôi trồng thủy sản. Câu chuyện nghề rớ cứ thế trôi đi, trong lúc nói chuyện, lâu lâu, anh Lợi lại phóng tầm mắt ra vị trí lưới rớ dưới mặt nước để quan sát đàn cá. Bất chợt, anh quay lại chỗ đặt con quay, định quay rớ, nhưng rồi lại không quay nữa; vì theo anh, đàn cá đã chạy ngang qua rồi. Hỏi anh, làm sao biết được đàn cá có vào lưới hay không, anh cho biết: “Tôi phải theo ông cậu học mất 1 tháng mới quan sát được dưới gợn sóng, đàn cá đi nhiều hay ít. Nghề này, chỉ có người đi trước truyền kinh nghiệm lại cho người đi sau, chứ không có sách vở nào dạy”. Câu chuyện về nghề quay rớ mà anh Lợi kể cho chúng tôi nghe cứ thế tiếp tục cho đến khi trời tối hẳn.

TRẮNG ĐÊM ĐỐT ĐÈN, QUAY RỚ…

Lấy mấy cây đèn măng-xông đã bị hoen rỉ để rót thêm dầu, anh Lợi nói: “Đã đến giờ “đánh đêm” rồi đây! Lúc này, tôi phải dùng đèn thả trên mặt nước để đàn cá thấy ánh sáng mà bơi đến. Phải đặt đèn chính giữa rớ, khi cất rớ phải kéo đèn trước, sau đó mới quay rớ lên sau. Cứ sau khoảng hơn 1 giờ đồng hồ là giở rớ một lần”. Với cách làm này, mỗi “lóng” (một lần giở rớ), anh Lợi có thể thu được 3 - 5kg cá các loại (chủ yếu là cá đối, cá cơm, cá suốt, cá dìa…). Mỗi đêm, anh thu được khoảng 20 - 30kg cá, bán cho thương lái với giá 20 nghìn đồng/kg.

Ăn vội bữa cơm tối do người nhà vừa bơi ghe mang tới, anh Lợi lại vội vàng bơi thuyền thúng ra móc đèn vào giàn dây giăng sẵn trên rớ. Ngoài mặt đầm, chúng tôi nghe có tiếng mái chèo lẫn trong tiếng gió lộng, mỗi lúc một gần. Một lát sau, một chiếc thuyền thúng khác bơi vào bờ cùng anh Lợi. Đó là một người đàn ông trạc tuổi trung niên. Nghe giới thiệu, chúng tôi mới biết, đó là ông Võ Văn Điền, anh Lợi gọi bằng cậu và cũng là “thầy” truyền nghề cho anh. Ông Điền đang canh chòi rớ ở phía đối diện. Thấy bên này “có khách”, ông Điền bơi thúng sang chơi. Sẵn dịp có chúng tôi và ông Điền, anh Lợi đi lại nơi thuyền thúng, lựa những con cá to, sau đó đi kiếm mấy cành củi khô, kê hòn đá san hô thành “bếp”, rồi thổi lửa nướng cá.

Vừa nhâm nhi mấy ly rượu với món cá nướng thơm phức còn nóng hổi, ông Điền vừa tâm sự về chuyện 20 năm gắn bó với nghề rớ của mình. Ngày còn trẻ, cũng như nhiều chàng trai miền biển khác, ông xin làm công trên thuyền đánh cá của người làng. Thế nhưng, do sức khỏe của ông không chịu được những chuyến đi biển dài ngày, nên ông đành lên bờ. Tuy vậy, với những người đã có thời gian dài “bám” biển để mưu sinh, đã quen sóng gió và “hương vị” của biển như ông Điền, nếu không đánh bắt cá ở biển họ sẽ cảm thấy “buồn như một sự chia ly”. Vì thế, sau khi cưới vợ, cũng vì mưu sinh, ông Điền đã “chạy vốn” để đầu tư dựng chòi và mua rớ đánh cá trên đầm Thủy Triều. Từ đó, nghề rớ đã trở thành nghề chính của ông. Ông Điền cho biết: “Làm nghề này coi vậy chứ vất vả lắm! Nhiều đêm giông tố nổi lên, không làm ăn gì được mà phải lo chống chọi với gió lốc để giữ “cần câu cơm”. Muốn có cá để bán thì mưa nắng gì cũng phải làm, trắng đêm đốt đèn, quay rớ, sáng ra ngủ đến trưa lại tiếp tục cất rớ ngày. Có khi cả tháng, tôi mới vô làng một lần”.

Kết thúc “tiệc nhậu”, anh Lợi lên chòi quay rớ, dưới ánh đèn măng-xông, những chú cá mắc rớ bị nhấc lên khỏi mặt nước sáng lấp lánh ánh bạc, giãy lạch bạch. 4 người chúng tôi ngồi trên 2 chiếc thúng bơi ra thu cá. Ông Điền dùng mái chèo đập vào mành lưới để gom cá lại thành một khóm. Ở thuyền bên kia, anh Lợi tiến lại tháo “rốn rớ” để xổ cá vào thùng xốp. Đêm đó, anh Lợi giở rớ khoảng 15 “lóng”, thu được khoảng 40 - 50kg cá.

Với giá cá bán cho thương lái 20 nghìn đồng/kg thì nghề rớ “hái ra tiền” thật. Nhiều người có “thâm niên” làm nghề này đều nuôi được cả gia đình, xây được nhà, lo cho con ăn học… Thế nhưng, những năm gần đây, lượng cá đánh bắt được từ nghề truyền thống này không còn dồi dào như trước. Những người làm nghề này cho rằng, do nuôi trồng thủy sản nên nguồn nước bị ô nhiễm, vì thế mà cá ít hơn. Ngoài ra, một số ngư dân đánh bắt cá bằng các phương tiện hủy diệt nên số lượng cá giảm đi nhiều. Theo ông Điền: “Những năm trước, lúc vào vụ (từ tháng 7 đến tháng 9 âm lịch), có “lóng”, tôi phải ráng hết sức để quay nhưng vẫn không thấy mệt, vì trong rớ có khoảng 40 - 50kg cá; còn hiện nay, tuy đang còn trong vụ, nhưng “lóng” nhiều nhất cũng chỉ được 3 - 4kg”.

Chia tay những người làm nghề rớ, chúng tôi đứng trên Bãi Dài nhìn xuống mặt đầm, bóng nước lấp lánh ánh trăng và ánh đèn măng-xông; tiếng mái chèo vỗ nước, tiếng cót két của “con quay” xa dần…

BÍCH LA - THANH NAM

Các tin mới:

20/10/2009
20/10/2009
20/10/2009
20/10/2009
20/10/2009
20/10/2009
20/10/2009
20/10/2009
20/10/2009

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang