• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Hải Dương: Bỏ trâu thịt, mua trâu máy

Nguồn tin:  Nhân Dân, 05/05/2009
Ngày cập nhật: 6/5/2009

Gói kích cầu, hỗ trợ lãi suất giúp nông dân mua máy nông nghiệp đối với nhiều vùng nông thôn đang là chuyện mới, chuyện nóng, nhưng ở Hải Dương đó là chuyện xưa của một năm trước đây.

Từ khi ông Lưu Đức Đồi mua được chiếc máy cày về làm đất, người nông dân thôn Thịnh Xuyên, xã Nghĩa An, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương đã bỏ hết trâu bò. Họ bây giờ không còn phải lo lắng về khâu làm đất nữa.

Trước kia mảnh đất Ninh Giang vốn bạc màu, khâu làm đất lại phụ thuộc chủ yếu vào trâu bò, nên đồng áng của người nông dân hết sức vất vả, nhưng năng suất cây trồng vẫn thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn.

Chính sách cơ giới hoá nông nghiệp lâu nay đã giúp nhiều vùng ở Hải Dương bớt khó, nhưng nông dân Ninh Giang vẫn phải sử dụng lối canh tác “con trâu đi trước cái cày” từ ngàn đời để lại. Vậy nên thu nhập từ cây lúa và sáu héc-ta ao cá của cả gia đình năm lao động như ông Đồi, cố lắm cũng chỉ được hai triệu mỗi tháng.

Sau khi biết tin tỉnh Hải Dương sẽ hỗ trợ cho nông dân mua máy cày, ông đã tự mình lặn lội đi tận Hà Tây và Hải Phòng để tìm mua máy. Lật tấm vải che cái máy BS 20 sơn đỏ sáng bóng, ông Đồi giải thích: “Rút kinh nghiệm từ vụ chiêm xuân trước vừa gặt, vừa cấy chỉ trong vòng một tháng thì máy nhỏ không kịp nên phải mua máy to, nó vừa dập được giạ, giá thành lại hạ, phù hợp với đồng đất này”.

Ông Đồi, 57 tuổi cho biết, từ ngày mua cái máy về cày thuê cho hợp tác xã, thu nhập trung bình của gia đình đã tăng lên 5 triệu mỗi tháng. “Đã vậy, một năm chỉ phải làm hai, ba tháng thôi”, ông Đồi nói.

Tháng 6-2008, UBND tỉnh Hải Dương đã phê duyệt đề án “hỗ trợ nông dân đầu tư cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2008 – 2010”. Theo đó, tỉnh quyết định trích tiền từ nguồn Quỹ hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông thôn để hỗ trợ 100 % lãi suất trong ba năm cho 75% giá mua máy cày của nông dân. Tỉnh cũng yêu cầu Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hải Dương, cùng các sở ban ngành tạo điều kiện thuận lợi nhất để giúp người nông dân tiếp vốn sản xuất.

Nhờ đó, cái máy có giá hơn 108 triệu đồng của ông Đồi đã được tỉnh hỗ trợ cho vay không lãi suất đến 81,5 triệu đồng trong ba năm. Sau khi nhận máy về hồi tháng 10 năm ngoái, ông Đồi đã được ký ngay hợp đồng với hợp tác xã để nhận cày hơn 70 mẫu ruộng cho bà con, với giá 600 nghìn đồng/mẫu. Ông Đồi không ngần ngại cho biết, sau khi trừ tiền trả công lao động và xăng dầu, vụ năm ngoái ông thu về 450 nghìn đồng/mẫu. Đấy là chưa kể nếu làm hết công suất, máy của ông Đồi phải được làm 150 mẫu mỗi vụ, nhưng hiện ông vẫn chưa dám mở rộng, vì phải tìm người phối hợp hỗ trợ những lúc xảy ra sự cố. Kéo một hơi thuốc lào dài, ông Đồi tiếp: “Cứ cái đà này thì thoải mái trả ngân hàng”.

Trong giai đoạn một của đề án, huyện Ninh Giang có 13 xã được hỗ trợ lãi suất mua 98 máy cày, với tổng trị giá 1,289 tỷ đồng. Đánh giá cao hiệu quả của đề án này, ông Trần Văn Chắn, Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện Ninh Giang, nói: “Cái được lớn nhất là thay đổi được phương thức canh tác từ ngàn đời”. Chi phí khâu làm đất từ cày đến cấy giảm từ 80 nghìn đồng/sào xuống còn 60 nghìn đồng/sào. “Riêng huyện Ninh Giang, chính sách hỗ trợ lãi suất đã giúp người nông dân được hưởng lợi 200 triệu đồng mỗi năm, ba năm là 600 triệu đồng”, ông Chắn nhẩm tính.

Tuy nhiên trên bình diện tổng thể, những con số còn lớn hơn rất nhiều. Ông Lê Đình Khanh, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Hải Dương cho biết, giai đoạn I của đề án dự kiến kéo dài một năm nhưng đã sớm hoàn thành chỉ trong sáu tháng, với tổng số 669 máy cày đã được người nông dân mua hết. Theo tính toán của ông Khanh, số máy này làm một vụ được 7600 ha, đã kéo giá dịch vụ giảm được 20 nghìn đồng/sào. Như vậy người nông dân trong tỉnh đã được lợi 4,2 tỷ đồng, trong khi các nông dân là chủ máy vẫn lãi 9,5 tỷ đồng. Cộng hai khoản này, người nông dân sẽ được hưởng lợi 13,7 tỷ đồng mỗi vụ so với trước đây. Và nếu tính trong ba năm, sáu vụ họ sẽ thu lợi 82,2 tỷ đồng.

Ông Khanh cho biết thêm, ở xã Minh Đức, huyện Tứ Kỳ, người nông dân thấy hiệu quả đã tự bỏ tiền ra mua thêm máy, mà không cần hỗ trợ. Cái hay nữa của đề án này là những hộ nông dân được hỗ trợ mua máy được tuỳ chọn loại máy, miễn là máy mới. Họ còn cam kết sẽ giúp đỡ những hộ khó khăn. Chẳng hạn như vụ năm ngoái, ông Đồi đã cày giúp hơn 10 hộ nghèo, chỉ lấy tiền công thợ và tiền dầu. Một nửa số hộ thuê cày được ông cho trả chậm đến mùa thu hoạch.

Ở xã Vĩnh Hòa, ông Nguyễn Hữu Tính, 56 tuổi là người đầu tiên mua máy, nhưng ông lại chọn mua một cái máy nhỏ 8 mã lực. Hồi năm 1976 xã ông đã đưa hơn chục máy cày vào sản xuất, nhưng sau khoán 10 thì máy to không phù hợp, máy nhỏ thích hợp hơn nhưng lại không có tiền. Nay nhận thấy cơ chế hỗ trợ lãi suất của tỉnh rất phù hợp, ông Tính rủ thêm hai hộ nữa chung nhau mua cái máy cày, trị giá 13 triệu đồng. Ông chỉ phải bỏ ra 5 triệu đồng, vì ngân hàng đã cho vay 8 triệu không lãi suất, trả dần trong ba năm. Sau khi mua về các hộ lại bỏ thêm 6 triệu đồng để gia công biến nó thành cái máy đa năng, vừa cày được đất, chở được lúa, lại có thể làm cả chức năng bơi nước, lợi không biết đâu mà kể.

Theo thời giá hiện nay một con trâu đã có giá đến 10 triệu đồng, chưa kể công chăm sóc. Sức trâu không thể bì với sức máy, đã vậy mỗi khi trâu ốm, bệnh thì việc đồng áng lại bị ngưng trệ. Ông Tính cho biết: “Làm máy rút được một nửa thời gian làm đất”. Hơn nữa, đất làm bằng máy tạo điều kiện cho cây lúa phát triển tốt hơn, cày ngấu đất nên cỏ không mọc được, sâu bệnh cũng giảm... Trước kia năng suất ruộng nhà ông chỉ được 1,9 tạ/sào, nay làm máy đã được hơn 2 tạ/sào.

Chỉ mới làm vụ năm ngoái, chi phí làm đất của nhà ông đã giảm gần một nửa, tức là chưa đến 40 nghìn đồng/sào, so với 70 nghìn đồng/sào nếu phải đi thuê. Ông Tính vỗ nhẹ lên nắp máy, rồi khẳng định: “Chỉ trong hai năm là trả hết nợ thôi”.

Ông Nguyễn Xuân Tô, phó chủ tịch xã Vĩnh Hòa, cho biết giai đoạn I xã Vĩnh Hòa được hỗ trợ mua 24 máy cày và hiệu quả đã quá rõ ràng. Giờ nguyện vọng chung của bà con nơi đây là muốn được hỗ trợ mua thêm nhiều máy khác nữa. Ông Tô hy vọng trong giai đoạn II, Vĩnh Hòa sẽ được mua thêm 12 máy cày, 4 máy tuốt lúa và 2 máy bơm to.

Thực tế, cơ giới hóa nông nghiệp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần tăng năng suất lao động, bảo đảm tính thời vụ, hạn chế rủi ro do thiên tai, dịch bệnh... Từ đó cải thiện điều kiện lao động, giúp người nông dân có thêm thời gian cho các hoạt động khác, mở thêm các ngành nghề mới, tạo việc làm, tăng thu nhập.

Cơ giới hóa cũng góp phần thúc đẩy dồn điền, đổi thửa, tích tụ ruộng đất, để sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao, giá thành hạ. Hiện sản xuất nông nghiệp của Hải Dương vẫn chiếm tỷ trọng lớn, với hơn 70% dân số sống ở nông thôn, nhưng chỉ đóng góp được chưa đến 27% trong GDP. Tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đất hiện mới đạt 70%, khâu gieo trồng, cấy, gặt, phun thuốc trừ sâu bệnh, tưới phun, sục khí ao cá trong nuôi trồng thủy sản mới chỉ đạt 0-5%. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu vốn đầu tư, một số nơi ruộng đất còn manh mún, đất nông nghiệp bình quân đầu người đạt thấp, nông dân ít hiểu biết về các loại máy móc mới. Ngoài trâu bò, người dân đa phần chỉ sử dụng những loại máy cũ, rẻ tiền, chất lượng kém. Nguồn gốc chủ yếu là tự gia công nên năng suất, chất lượng cây trồng thấp, làm việc vất vả. Chính vì vậy, mục tiêu của đề án là đến năm 2010 riêng khâu làm đất của tỉnh phải nâng lên 85%.

Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hải Dương, bà Đông Thị Thảnh đánh giá cao hiệu quả của đề án đầu tiên phục vụ nông nghiệp và nông thôn ở Hải Dương. Bà Thảnh cho rằng, UBND tỉnh cần tiếp tục mở rộng đầu tư hỗ trợ hỗ trợ nông dân mua thêm các loại máy khác như ô tô, máy bơm, máy gặt... Bà nói: “Sản xuất nông nghiệp đâu chỉ có máy cày?!”.

Tuy nhiên theo bà Thảnh, các địa phương cũng nên tính toán làm sao cho cơ cấu máy phù hợp với diện tích đồng đất. Bà nói: “phải xem bao nhiêu máy cày, bao nhiêu máy gặt... là vừa, mới đạt hiệu quả, tránh chỗ thừa, chỗ thiếu”.

Điều băn khoăn của bàThảnh không phải là không có cơ sở, nhưng giải bài toán này là trách nhiệm của các nhà quản lý, chuyên môn ở địa phương. Còn đối với những người nông dân thuần túy như ông Đồi thì chỉ mong muốn HTX duy trì việc làm đất tập trung, không để người dân tự phát. Như vậy ông mới giữ ổn định được công việc, rồi mới tính chuyện phát triển tiếp.

Tiễn chúng tôi ra tận cửa, ông cười bảo: “Hiện vẫn chưa dám nghĩ tới việc mua sắm hay sửa sang nhà cửa gì. Trước mắt phải để dành trả hết ngân hàng đã”.

Xuân Bách, Đức Nghĩa và Quang Dũng

Các tin mới:

6/5/2009
6/5/2009
6/5/2009
6/5/2009
6/5/2009
6/5/2009
6/5/2009
6/5/2009
6/5/2009

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang