• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Gia Lai: Kinh tế trang trại thời hội nhập

Nguồn tin:  Báo Gia Lai, 30/04/2009
Ngày cập nhật: 4/5/2009

Gia Lai hiện có khoảng 2.300 trang trại, có quy mô từ năm bảy hecta cho đến vài chục hecta. Trong đó phần nhiều trang trại tập trung phát triển các loại cây công nghiệp ngắn và dài ngày như cao su tiểu điền, cà phê, tiêu, mía, điều...và bước đầu đã hình thành nên các vùng chuyên canh theo từng vùng phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu. Ở các huyện nằm ở phía Đông Trường Sơn như Ia Pa, Kbang, An Khê, Ayun Pa thì phát triển trồng mía; Krông Pa và Kông Chro thì phát triển mạnh cây điều; Chư Sê trồng tiêu; còn ở các huyện ở phía Tây Trường Sơn như Đức Cơ, Chư Prông, Chư Pah và Ia Grai thì chủ lực vẫn là cây cà phê kết hợp với phát triển chăn nuôi đàn gia súc.

Tuy nhiên, xét về mặt tổng thể thì kinh tế trang trại (KTTT) ở Gia Lai vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém trong cung cách làm ăn, manh mún và nhỏ lẻ chưa khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng thế mạnh ở địa phương. Do tư duy của chủ trang trại còn mang nặng đặc tính tiểu nông, thiếu tính chuyên nghiệp trong kinh doanh cũng như thiếu những điều kiện cần thiết về vốn, kiến thức kỹ thuật...Những hạn chế này đã làm cho KTTT trên địa bàn thiếu tính bền vững, sức cạnh tranh không cao và dễ bị tổn thương trước trước cơ chế thị trường đang diễn ra ngày càng khốc liệt. Tới đây để KTTT phát triển bền vững, thiết tưởng cần áp dụng đồng bộ các giải pháp sau:

Về đất đai, cần giải quyết nhanh các thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang trại nếu thấy hội đủ các điều kiện cho phép. Sớm ban hành các trình tự thủ tục cấp, thu hồi giấy chứng nhận KTTT, chỉnh sửa các tiêu chí về KTTT, nhất là trang trại chăn nuôi cho phù hợp tình hình thực tiễn, làm rõ đặc trưng của trang trại và thể hiện sự khác biệt so với nông hộ, làm sơ sở để hình thành các chính sách ưu đãi về phát triển KTTT. Kiến nghị sửa đổi chính sách, khuyến khích tích tụ đất đai, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp để người dân có thể sống, làm giàu được từ nông nghiệp, hướng đến việc sử dụng đất đai hiệu quả, chuyển dịch lao động ở nông thôn hợp lý. Đối với nông dân có đất nhưng không sản xuất có thể toàn quyền quyết định cho thuê, chuyển nhượng đất đó cho người khác. Việc chuyển nhượng, cho thuê hoàn toàn thực hiện theo cơ chế thị trường và sự thỏa thuận của hai bên bằng hợp đồng dân sự có sự xác nhận thống nhất của cấp chính quyền địa phương. Mặt khác, luật pháp không được phân biệt đối xử giữa các chủ thể (cá nhân và tổ chức) trong cùng một hành vi. Cùng sử dụng đất nông nghiệp, nhưng hộ nông dân bị hạn điền khi giao đất và khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, còn tổ chức thì không? Các doanh nghiệp chỉ cần lập dự án trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, nếu xét thấy khả thi, Nhà nước có thể cho họ thuê, giao quyền sử dụng đất với diện tích hàng ngàn héc ta. Đó là điều phi lý.

Về tín dụng, thực tiễn cho thấy nguồn vốn đầu tư để mở rộng quy mô và chất lượng KTTT trên địa bàn được coi là “cú hích” quan trọng hàng đầu, tạo lực cho sức phát triển một cách bền vững. Nhiều khảo sát gần đây cho thấy, hầu hết các chủ trang trại đều thiếu nguồn vốn đầu tư phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên thường dẫn đến tình trạng “gặp đâu làm đó” với quy mô nhỏ lẻ, thiếu sự tính toán đến chiến lược lâu dài có hiệu quả, nhất là các chủ trang trại người dân tộc thiểu số. Do đó, cần linh hoạt hơn, gọn nhẹ hơn trong thủ tục cho vay vốn, thuê đất qui định hợp lý, cụ thể thực hiện Nghị quyết số 03/2000-NQ-CP ngày 2-2-2000 về đầu tư đối với KTTT. Ngoài ra cần tạo điều kiện để trang trại tiếp cận các nguồn vốn vay chính thức, tăng tỷ lệ vốn vay chính thức trong cơ cấu vốn đầu tư phát triển của trang trại. Sở NN & PTNT hỗ trợ trang trại xây dựng dự án khả thi để đầu tư thuộc các chương trình dự án (chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, mục tiêu quốc gia…). Tăng cường hỗ trợ trang trại chăn nuôi heo sinh sản từ 50% lãi suất tiền vay ngân hàng trong 2 năm (đối với chi phí đầu tư chuồng trại đúng quy trình kỹ thuật của ngành nông nghiệp) lên 3 năm, thời gian vay vốn từ 10-15 năm.

Về kiến thức nông nghiệp, có chương trình đào tạo nâng cao tri thức và kỹ năng sản xuất nông nghiệp cho chủ trang trại để họ có thể quản lý tốt trang trại của mình. Tăng cường hoạt động khuyến nông là cách tốt nhất để thực hiện điều này. Nâng cao kiến thức khoa học kỹ thuật, năng lực thị trường và kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là Hiệp định vệ sinh an toàn thực phẩm. Đưa nội dung đào tạo bồi dưỡng chủ trang trại vào chương trình khuyến nông, chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn (quản lý kinh tế, kiến thức pháp luật, tin học…). Hiện tại hoạt động khuyến nông cho trang trại chưa được quan tâm đúng mức, chỉ dừng lại mức phổ biến chính sách, thủ tục xin cấp giấy chứng nhận trang trại, còn các nội dung liên quan đến nâng cao năng lực chuyên môn, trình độ quản lý…hầu như chưa đề cập đến. Do vậy Trung tâm Khuyến nông tỉnh sớm hình thành bộ phận chuyên trách công tác khuyến nông phát triển trang trại và xem đây là nhiệm vụ trọng tâm.

Về thị trường, qui hoạch chợ nông thôn, các trung tâm giao dịch mua bán ở các địa bàn tập trung nhiều trang trại; tổ chức việc cung cấp thông tin thị trường, giúp các chủ trang trại tiếp cận với thị trường thông qua hội thảo, dự án hợp tác, hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Đã quyết tâm làm trang trại phải là người có gan to, có vốn, năng lực kinh doanh; nếu không đủ trình độ thì thuê tư vấn, thuê người làm. Đặc biệt thời hội nhập các chủ trang trại phải nắm được thông tin về thị trường, giá cả. Các trang trại phải liên kết với nhau thành hiệp hội để chia sẻ kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, giúp nhau tiêu thụ sản phẩm. Có cơ chế khuyến khích các chủ trang trại liên doanh liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; cũng cố doanh nghiệp thương mại, phát triển doanh nghiệp chế biến ở các vùng tập trung nhiều trang trại; khuyến khích phát triển các loại hình kinh doanh cung cấp dịch vụ bảo hiểm rủi ro về giá nông sản, dịch bệnh cho chủ trang trại theo nguyên tắc thỏa thuận, tự nguyện, cùng có lợi. Nâng cao năng lực quản lý cho chủ trang trại; đào tạo tay nghề cho người lao động; khuyến khích các chủ trang trại áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất thông qua các hoạt động khuyến nông, khuyến công. Trong điều kiện nguồn lực cho phép (vốn, đất đai, lao động, kiến thức nông nghiệp…), cần khuyến nghị chủ trang trại đa dạng hóa loại hình sản xuất để giảm thiểu rủi ro trong sản xuất.

Tăng cường quản lý Nhà nước đối với KTTT theo hướng tạo mọi điều kiện để các chủ trang trại thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình với địa phương; định kỳ Sở NN & PTNT tổ chức hội thảo, hội nghị về KTTT, qua đó rút kết kinh nghiệm các mô hình trang trại tiên tiến để tuyên truyền phổ biến nhân ra diện rộng và phát hiện điều chỉnh các mặt chưa tốt của KTTT. Đồng thời đó cũng là dịp tôn vinh những người làm trang trại giỏi, bởi họ là lực lượng xung kích của ngành nông nghiêp, góp phần lớn vào sự nghiệp CNH-HĐH.

Trọng Bảo

Các tin mới:

4/5/2009
4/5/2009
4/5/2009
4/5/2009
4/5/2009
4/5/2009
4/5/2009
4/5/2009
4/5/2009

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang