• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Chiến lược phát triển cây lúa Việt Nam

Nguồn tin: Báo Hậu Giang, 04/12/2009
Ngày cập nhật: 4/12/2009

Tại Hội thảo khoa học “Cây lúa Việt Nam” mới đây, đã có nhiều vấn đề được đưa ra mổ xẻ nhằm phát triển cây lúa bền vững. Điều quan tâm nhiều nhất của các nhà khoa học là làm gì để tăng năng suất và cơ giới hóa trong sản xuất lúa.

* Phát triển nghề trồng lúa

Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Chí Bửu, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam cho rằng, lịch sử trồng lúa Việt Nam có từ trên 5.000 năm trước, sự hình thành gắn liền với sự phát triển đê điều, thủy lợi. Vào thế kỷ 15 đã đánh dấu mốc phát triển vàng son của nông nghiệp ViệtNam. Năng suất lúa bình quân từ 1,2 tấn/ha, vào đầu thế kỷ 20 lên 2 tấn/ha, vào đầu thập niên 1960 đạt 5,2 tấn/ha, vào năm 2008 với sản lượng lúa trên 38,6 triệu tấn. Việt Nam là một trong những nước tiên phong của cách mạng xanh: lúa Thần Nông 8 (miền Nam) và Nông Nghiệp 8 (miền Bắc). Trong những năm qua, các nhà khoa học tập trung nghiên cứu phát triển giống lúa đáp ứng cả hai yêu cầu về an toàn lương thực và có khả năng cạnh tranh cao về chất lượng nông sản, gia tăng thu nhập cho người trồng lúa. Thách thức đặt ra là diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm dần do tốc độ đô thị hóa, nhưng sản lượng lúa phải tăng gấp đôi vào năm 2050 mới đáp ứng nhu cầu. Trong chiến lược cải tiến giống lúa ở ĐBSCL, đã hình thành các giống lúa ngắn ngày có thời gian sinh trưởng ngắn (90 - 100 ngày), làm gia tăng diện tích gieo trồng từ 3,8 - 4 triệu ha với sản lượng khoảng 20 triệu tấn/năm. Hình thành các giống chống chịu ổn định với rầy nâu, bệnh đạo ôn, cải tiến phẩm chất gạo như: hàm lượng amylose, độ trong suốt hạt gạo, mùi thơm. Ứng dụng kỹ thuật máy sạ hàng, 3 giảm 3 tăng, nên mật độ sạ có thể giảm đến 50 kg/ha. Trong chiến lược gia tăng hạt lúa, ông Bửu cho rằng, cần thu hẹp chênh lệch năng suất, giảm thiệt hại do sâu bệnh, khai thác giống lúa thuần chống chịu dịch bệnh, khai thác ưu thế lai, lúa C4, đổi mới chiến lược kinh doanh từ hạt gạo sang hạt lúa.

Còn Tiến sĩ Lưu Văn Huỳnh, Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ, khẳng định: Mặc dù diện tích gieo trồng của khu vực này không lớn, chỉ 597.500 ha, nhưng hàng năm cung cấp gần 3 triệu tấn lúa đủ đáp ứng nhu cầu tại chỗ và giữ được an ninh lương thực trong vùng. Tuy nhiên, nhiều bất cập và trở ngại của vùng lúa này còn lớn và đặt ra nhiều thách thức cần giải quyết, đó là làm sao duy trì được diện tích trồng lúa, tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất cho người nông dân. Hạn chế tối đa rủi ro do thiên tai, bệnh tật gây ra cho cây lúa. Bên cạnh phát triển các giống lúa được lai tạo trong nước, các giống lúa lai cũng phát triển mạnh ở miền Bắc với diện tích khoảng 600.000 ha/năm, cho năng suất từ 6,5 - 9 tấn/ha, cũng là một tín hiệu vui cho nghề trồng lúa.

* Khó trong cơ giới hóa

Tiến sĩ Nguyễn Duy Đức, Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, Bộ NN&PTNT cho rằng, tình trạng khan hiếm nhân lực cho sản xuất nông nghiệp xảy ra phổ biến từ khâu làm đất, gieo cấy và thu hoạch. Tại ĐBSCL, giá nhân công tăng mạnh trong vài năm gần đây, làm chi phí sản xuất lúa gạo lên cao. Đặc biệt, tổn thất khi thu hoạch và sau thu hoạch với số lượng lúa gạo rất lớn (11 - 13%) tập trung ở các khâu phơi sấy, bảo quản, xay xát và chế biến. Tổn thất về chất lượng nông sản, làm giảm giá trị thương phẩm từ 10 - 20%. Cơ giới hóa sản xuất lúa Việt Nam bắt đầu từ cuối những năm 1950, nhưng tốc độ phát triển rất chậm và không ổn định, do cơ chế bao cấp. Theo thống kê của Cục Chế biến và Thương mại nông lâm thủy sản và ngành muối, mức độ cơ giới hóa sản xuất lúa khâu làm đất đạt 72%, gieo cấy 20%, tưới tiêu 86%, phun thuốc trừ sâu 20%, thu hoạch (vùng ĐBSCL) 20%, đập tuốt 84%, vận chuyển 66%, xay xát gạo 95%, sấy lúa vụ Hè thu ĐBSCL là 38,7%.

Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng và việc cải tạo đồng ruộng chưa phù hợp, trình độ tổ chức sản xuất của địa phương còn nhiều hạn chế. HTX và tập đoàn sản xuất chưa mạnh, chưa đem lại lợi ích thực sự cho nông dân. Việc quy hoạch các vùng sản xuất lúa cao sản, đặc sản chưa rõ ràng tại một số nơi, chưa tạo ra các vùng sản xuất lúa với khối lượng lớn tập trung, đáp ứng cho việc xuất khẩu với khối lượng lớn. Do độc canh cây lúa và sản xuất 3 vụ trong năm là nguyên nhân gây khó khăn áp dụng cơ giới hóa sản xuất lúa. Vì ruộng không có thời gian nghỉ, không được cày phơi ải, không diệt được các ổ dịch bệnh, không tạo được độ cứng của nền đất nên di chuyển máy trên đồng khó khăn. Khi nuôi trồng thủy sản phát triển với các mô hình lúa - cá hay lúa - tôm là điều khó khăn khi áp dụng cơ giới hóa. Mặt khác, do ảnh hưởng giống lúa, nên việc đưa cơ giới hóa vào sản xuất cũng gặp khó khăn, như chiều cao cây lớn, độ cứng cây yếu, dễ đổ ngã, bông hạt không tập trung cùng độ cao, kích thước hạt chưa đồng đều. Kết cấu hạ tầng nông thôn kém, ngành cơ khí trong nước chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp do quy mô nhỏ, thiết bị, công nghệ lạc hậu; sản lượng thấp, quy trình sản xuất khép kín, thiếu chuyên môn hóa, thiếu hợp tác liên kết tổ chức sản xuất.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Dương Văn Chín, Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, nhận định: Hạn chế trong cơ giới hóa do bình quân đất lúa trên đầu người thấp, kết cấu hạ tầng nông thôn kém phát triển, cơ giới hóa khó khăn, quá trình tích tụ ruộng đất để đạt mức hạn điền 6 ha còn chậm. Lao động nông nghiệp tại nông thôn dôi dư còn lớn. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi làm giảm diện tích đất trồng lúa. Thu hoạch thủ công thất thoát rơi rụng còn lớn, thiếu phương tiện sấy khô kịp thời, nhất là trong mùa mưa; công nghệ sấy tĩnh vỉ ngang lạc hậu; tồn trữ hảo khí hạt lúa và hạt gạo gây thất thoát lớn; xay xát ở ẩm độ cao (15 - 17%), thu hồi tỷ lệ gạo nguyên thấp. Các doanh nghiệp kinh doanh lương thực không hình thành được vùng nguyên liệu tập trung cho chính mình. Công nghệ hạt giống yếu kém, hiện có hàng trăm giống lúa phục vụ sản xuất đại trà, nhưng chưa có một giống lúa nào do các nhà khoa học Việt Nam lai tạo chọn lọc có chất lượng cao và nổi tiếng thế giới như giống Basmati của Ấn Độ.

* Những giải pháp

Để đẩy nhanh cơ giới hóa sản xuất lúa, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh lương thực, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Dương Văn Chín đưa ra giải pháp là tăng nhanh số lượng máy gặt đập liên hợp để giảm hao hụt, gia tăng sản lượng, thay thế quá trình cắt, gom, suốt thủ công. Từng tỉnh nên hình thành chính sách hỗ trợ thiết thực, như hỗ trợ 100% lãi suất ngân hàng để cho nông dân sản xuất nhỏ vay vốn trong một vài năm, nhằm sửa chữa hoặc xây mới sân phơi, lập lều di động phơi chạy mộng cho lúa trong mùa mưa. Nhà nước Trung ương cùng địa phương tổ chức đầu tư các khu phơi sấy, tồn trữ, xay xát, chế biến lúa gạo hiện đại theo phương thức kinh doanh dịch vụ để đảm bảo tính bền vững lâu dài. Các công ty kinh doanh lương thực nên hình thành các vùng nguyên liệu tập trung cho chính mình. Những nông dân cá thể nên hùn đất lại với nhau, hùn vốn để hình thành những công ty sản xuất lúa gạo với kỹ thuật tiên tiến trên quy mô trang trại rộng lớn. Trên cơ sở đó, chọn trong những giống lúa hiện có, gieo trồng một giống lúa cho mỗi công ty để chế biến ra sản phẩm gạo thương hiệu nổi tiếng cho chính mình. Nếu không tìm được giống nào ưng ý trong hàng trăm giống hiện có, thì đặt hàng các nhà di truyền giống lai tạo chọn lọc giống lúa theo yêu cầu của mình. Doanh nghiệp đặt hàng các công ty giống nhân giống và cung cấp hạt giống xác nhận cho vùng nguyên liệu của mình, vì quá trình này sẽ khích lệ công nghệ hạt giống phát triển. Các giải pháp kỹ thuật từ khi gieo trồng cho đến khi thu hoạch cần được nghiên cứu xây dựng một cách khoa học trên cơ sở áp dụng rộng rãi chương trình “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”. Sắp xếp lại thời vụ một cách khoa học trong vùng, bỏ hẳn vụ lúa Xuân hè, cách ly khoảng một vài tuần gieo sạ trong các vụ, quản lý bằng biện pháp sinh học để hạn chế thấp nhất tác hại của sâu bệnh, đặc biệt là rầy nâu truyền bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá từ lúa mùa sang lúa cao sản. Quản lý một cách khoa học các hóa chất nông nghiệp trong trồng lúa, không để hạt gạo nhiễm bẩn các hóa chất nông nghiệp...

Còn Tiến sĩ Nguyễn Duy Đức cho rằng, cần kết hợp giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo hướng tích tụ tập trung với việc tổ chức lại sản xuất. Cải tạo và chỉnh trang đồng ruộng, đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp thích nghi với việc áp dụng cơ giới hóa. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực chế tạo máy móc phục vụ cơ giới hóa nông nghiệp. Nghiên cứu, tổng kết, đánh giá các mô hình tổ chức quản lý thích hợp với từng vùng, từ đó có giải pháp xây dựng và nhân rộng trong cả nước. Trước mắt, cần có các cơ chế chính sách thích hợp nhằm thúc đẩy xây dựng các công trình thủy lợi, cải tạo đồng ruộng, đẩy nhanh việc dồn điền đổi thửa, nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn là bước đi đầu tiên và cấp bách thúc đẩy quá trình cơ giới hóa. Cần có các chính sách thích hợp để hỗ trợ cho các thành phần kinh tế đầu tư chế tạo máy móc thiết bị, người sử dụng cơ giới hóa nhằm đẩy nhanh tốc độ cơ giới hóa sản xuất lúa, góp phần thực hiện tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn...

HOÀI THU

Các tin mới:

31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
29/12/2013
29/12/2013
29/12/2013
29/12/2013
29/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
26/12/2013
26/12/2013
26/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
24/12/2013
24/12/2013
24/12/2013
24/12/2013
24/12/2013
23/12/2013
23/12/2013
23/12/2013
22/12/2013
21/12/2013
21/12/2013
21/12/2013
21/12/2013
21/12/2013
21/12/2013
20/12/2013
20/12/2013
20/12/2013
20/12/2013
20/12/2013
20/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
17/12/2013
17/12/2013
17/12/2013
17/12/2013
17/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
15/12/2013
15/12/2013
14/12/2013

 

Các tin năm 2014

Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang