• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Ðể cây chè thật sự là cây xóa đói, giảm nghèo ở Phú Thọ

Nguồn tin: Nhân Dân, 30/06/2009
Ngày cập nhật: 30/6/2009

Những năm gần đây, cây chè ở Phú Thọ phát triển nhanh cả về diện tích, năng suất, sản lượng, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng vạn hộ dân trồng chè. Ðể cây chè phát triển bền vững, và trở thành cây mũi nhọn ở địa phương, thực tế đang đặt ra nhiều vấn đề cần được quan tâm tháo gỡ.

Kỹ sư Nguyễn Thị Nhàn, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thanh Sơn cùng chúng tôi về Võ Miếu, một trong 14 xã vùng chè của huyện.

Nắng hè oi ả như dịu hẳn bởi mầu xanh ngắt của những nương chè hai bên đường, trải rộng từ đồi thấp lên đồi cao, len lỏi vào tận vườn nhà dân. Ðến xóm Tân Bình, chúng tôi gặp chị Nguyễn Thị Ngoan đang hái chè trước vườn nhà, hỏi chuyện, chị cho biết: Gia đình trồng được gần một ha chè lai, mới có một nửa diện tích cho thu hoạch nhưng mỗi lứa đã thu được hơn một tấn búp tươi, một năm hái sáu, bảy lứa. Với giá hơn 3.000 đồng/kg như bây giờ, năm nay ước tính sẽ thu khoảng 20 triệu đồng. Xóm này có 130 hộ dân, nhà nào cũng trồng chè, nhiều hộ có từ 1,5 đến 2 ha, mỗi lứa hái thu ba, bốn tấn búp như nhà ông Sơn Hà, Quân Quyền, Thủy Công... Nguồn thu từ chè hiện chiếm gần một nửa thu nhập của các gia đình ở đây. Theo kỹ sư Nhàn, tuy diện tích chè của nhà chị Ngoan không lớn, nhưng chị là người đi đầu trong việc trồng chè giống mới, nhiều người coi chị là "chuyên gia" về kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hái chè.

Ðến trụ sở UBND xã Võ Miếu, chúng tôi gặp Chủ tịch xã Hà Quang Khánh vừa đi dự khai mạc lớp tập huấn "Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn trên cây chè" về. Chủ tịch Hà Quang Khánh cho biết: Lớp tập huấn do ngành bảo vệ thực vật tỉnh mở tại xã dành cho người trồng chè. Bình quân mỗi năm có sáu, bảy lớp tập huấn được mở tại xã, cụm xã. Chè là cây truyền thống của xã nhưng để nâng cao năng suất, chất lượng, người dân rất cần những lớp hướng dẫn về kỹ thuật như thế này. Hiện nay diện tích chè của xã khoảng 262 ha trong đó 220 ha đang thu hái, sản lượng chè búp tươi năm 2008 đạt hơn 2.000 tấn. Xã có gần 700 hộ trồng chè, trong đó gần 200 hộ trồng từ một ha trở lên. Với nhiều gia đình, chè là nguồn thu nhập chính, thường xuyên. Việc tiêu thụ sản phẩm rất thuận lợi vì trên địa bàn xã có hai xưởng chế biến chè, 76 hộ có máy công suất nhỏ sơ chế chè.

Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện: Từ năm 2001 đến nay, diện tích chè của huyện tăng từ 1.000 ha lên 1.770 ha, trong đó gần một nửa được trồng bằng chè lai LDP1, LDP2. Nhờ tích cực đầu tư thâm canh, áp dụng khoa học kỹ thuật nên năng suất chè bình quân của huyện đạt 9,7 tấn/ha/năm, sản lượng năm 2008 lên tới hơn 15.000 tấn. Thực tế cho thấy, người dân các xã vùng trồng chè có mức sống hơn hẳn các xã không trồng chè.

Phát triển cây chè được Phú Thọ xác định là một trong sáu chương trình sản xuất nông nghiệp trọng điểm của tỉnh, với chín huyện vùng trồng chè được quy hoạch, đầu tư hỗ trợ phát triển là: Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê, Thanh Thủy, Hạ Hòa, Ðoan Hùng, Thanh Ba, Phù Ninh. Ðể đạt mục tiêu đến năm 2010 toàn tỉnh có từ 14 đến 15.000 ha chè, năng suất 8,5-9 tấn/ha, sản lượng đạt từ 100 đến 110 nghìn tấn, mỗi năm ngân sách tỉnh chi bình quân 2,5 tỷ đồng hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ giá chè giống cho diện tích trồng mới, trồng lại bằng giống mới. Các huyện trồng chè đều thành lập ban chỉ đạo hoặc ban quản lý dự án chè để chỉ đạo việc sản xuất giống, trồng mới, nghiệm thu kết quả và cấp phát kinh phí hỗ trợ. Bên cạnh đó, người dân còn được vay vốn hỗ trợ lãi suất, tập huấn kỹ thuật, nâng cao trình độ thâm canh chè từ Dự án phát triển cây chè nguồn vốn AFD (Pháp). Ngoài chính sách hỗ trợ chung của tỉnh, huyện Hạ Hòa còn dùng ngân sách hỗ trợ vốn vay ngân hàng, lãi suất 8,3%/năm, cho các hộ trồng mới, trồng lại, trồng dặm; hỗ trợ toàn bộ giá chè giống cho diện tích trồng mới trên đất trồng cọ. Huyện Thanh Ba trích ngân sách huyện hỗ trợ 18 cán bộ khuyến nông phụ trách trồng chè của các xã với mức 150 nghìn đồng/người/tháng.

Dây chuyền sản xuất chè đen xuất khẩu của Công ty TNHH một thành viên chè Phú Bền.

Nhờ sự chỉ đạo tích cực của các cấp, các ngành, sự nỗ lực của người dân và các doanh nghiệp chế biến chè nên mới hết năm 2008, các chỉ tiêu chủ yếu phát triển chè đến năm 2010 đã cơ bản hoàn thành. Diện tích chè toàn tỉnh đạt hơn 14.900 ha, đứng thứ ba cả nước sau Lâm Ðồng và Thái Nguyên; năng suất đạt hơn 8 tấn/ha, sản lượng đạt hơn 102 nghìn tấn. Việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất được coi trọng, một số mô hình thâm canh năng suất cao, sản xuất, chế biến chè an toàn đang được nhân rộng. Toàn tỉnh có 30 câu lạc bộ "sinh kế cộng đồng" áp dụng kỹ thuật sản xuất chè an toàn; khoảng 500 máy hái chè và một nửa diện tích chè được đốn bằng máy, góp phần tăng năng suất, chất lượng chè. Các giống chè mới có năng suất, chất lượng cao đã chiếm ưu thế trong cơ cấu giống chè của tỉnh với 42% diện tích trồng chè LDP1, LDP2, giống chè trung du giảm còn khoảng 36% diện tích trồng. Một số huyện đưa vào trồng thử nghiệm giống chè Kim Tuyên, Phúc Vân Tiên để chế biến chè xanh, chè Ô Long; chè Ấn Ðộ để chế biến chè đen.

Cùng với việc mở rộng diện tích, tăng sản lượng chè, các cơ sở chế biến chè cũng phát triển mạnh cả về số lượng và công suất. Toàn tỉnh hiện có 63 cơ sở chế biến chè với công suất từ một tấn búp tươi/ngày trở lên và hàng nghìn máy mi-ni sơ chế chè của các hộ dân. Các công ty có quy mô tương đối lớn, công nghệ hiện đại là: Phú Ða, Phú Bền, Phú Thọ, Tân Phong, Ðại Ðồng, Hoài Trung, trong đó có ba công ty là Phú Ða, Phú Bền, Phú Thọ đầu tư, xây dựng được vùng nguyên liệu, tổng cộng 4.000 ha. Năm 2008, các doanh nghiệp chế biến được 46.671 tấn chè khô các loại, xuất khẩu 5.635 tấn, còn lại bán cho các công ty ngoài tỉnh.

Theo Sở Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ, Chương trình phát triển cây chè được đánh giá là thành công nhất trong các chương trình nông nghiệp trọng điểm của tỉnh. Tuy nhiên thực tế cũng bộc lộ một số hạn chế như: Năng suất chè do các hộ trồng mới đạt khoảng 6 tấn/ha, chỉ bằng một nửa so với chè của doanh nghiệp. Hầu hết các huyện chỉ tập trung trồng mới để mở rộng diện tích, chưa chú trọng cải tạo diện tích chè cằn xấu, thâm canh tăng năng suất. Giá chè nguyên liệu không ổn định, lên xuống thất thường, có thời điểm chè đến kỳ thu hoạch, người dân đã chặt bỏ vì không có lãi. Người trồng chè không chuyên tâm đầu tư chăm sóc, thực hiện các biện pháp khoa học kỹ thuật, dẫn đến năng suất, chất lượng chè không cao. Một cán bộ theo dõi ngành chè của tỉnh cho biết: Hiện nay, do có quá nhiều cơ sở chế biến, thu mua chè nên hiện tượng tranh mua tranh bán nguyên liệu diễn ra phổ biến, người dân được lợi về giá nhưng chất lượng không bảo đảm. Chè xấu, hái không đúng quy cách, thậm chí dư lượng thuốc trừ sâu cao nhưng bán vẫn có người mua, không có ai kiểm tra, quản lý chất lượng. Hiện chỉ có diện tích chè do các doanh nghiệp đầu tư xây dựng mới giám sát được chất lượng; diện tích chè nhỏ lẻ trong nhân dân thì không thể quản lý được.

Theo các doanh nghiệp chè ở huyện Thanh Ba, việc ký kết hợp đồng mua bán chè búp tươi theo Quyết định 80 của Chính phủ không có kết quả vì người dân hay phá hợp đồng bán nguyên liệu. Một số doanh nghiệp như chè Ðại Ðồng, chè Hưng Hà không đầu tư phân bón, hướng dẫn kỹ thuật cho người trồng chè, mà quay sang tăng giá mua nguyên liệu, coi đó là cách đầu tư qua giá. Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH chè Phú Bền Mai Văn Ca, cho biết: Công ty xây dựng được vùng chè nguyên liệu gần 1.700 ha, sản lượng đáp ứng khoảng 70% công suất nhà máy, còn lại mua bên ngoài. Vùng nguyên liệu của công ty luôn bị các doanh nghiệp bạn dòm ngó. Công ty xây dựng nhiều câu lạc bộ chè ở các xã, đầu tư kinh phí, hướng dẫn kỹ thuật cho dân nhưng vẫn bị các công ty khác hớt tay trên theo kiểu "đầu tư qua giá". Lãnh đạo công ty này cho rằng, đã coi chè là cây mũi nhọn thì năng suất không phải là 6 tấn mà phải là 10 tấn/ha. Nếu không nâng cao năng suất, chất lượng thì chè Phú Thọ nói riêng, chè Việt Nam nói chung luôn có giá thấp hơn các nước, chỉ quanh quẩn hơn một USD/kg chè khô.

Ðể bảo vệ uy tín, chất lượng chè Phú Thọ, các doanh nghiệp phải đầu tư cùng người dân từ khâu trồng, chăm sóc, thu hái chè. Doanh nghiệp và người trồng chè phải gắn kết chặt chẽ, thủy chung với nhau, người dân không nên vì lợi ích trước mắt mà phá hợp đồng bán chè nguyên liệu cho doanh nghiệp. Muốn vậy, Nhà nước cần tỏ rõ vai trò là trọng tài gỡ khó cho ngành chè về giá cả, về quan hệ giữa doanh nghiệp và người dân. Ðồng thời phải có sự quản lý đồng bộ về kỹ thuật từ trên xuống trong kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm chè. Người trồng chè cũng mong muốn có quỹ bình ổn giá, hỗ trợ rủi ro đối với cây chè. Có như vậy cây chè mới có thể phát triển bền vững, thật sự trở thành cây mũi nhọn trong xóa đói, giảm nghèo ở Phú Thọ, một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn.

HỒNG NGHĨA

Các tin mới:

31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
29/12/2013
29/12/2013
29/12/2013
29/12/2013
29/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
27/12/2013
26/12/2013
26/12/2013
26/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
25/12/2013
24/12/2013
24/12/2013
24/12/2013
24/12/2013
24/12/2013
23/12/2013
23/12/2013
23/12/2013
22/12/2013
21/12/2013
21/12/2013
21/12/2013
21/12/2013
21/12/2013
21/12/2013
20/12/2013
20/12/2013
20/12/2013
20/12/2013
20/12/2013
20/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
19/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
18/12/2013
17/12/2013
17/12/2013
17/12/2013
17/12/2013
17/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
16/12/2013
15/12/2013
15/12/2013
14/12/2013

 

Các tin năm 2014

Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang