Nguồn tin: Thương Mại Thuỷ Sản, 29/03/2012
Ngày cập nhật:
30/3/2012
Đã có nhiều nỗ lực của cả người sản xuất, cơ quan quản lý và các tổ chức quốc tế để hình thành liên kết dọc giữa các thành phần tham gia chuỗi sản xuất cá tra Việt Nam, nhưng hầu hết đều chưa thật sự thành công và bền vững. Liệu ngành cá tra việt nam có thể rút ra bài học kinh nghiệm nào từ tổ chức quản lý ngành nuôi Cá hồi của Nauy?
Liên kết chuỗi - có cần và có thể?
Thuật ngữ “liên kết trong chuỗi cung ứng sản phẩm” đã được sử dụng trên thế giới từ giữa thế kỷ 20, nhưng trong ngành thủy sản Việt Nam mới được nói đến từ vài năm nay, khi hoạt động sản xuất, tiêu thụ thủy sản phải đối mặt với những khó khăn, thử thách ngày càng nhiều, lớn hơn và phức tạp hơn, như mất cân đối cung - cầu nguyên liệu, giá thành sản xuất tăng; đòi hỏi áp dụng các tiêu chuẩn an toàn, bền vững quốc tế; truy xuất nguồn gốc sản phẩm,...
Đặc biệt trong ngành sản xuất, tiêu thụ cá tra, việc hình thành mối liên kết giữa DN chế biến với người nuôi được kỳ vọng là giải pháp khả thi nhất giúp người nông dân có vốn đầu tư cho nuôi cá, còn DN chế biến thoát khỏi căn bệnh thiếu nguyên liệu triền miên, để tiếp tục phát triển, nhằm phát huy lợi thế độc tôn của ngành cá tra Việt Nam.
Tuy một số DN chế biến lớn, có tiềm lực vốn đã quyết định đầu tư vùng nuôi cá riêng để tự cung ứng phần lớn nguyên liệu, thậm chí xây dựng cả nhà máy sản xuất thức ăn và trại sản xuất giống, hợp nhất gần như toàn bộ chuỗi sản xuất, nhưng không phải mọi DN đều đủ năng lực làm như vậy, và cũng không phải DN nào đi theo con đường đó cũng thành công. Bên cạnh đó vẫn còn một số lớn hộ nông dân sản xuất cá giống và nuôi cá thương phẩm, do đó, sự hình thành các chuỗi liên kết bền vững, trước hết giữa DN chế biến và người nuôi cá, vẫn là đòi hỏi khách quan của thực tiễn.
Các DN chế biến và người nuôi, nhiều trường hợp có cả sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý hoặc các tổ chức trong nước và quốc tế, đã sáng tạo và áp dụng các hình thức liên kết khác nhau với sự tham gia của “2, 3, 4 nhà” (DN chế biến, người nuôi, nhà sản xuất thức ăn, nhà sản xuất giống,...). Đơn giản như ký hợp đồng tiêu thụ, cao hơn là DN ứng vốn, bao tiêu sản phẩm, hay ứng thức ăn và một khoản tiền nhất định rồi mua lại sản phẩm, v.v...
Song, trên thực tế, hầu hết DN và người nuôi đều chưa hài lòng với những mô hình liên kết đang có và tính bền vững của các mô hình đó luôn bị đe dọa. Tại sao và làm cách nào để cải thiện? Đó là những câu hỏi cơ bản được đặt ra tại cuộc hội thảo do Tổng cục Thủy sản, Cơ quan Hợp tác Phát triển Na Uy (NORAD) phối hợp với Trường Đại học Cần Thơ tổ chức từ 28/2 đến 1/3/2012 vừa qua. Mục đích của hội thảo, nói theo cách của ông Johán H. Williams - Chủ tịch Hội đồng Nghề cá của FAO (COFI), một trong 3 chuyên gia Na Uy được mời tham dự hội thảo – là từ kinh nghiệm của Na Uy trong phát triển ngành nuôi cá hồi tìm ra và khắc phục những khiếm khuyết để xây dựng chuỗi liên kết bền vững từ người nuôi đến nhà XK cá tra.
Thăng trầm nghề nuôi cá hồi Nauy
Cá hồi và cá hồi vân khai thác tự nhiên được xếp vào loại thủy sản quý, giá trị cao, được ưa chuộng từ lâu tại châu Âu và Bắc Mỹ. Đến những năm 1970, nghề nuôi cá hồi mới hình thành ở Na Uy, bắt đầu bằng 50 công ty tiên phong, sản lượng 5.000 tấn/năm.Thời gian đầu, cá hồi nuôi ít được ưa chuộng, tiêu thụ hạn hẹp ở thị trường địa phương, giá bán bấp bênh, lợi nhuận từ nghề nuôi rất thấp. Từng công ty nhỏ không thể đáp ứng đòi hỏi của thị trường, không được các nhà phân phối tin cậy. Chỉ có hợp tác mới tạo được sự ổn định. Vì vậy, năm 1978 các công ty nuôi cá hợp tác thành lập Tổ chức Bán buôn Cá nuôi (FOS), một hình thức DN đặc quyền bán buôn cá duy nhất, có quyền định giá bán buôn để loại trừ cạnh tranh nội bộ, lựa chọn khách hàng và được ngân hàng chứng nhận đảm bảo việc ký kết hợp đồng mua bán của từng thành viên, thực hiện các chương trình tiếp thị cá hồi nuôi quy mô toàn cầu, hình thành hệ thống cung ứng hàng hóa trong ngành NTTS và bắt đầu tài trợ các chương trình R&D về sinh sản cá, quản lý bệnh và các lĩnh vực thương mại khác.
Lúc đầu, FOS hoạt động rất hiệu quả, giúp nghề nuôi cá hồi Na Uy tăng trưởng nhanh, có lợi nhuận hấp dẫn. Công nghệ nuôi, kiến thức về sản xuất giống, quản lý sức khỏe vật nuôi và chất lượng VSATTP được nâng cao rõ rệt. Các trại nuôi được nâng cấp, tài chính cho hoạt động kinh doanh ổn định. Thị trường XK cá hồi Na Uy nhanh chóng mở rộng ra hơn 100 quốc gia. Đến năm 1981, số thành viên tham gia sản xuất từ 50 công ty gia đình nhỏ đã thành 800 công ty, sản lượng cá nuôi đạt tới 160.000 tấn. Trình độ của lực lượng sản xuất cũng tiến bộ rõ rệt, từ những người tiên phong thử nghiệm một nghề mới, trở thành những doanh nhân chuyên nghiệp trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
Sản xuất và kinh doanh cá hồi nuôi trở thành ngành hấp dẫn và đó cũng chính là mầm mống khiến ngành này sụp đổ nhanh chóng. Lợi nhuận cao cuốn hút sự tham gia của nhiều người, sản lượng liên tục tăng nhanh, cung vượt xa cầu khiến giá cá rớt thảm hại, dẫn tới hàng loạt vụ kiện chống bán phá giá cá hồi Na Uy nổ ra ở Mỹ và EU.
Mặc dù FOS đã nỗ lực thúc đẩy chương trình chế biến cấp đông dự trữ để giảm bớt lượng cá đưa ra thị trường nhưng không giải quyết được vấn đề. Bản thân FOS với cơ chế độc quyền cũng bộc lộ nhiều bất cập và đã phá sản vào năm 1991, kéo theo sự phá sản của hàng loạt công ty cá hồi Na Uy. Tuy nhiên, chính sự sụp đổ này lại mở ra cơ hội phát triển mới.
Những công ty cá hồi được cấu trúc lại theo mô hình mới. Trong cả nước chỉ còn 96 công ty; trong đó 14 công ty lớn chiếm tới 80% tổng sản lượng, hợp nhất các khâu trong chuỗi sản xuất, hoạt động đa chức năng, bao gồm cả kinh doanh toàn cầu (ngoại trừ sản xuất thức ăn cá, do 3 công ty trong nước sản xuất và NK một ít từ 4 công ty của Đan Mạch). Các công ty này tạo lập mối quan hệ trực tiếp giữa người nuôi và khách hàng, đủ năng lực làm chủ thị trường, điều phối cung cầu và phát triển các sản phẩm mới, giúp ngành cá hồi tăng trưởng ổn định, cân đối hơn với sản lượng khoảng 1 triệu tấn, giá trị XK trên 5 tỷ USD mỗi năm.
Để điều phối hoạt động XK thủy sản, Na Uy thành lập Hội đồng Xuất khẩu Thủy sản (NSEC). Khác với các tổ chức hội, hiệp hội, NSEC là tổ chức của các DN thủy sản do nhà nước thành lập và ủy quyền thực hiện một số chức năng của cơ quan thẩm quyền được quy định theo luật của Na Uy, bao gồm cấp phép XK, giám sát việc đóng thuế XK của các DN, thu và quản lý quỹ XK, thực hiện các hoạt động XTTM, xây dựng thương hiệu và các hoạt động R&D khác.
Theo quy định của pháp luật, các DN XK thủy sản phải đóng phí XK để xây dựng quỹ XK, mức phí do các DN thỏa thuận và đề xuất, chẳng hạn cho năm 2010 mức phí là 1,05% giá trị XK của DN (tổng kinh phí của quỹ XK năm đó là khoảng 60 triệu USD). Trong những trường hợp cần thiết, chẳng hạn để đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá, mức phí có thể tăng đến 3%.
Những bài học
Mặc dù nghề nuôi cá tra và cá hồi có giá trị trên thị trường không giống nhau, nhưng nhìn vào diễn biến của nghề nuôi cá tra Việt Nam, có thể nhận ra nhiều nét tương đồng với giai đoạn đầu trong lịch sử phát triển của nghề nuôi cá hồi Na Uy. Cũng là sự tăng trưởng quá nhanh, cũng mâu thuẫn cung - cầu, cạnh tranh nội bộ và những vụ kiện chống bán phát giá. Từ đó, thấy rằng, nghề cá tra Việt Nam có thể rút ra một số bài học lớn về liên kết để tránh sự sụp đổ như nghề nuôi cá hồi giai đoạn 1981 - 1991, vượt qua khó khăn thách thức và tiếp tục đi vào giai đoạn phát triển mới.
Bài học đầu tiên là xác định đúng mục tiêu của quan hệ liên kết. Các mô hình liên kết hiện nay tự phát hình thành với mục tiêu rất cụ thể: nguyên liệu cho DN chế biến, vốn cho người nuôi. Mục tiêu đó phù hợp với từng DN và người nuôi, nhưng không nhằm đến những mục tiêu rộng lớn hơn, vì vậy khi một trong các phía tham gia liên kết có ưu thế hơn trong ký kết hợp đồng, hoặc tìm thấy những lợi ích ở các đối tác khác, họ dễ bóp méo hoặc phá bỏ hợp đồng. Bởi vì, thực chất hai bên liên kết đang đặt mình ở hai vị thế có quyền lợi đối lập của “người mua” và “người bán”. Từ đó xảy ra tình trạng thường gọi là “khi thì cá ăn kiến, khi thì kiến ăn cá”. Liên kết chỉ thành công và bền vững, khi các thành phần đều nhằm chung một mục đích “tăng giá trị cá tra và ổn định thị trường vì lợi ích của người nuôi, người chế biến và người xuất khẩu”.
Bài học thứ hai là cần xây dựng thương hiệu và chiến lược tiếp thị quốc gia cho sản phẩm cá tra Việt Nam. Không thể để tình trạng một sản phẩm chiến lược quốc gia không có thương hiệu chung, bị gọi với những cái tên khác nhau. Tất nhiên, xây dựng thương hiệu là một quá trình không hề đơn giản, vì thương hiệu không chỉ là một tên gọi, mà phía sau đó là cả hệ thống những bảo đảm về trách nhiệm của nhà sản xuất đối với chất lượng, an toàn, bền vững, thậm chí gắn liền với cả truyền thống văn hóa của những vùng đất nước cụ thể. Mọi con cá hồi Na Uy, dù bán ra thị trường ở phẩm cấp nào, chế biến dưới dạng gì, cũng phải là “cá hồi Na Uy”. Tương tự, mục tiêu phải hướng tới là mỗi con cá tra Việt Nam đưa ra thị trường thế giới đều là “cá tra Việt Nam”.
Việc xây dựng một thương hiệu quốc gia cho sản phẩm đòi hỏi sự thống nhất hành động của toàn bộ chuỗi sản xuất, từ những khâu đầu tiên cho đến khâu cuối cùng, bởi vậy phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các thành phần, không chỉ để xây dựng mà còn giữ gìn uy tín của thương hiệu lâu dài. Trên cơ sở thương hiệu chung, sẽ có điều kiện để thực hiện chiến lược tiếp thị, quảng bá rộng rãi cho sản phẩm cá tra Việt Nam ra toàn cầu một cách thống nhất, như người Na Uy nói, sản phẩm “cá hồi Na Uy” như nhau trên khắp 5 châu 4 biển, 7 ngày mỗi tuần/12 tháng và 365 ngày mỗi năm (365/12/7).
Bài học lớn thứ ba – nhưng quan trọng nhất, quan hệ liên kết chuỗi sản xuất không thể tồn tại bền vững nếu thiếu sự hậu thuẫn của luật pháp. Hiện nay, phần lớn mâu thuẫn, tranh chấp trong các hợp đồng liên kết rất khó giải quyết. Một phần, luật chưa đầy đủ và chưa thống nhất, có nhiều mối quan hệ chưa được điều chỉnh đầy đủ hoặc chồng chéo, nhiều nội dung chưa được công nhận. Phần khác, do trình độ của các bên tham gia không tương đồng, việc tham vấn ý kiến luật sư chưa phổ biến nên một trong các bên có thể cài đặt những chủ ý khác nhau khi soạn thảo, gây khó khăn cho quá trình phân xử sau này. Đó là chưa nói đến năng lực thi hành pháp luật chưa cao và nhiều khi được áp dụng không bình đẳng đối với các bên tranh tụng.
Cần quy định sản xuất, kinh doanh thủy sản là hoạt động có điều kiện. Mọi hoạt động nuôi và chế biến, kinh doanh cá tra phải được cấp phép, nhằm hạn chế sự tham gia tự phát và quản lý được điều kiện sản xuất, khống chế được sản lượng theo khả năng tiêu thụ của thị trường. Cần xây dựng và triển khai thống nhất quy hoạch sản xuất và tiêu thụ cá tra theo hướng “quy hoạch mềm” với những phương án lựa chọn khác nhau, được điều chỉnh theo biến động thị trường. Phải luật hóa những quy định cần thiết như giá sàn XK, cơ chế đàm phán giá, mức phí XK và cơ chế sử dụng quỹ phát triển XK. Đặc biệt, để tránh tranh chấp thương mại, cần có quy định về việc sử dụng quỹ phát triển XK để xây dựng thương hiệu, xây dựng và triển khai chiến lược tiếp thị sản phẩm mà không lấy từ kinh phí nhà nước.
Những bài học trên chưa phải là tất cả những gì có thể học được cho quá trình xây dựng chuỗi liên kết bền vững trong sản xuất, tiêu thụ cá tra Việt Nam, nhưng sẽ là rất bổ ích nếu được phân tích và ứng dụng thấu đáo.
Theo cách phát biểu của bà Kjersti Gravningen, TGĐ Công ty Pharmaq Việt Nam: “Động lực thành công của ngành nuôi cá hồi Na Uy là sự liên kết mọi thành phần, nhà sản xuất, nhà nước, các tổ chức nghiên cứu đào tạo và các tổ chức khác cùng nỗ lực để cung cấp ra thị trường thế giới sản phẩm cá hồi chất lượng cao của Na Uy”, ta có thể đặt mục tiêu xây dựng liên kết giữa nhà chế biến, người nuôi, nhà quản lý và nhà khoa học để sản xuất bền vững và đưa ra thị trường sản phẩm cá tra Việt Nam chất lượng tốt nhất.
Thái Thanh Dương
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.