Nguồn tin: Thương Mại Thủy Sản, 12/01/2012
Ngày cập nhật:
14/1/2012
Tiến sỹ Philippe Serene thuyết trình tại hội nghị “Nâng cao chất lượng thức ăn cá tra/basa hướng đến hội nhập kinh tế và phát triển bền vững” do Wilmar Agro VN tổ chức tai Long Xuyên vào ngày 04/11/2011
“Tương lai của ngành cá tra Việt nam sẽ bị đe dọa nếu không đẩy mạnh đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển”.
Đó là phát biểu của TS Philippe Serene – chuyên gia dinh dưỡng tại hội thảo “Nâng cao chất lượng thức ăn cá tra/basa hướng đến hội nhập kinh tế và phát triển bền vững” do công ty Wilmar Agro Việt Nam tổ chức tại Long Xuyên ngày 04/11/2011.
Theo ông, mặc dù nghiên cứu và phát triển (R&D) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và liên quan mật thiết với tất cả các khâu trong chuỗi giá trị, nhưng hiện nay công tác này chưa được đầu tư đúng mức, thậm chí còn nhiều lĩnh vực bị bỏ ngỏ. Nguyên nhân của tình trạng này nhiều khi không đơn thuần do bị giới hạn về nguồn lực tài chính hay trình độ khoa học kỹ thuật, mà còn có nguyên nhân chủ quan là nhận thức không đầy đủ của hệ thống quản lý.
Nếu so sánh Việt Nam với một số nước có nhiều tiềm năng NTTS trong khu vực như Campuchia, Philippin, Inđônêxia, Trung Quốc hay Ấn Độ, có thể nói ngành cá tra Việt Nam có lợi thế “độc nhất vô nhị”. Ở các nước đó, ngành nuôi cá da trơn nói chung, trong đó có cá tra, chủ yếu chỉ để phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa. Việc phát triển nuôi cá tra của họ còn gặp vô vàn khó khăn. Do đó, nếu được quan tâm đầu tư nghiên cứu phát triển để phát huy đúng mức những lợi thế của mình, ngành công nghiệp cá tra Việt Nam còn có thể tiến rất xa.
Trong rất nhiều lĩnh vực cần quan tâm, TS Philippe Serene cho rằng, những vấn đề R&D sau đây nên được tập trung đầu tư càng sớm càng tốt.
Nghiên cứu sinh sản, cải thiện di truyền
Hiện nay, cá tra có hai quần thể hoàn toàn thuần chủng phân bố ở Lào và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đây là điều kiện thuận lợi để bảo tồn nguồn gen thuần vô cùng quí giá làm nguyên liệu cho công tác nghiên cứu sinh sản và di truyền, nhằm cải thiện chất lượng con giống, nâng cao tính trạng sinh trưởng, tăng khả năng chống chọi với dịch bệnh... Nhưng trong thực tế, đàn cá bố mẹ ở các cơ sở sản xuất giống lại đã và đang bị suy thoái nhanh chóng, dẫn đến tình trạng lai gần, lai cận huyết, chất lượng cá giống ngày càng thấp, tốc độ tăng trưởng và khả năng kháng bệnh ngày càng suy giảm.
Các diễn giả tại hội nghị: từ trái qua phải Tiến sỹ Lê Thanh Hùng – Trưởng khoa Thủy Sản, ĐH Nông Lâm TP.HCM, Ông Lee Swee Heng – Tổng GĐ Wilmar Agro VN, Tiến Sỹ Philippe Serene – Chuyên gia dinh dưỡng thủy sản
Bên cạnh đó, việc quản lý hoạt động sản xuất giống cá tra hầu như bị bỏ ngỏ nên xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực, cả về trình độ kỹ thuật, ý thức tuân thủ quy trình sản xuất, cho đến quy hoạch sản xuất, bảo đảm an toàn dịch bệnh và môi trường.
TS Philippe dẫn chứng: “Ở thượng nguồn khi sông vào Việt Nam, trại sản xuất cá tra giống như nấm, qui mô nhỏ lẻ, nằm san sát nhau. Nhiều trại sử dụng chung một nguồn nước, nhưng việc quản lý, phòng ngừa dịch bệnh lại bị bỏ ngỏ, dịch bệnh tràn lan. Khi một trang trại bị nhiễm bệnh là cả khu vực bị ảnh hưởng”.
Theo kết quả điều tra của Viện nghiên cứu NTTS 2, các cơ sở sản xuất cá tra bột rất ít quan tâm nguồn gốc đàn cá bố mẹ và chất lượng của chúng. Có tới 57,4% cá tra bố mẹ có nguồn gốc từ cá nuôi thương phẩm. Thậm chí, con giống của đàn cá bố mẹ này khi nuôi lớn lại dùng làm cá bố mẹ để tiếp tục sản sinh ra những thế hệ cá giống mới với chất lượng càng thấp hơn. Đây là vòng xoáy xuống dốc mà ngành cá tra Việt Nam đang phải đối mặt.
Bộ NN&PTNT đã phần nào nhận thấy vấn đề và đã cho thực hiện dự án “Chuyển giao công nghệ sản xuất giống cá tra có chất lượng di truyền cao về tính trạng tăng trưởng cho các tỉnh ĐBSCL”, song việc thực hiện gặp nhiều vướng mắc và tiến độ triển khai rất chậm.
Đây cũng là một trong những vấn đề rất cần quan tâm thúc đẩy.
Nghiên cứu dinh dưỡng và thức ăn cho cá
Từ một vài nhà máy sản xuất nhỏ lẻ với sản lượng khoảng 200.000 tấn trong những năm 1990, đến nay Việt Nam đã có tới hàng trăm nhà máy của các hãng sản xuất thức ăn thủy sản nổi tiếng thế giới và một số nhà đầu tư trong nước, với sản lượng hằng năm lên đến 2 - 3 triệu tấn. Những năm 2005 - 2006 là giai đoạn phát triển nhanh nhất của ngành công nghiệp sản xuất thức ăn thủy sản. Hiện nay, ngành công nghiệp này đang trong giai đoạn tái cấu trúc, có dấu hiệu phục hồi sau thời kỳ đi xuống cùng với sự thăng trầm của ngành nuôi cá tra 2008 - 2010 do suy thoái kinh tế, một số DN đã phải đóng cửa.
Hiện nay, các nhà máy chế biến thức ăn thủy sản chỉ sử dụng được khoảng 60% công suất thiết kế, 40% còn lại là sự lãng phí rất lớn, nhưng cũng có thể coi đó là một tiềm năng. TS Võ Hùng Dũng, Giám đốc VCCI Cần Thơ, cho biết: “Phải mất 3 đến 4 năm nữa mới ’tiêu hóa’ hết 40% công suất này. Do đó trong ngắn hạn chúng ta không cần đầu tư thêm nhà máy, mà vấn đề cần quan tâm chính là đổi mới công nghệ sản xuất”.
TS Philippe Serene cho rằng: “Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn trong sản xuất thức ăn cho cá, mà điển hình là công nghệ không hợp lý, gây thất thoát, lãng phí, tốn kém”. Đơn cử trong công nghệ sấy, hầu hết nhà máy chế biến thức ăn vẫn sử dụng công nghệ sấy ngang, gây hao phí nhiều năng lượng. Trong khi đó, chỉ cần sử dụng công nghệ sấy tháp đã có thể tiết kiệm tới 10 - 15% năng lượng.
Thành quả nghiên cứu về công nghệ sản xuất thức ăn thủy sản ở Việt Nam khá nghèo nàn. Ngoài các đề tài nghiên cứu với quy mô nhỏ, các viện, trường chưa đưa ra kết quả nghiên cứu nào thành quy trình công nghệ hoàn chỉnh để phổ biến áp dụng đại trà vào sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực chế biến thức ăn cho cá bột.
Từ 1995 đến 1998, cá bột chủ yếu được cho ăn thức ăn tươi như sinh vật phù du, trứng gà, cá tạp băm nhỏ,… Đến những năm 2000 - 2007, các nhà sản xuất thức ăn công nghiệp vẫn chủ yếu sản xuất thức ăn nuôi cá thịt với hàm lượng protein 22 - 28%, còn thức ăn cho cá con vẫn bị bỏ ngỏ. Chỉ vài năm gần đây mới bắt đầu xuất hiện thức ăn cho cá giống với hàm lượng đạm 35 - 45%.
Một trong những hoạt động có ý nghĩa thiết thực trong lĩnh vực thức ăn thủy sản là nghiên cứu về ảnh hưởng của cám gạo ôxy hóa dầu lên khả năng tiêu hóa và chức năng gan của cá (bệnh gan vàng, tác động đến hệ thống miễn dịch của cá – giảm khả năng sinh bạch cầu), bắt đầu từ năm 1996.
Cám gạo chiếm khoảng 30% nguyên liệu sản xuất thức ăn và được xác định là thành phần dễ bị suy giảm chất lượng nhất trong quá trình bảo quản. Trong giai đoạn 2002 - 2005, công ty Calofic/Wilmar Agro Việt Nam kết hợp với trường Đại học Cần Thơ đã nghiên cứu và cho ra đời sản phẩm Cám Vàng (cám gạo trích ly dầu, xử lý ổn định chất lượng, loại trừ các tác nhân oxy hóa). Tuy nhiên, đến nay một số DN chế biến thức ăn vẫn còn sử dụng cám gạo ôi dầu làm nguyên liệu sản xuất.
Qua hơn 10 năm, các nghiên cứu hầu như chỉ nhằm làm sao để có thức ăn với giá trị dinh dưỡng cao hơn. Đến nay, hướng nghiên cứu này có vẻ đã chạm ngưỡng, chỉ đem lại vài cải tiến nhỏ. Từ thời điểm này, nên có cách tiếp cận tốt hơn, tập trung nhiều hơn đến các chức năng sinh lý của cá, như tiêu hóa, cải thiện chức năng gan, tăng cường hệ miễn dịch, v.v...
Chương trình sức khỏe cá nuôi
Các biện pháp thâm canh luôn có tác động xấu đến môi trường, gây ảnh hưởng bất lợi cho sức khỏe cá, làm tăng tỷ lệ cá chết, giảm hiệu quả sản xuất. Trong thực hành nuôi cá, việc xây dựng và áp dụng các chương trình an toàn sinh học còn rất hạn chế; trong khi đó các biện pháp điều trị bằng kháng sinh, hóa dược thường bị các nhà NK và khách hàng nước ngoài phản đối.
Gần đây, đã có một số kết quả tích cực trong nghiên cứu vácxin phòng một số loại bệnh cho cá tra do Intervet, Phamaq,... phát triển. Tuy nhiên, còn cần có thêm nhiều nghiên cứu hơn nữa trong lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, cần thay đổi một số tập quán trong sản xuất có ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả nuôi, chẳng hạn cho cá ăn tập trung vào từng thời điểm mà không chia nhỏ làm nhiều lần, khiến cho cá không ăn hết thức ăn, tiêu hóa kém, làm tăng hệ số thức ăn đồng thời gây ô nhiễm môi trường nước, ảnh hưởng đến sức khỏe cá nuôi. Ngay cả công nghệ thu hoạch cũng nên thay đổi, không để kéo dài thời gian thu hoạch hết cá trong từng ao nuôi lên đến 3 - 4 ngày, ảnh hưởng xấu đến chất lượng và tỷ lệ phi lê...
Đỗ Văn Thông
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.