Nguồn tin: Báo Hải Phòng, 25/11/2010
Ngày cập nhật:
28/11/2010
Hải Phòng là địa phương đầu tiên trong cả nước tiến hành quy hoạch phát triển ngành thủy sản trong đó có mục tiêu chủ yếu là phát triển ngành nuôi trồng thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố. Theo đó, 5 vùng nuôi trồng thủy sản nước lợ mặn trọng điểm được quy hoạch ở Kiến Thụy, Tiên Lãng, Cát Hải, Hải An và Đồ Sơn. Tuy nhiên, đến nay, quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản trọng điểm này hầu hết bị phá vỡ. Trong khi đó, có những vùng nuôi như ở Cát Bà lại có tình trạng phát triển ồ ạt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái.
Có cũng như không
Ông Đào Bá Điện, Trưởng Phòng Nuôi trồng thủy sản (Sở Nông nghiệp - PTNT), cho biết trên địa bàn thành phố hiện có 2 vùng nuôi thủy sản nước lợ đang bị phá vỡ quy hoạch là vùng ven đê biển 1 trên địa bàn hai quận Dương Kinh và Đồ Sơn, vùng nuôi thủy sản ven biển quận Hải An, với lý do bị dành đất cho các dự án. Điều đáng lo ngại là do quy hoạch bỏ lửng, đất nuôi trồng thủy sản kẹt giữa đất dự án nên người dân và các doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong sản xuất.
Phá vỡ hạ tầng vùng nuôi
Theo ông Hoàng Đình Mỹ, Phó giám đốc Xí nghiệp dịch vụ nuôi trồng thủy sản Đồ Sơn, trước đây, cả khu vực đê biển 1 chạy dọc tuyến đường Phạm Văn Đồng có diện tích nuôi thủy sản nước lợ là gần 700 ha, đến nay, diện tích còn lại khoảng 300 ha. Phường Tân Thành còn 175 ha, Hải Thành còn khoảng 48 ha. Phần lớn diện tích nuôi thủy sản của hai địa phương đã dành đất cho hàng loạt các dự án khu công nghiệp Đồ Sơn, khu đô thị Our city, sân Gôn Đồ Sơn… Sau khi giao cho dự án sân gôn Đồ Sơn 248 ha đầm nuôi thủy sản, xí nghiệp nuôi thủy sản Đồ Sơn còn 109 ha đầm giao cho 83 công nhân và hơn 100 người dân. Xí nghiệp nuôi trồng thủy sản Kiến Thụy hiện cũng còn 280 ha giao khoán cho 407 hộ nuôi, nhưng hơn 60% hộ nuôi cầm chừng vì hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi thủy sản đã xen giữa các dự án, bị phá vỡ hạ tầng, ba bề bốn bên đều ô nhiễm. Đến thời điểm này, các chủ đầm đều bỏ sản xuất, để mặc một vùng ô nhiễm, hoang hóa.
Nhiều diện tích đầm nuôi thủy sản của người dân phường Hải Thành (quận Dương Kinh) bị ô nhiễm do nước thải của các cơ sở sản xuất công nghiệp. Ảnh: Phương Duy
Báo cáo của Phòng Kinh tế quận Hải An thể hiện rõ, hiện nay, diện tích nuôi thủy sản nước lợ trên địa bàn quận còn khoảng 1.100 ha, giảm 783 ha so với năm 2007. Phần lớn diện tích nuôi thủy sản nước lợ ở khu vực này dành cho các dự án công nghiệp, đô thị. Vùng Vũ Yên có diện tích nuôi thủy sản nước lợ là 300 ha nhưng tại đây đang phải nhường đất cho hàng loạt dự án xây dựng đô thị và khu công nghiệp Bắc sông Cấm. Khu vực bán đảo Đình Vũ theo quy hoạch nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2001 - 2010, đây là vùng nuôi trồng thủy sản lớn với diện tích hơn 1000 ha. Tuy nhiên, chỉ sau khi công bố quy hoạch có 3 năm, toàn bộ vùng này đã phải nhường đất cho các dự án công nghiệp. Đến thời điểm này, toàn bộ khu vực này đã thành khu công nghiệp Đình Vũ, một số diện tích chưa thu hồi, người dân vẫn tận dụng nuôi thủy sản. Vùng Đông Nam Hải Tràng Cát có diện tích đầm nuôi thủy sản là 127 ha hiện cũng dành diện tích cho phát triển đô thị, nhà máy nên hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản ở khu vực này bị băm nát. Vùng Tràng Cát diện tích nuôi trồng thủy sản 800 ha nhưng phần lớn diện tích này cũng dành cho các dự án lớn như đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, dự án nhà máy xử lý rác Tràng Cát, dự án của công ty Hapaco… nên cũng không còn diện tích nuôi thủy sản.
“Đi cũng dở, ở lại thì kẹt”
“Do bị thất bát liên tục nên công nhân phải bỏ đầm thủy sản, xoay đủ nghề kiếm sống” - anh Trịnh Hữu Đằng, công nhân Xí nghiệp dịch vụ nuôi trồng thủy sản Đồ Sơn vừa cắt tóc cho khách hàng vừa khẳng định - Tôi đầu tư nuôi trồng thủy sản từ những ngày đầu thành lập xí nghiệp. Nhưng từ năm 2005, tôi phải dành 3 ha đầm nuôi thủy sản cho dự án sân gôn Đồ Sơn. Được ít tiền đền bù, năm 2006, tôi tiếp tục đầu tư 1,5 ha đầm tại khu vực sát kênh T600. Nhưng cũng từ năm 2007 đến nay, vụ nuôi nào tôi cũng bị thất bát, tôm cua chết hàng loạt vì đầm nuôi nằm kẹt giữa các dự án là khu Công nghiệp Đồ Sơn, sân gôn Đồ Sơn và dự án khu đô thị Our City. Môi trường vùng nuôi bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì nước thải của khu công nghiệp Đồ Sơn đổ thẳng ra mương thủy lợi chung, hệ thống thủy lợi bị chia cắt vì các dự án. Nghe nói, khu vực dọc đê biển 1 này đều chuyển sang quy hoạch phát triển công nghiệp, đô thị nhưng chưa có cơ quan chức năng nào công bố cho các hộ dân và doanh nghiệp ở đây biết rõ về sự thay đổi quy hoạch, thời gian cụ thể bao giờ dừng hoàn toàn việc phát triển nuôi trồng thủy sản ở đây”.
Ông Vũ Văn Hòa, hộ nuôi tôm ở khu vực Tràng Cát (quận Hải An) cho biết: “Nuôi quảng canh cũng chịu thất bát liên tục vì đầm kẹt giữa các dự án công nghiệp nên nguồn nước nuôi thủy sản bị ô nhiễm nghiêm trọng, hệ thống thủy lợi bị phá vỡ, cơ sở hạ tầng vùng nuôi bị phá vỡ. Đặc biệt, nhiều khu vực ao đầm tự nhiên trước đây là ao nuôi thủy sản thì nay đã trở thành hồ điều hòa trong khu dân cư, khu công nghiệp bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nhiều hộ nuôi thủy sản ở Đình Vũ, Tràng Cát đã buộc phải bỏ không đầm vì ô nhiễm dù đất thủy sản chưa được các dự án thu hồi”.
Đầm nuôi trồng thủy sản xen kẽ với các dự án công nghiệp, đô thị cũng đang khiến nhiều doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản ở hai khu vực này ở trong cảnh “dở khóc, dở cười”. Xí nghiệp nuôi trồng thủy sản Đình Vũ có 170 ha đầm nuôi thủy sản hiện cũng bị thu hồi toàn bộ để thực hiện các dự án phát triển công nghiệp của thành phố. Cán bộ, công nhân của xí nghiệp buộc phải chuyển vào làm việc tại khu nuôi thủy sản của Công ty chế biến thủy sản xuất khẩu Hải Phòng tại xã Tiên Hưng, Tiên Lãng. Ngoài ra, tại khu vực Tân Vũ và Tràng Cát, dự án nuôi tôm công nghiệp theo phê duyệt có tổng diện tích 328 ha với tổng mức đầu tư gần 86 tỷ đồng. Khu vực này cũng có sự thay đổi về quy hoạch sử dụng đất. Các khu đầm 1 và 2 dành cho công trình đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, khu đầm 3 được quy hoạch trở thành vùng phát triển đô thị. Đến thời điểm có thông báo dừng thực hiện, dự án triển khai được 2 gói thầu hạng mục hạ tầng thuộc vốn ngân sách theo đúng tiến độ cấp vốn của thành phố (5,3 tỷ đồng). Đến năm 2008, UBND thành phố có văn bản yêu cầu dừng thực hiện dự án này. Hai xí nghiệp nuôi trồng thủy sản Đồ Sơn, Kiến Thụy, từ năm 2008, cũng phải bỏ không khá nhiều diện tích nuôi thủy sản vì ô nhiễm nguồn nước. Do các công nhân bỏ đầm nuôi, nợ sản phẩm nên doanh nghiệp thường xuyên phải vay tiền ngân hàng để duy trì sản xuất và luôn trong cảnh nợ lương công nhân.
Cát Hải là địa phương có tiềm năng hơn 10 nghìn ha mặt nước biển phát triển nuôi thủy sản nước mặn. Từ năm 1995 đến nay, nghề nuôi cá lồng bè ở Cát Hải phát triển rầm rộ. Tuy nhiên, diện tích thực sự đưa vào sử dụng nuôi biển mới khoảng 2000 ha. Do thiếu quy hoạch, nuôi cá lồng bè phát triển tự phát với công nghệ nuôi đơn giản, không chú ý con giống, công tác thú y thủy sản, đầu ra cho sản phẩm không ổn định, đối mặt với ô nhiễm môi trường, dịch bệnh…
Đầm nuôi thủy sản tại Đình Vũ (Hải An) đang “nhường chỗ” cho phát triển các dự án công nghiệp. Ảnh: Phương Duy
Chậm quy hoạch, phát triển tự phát
Năm 1990, 5 lồng bè nuôi thủy sản xuất hiện tại vùng biển Cát Bà từ sự liên kết giữa Công ty Ca Thay (Hồng Kông) và Công ty thủy sản Cát Hải. Nhưng phải đến năm 1995, khi khai thác thủy sản hiệu quả thấp, người dân Cát Hải mới bắt đầu chú ý đến phát triển nuôi cá lồng bè gắn với phục vụ du lịch. Ban đầu, để phát triển nghề mới này, cùng với khuyến khích ngư dân chuyển từ khai thác thủy sản sang nuôi cá lồng bè, chính quyền địa phương hỗ trợ vốn các hộ tham gia dự án. Việc nuôi cá lồng bè lúc đó khá “hấp dẫn”: đầu tư không lớn, giá thành con giống lại rẻ, phương thức nuôi đơn giản vì nguồn thức ăn cho cá được tận thu từ thiên nhiên; nhu cầu tiêu thụ loại cá này đối với khách du lịch ngày một nhiều; khả năng xuất khẩu lớn. Hơn thế, các hộ nuôi nhàn, không phải tìm đầu ra bởi các tư thương từ Quảng Ninh, nội thành Hải Phòng, nhà hàng, khách sạn... về tận nơi thu mua. Do vậy, số lượng lồng bè nuôi thủy sản tăng nhanh sau mỗi năm. Năm 2000, toàn huyện có 70 bè cá với 560 ô lồng. Hiện nay, có 588 lồng bè nuôi cá biển với 11.696 ô lồng, tăng 3.999 ô lồng so với năm 2005.
Số lượng ô lồng nuôi cá tăng nhanh chóng mặt nhưng chủ yếu là tự phát, đồng thời việc neo đậu chưa có quy hoạch và sự quản lý của Nhà nước. Nhiều hộ dân tự do khoanh vùng mặt nước để nuôi thả, các bè nuôi lắp đặt không theo quy định nào, vị trí lại quá gần nhau khó khăn cho việc di chuyển. Các bè nuôi mọc lên dày đặc tại 3 khu vực: vịnh bến tàu du lịch 246 bè nuôi; vịnh bến bèo gần 240 bè nuôi, vịnh Lan Hạ gần 50 bè nuôi. Gần đây, tại khu vực Vịnh Lan Hạ xuất hiện nhiều bè nuôi tự do của ngư dân huyện Thủy Nguyên và tỉnh Quảng Ninh neo đậu. Nhiều hộ dân còn có sáng kiến không làm lồng bè nuôi mà quây phên nứa, quây lưới ngay trên mặt vịnh để nuôi thủy sản. Đáng ngại hơn, trong số trên có tới 65 bè, gồm 930 ô lồng không có giấy phép, 452 bè gồm 2.763 lồng tự ý cơi nới và 56 dậu đóng trái phép xuống vịnh. So với số liệu điều tra cách đây 1 năm, tăng 4 bè, 1.145 ô lồng, 452 mảng tre và 20 bãi tu hài. Điều đáng chú ý là chỉ có 148 bè của ngư dân huyện đảo, còn 383 bè là của ngư dân đến từ huyện Thuỷ Nguyên, tỉnh Quảng Ninh và các nơi khác, nên rất khó quản lý.
Lợi bất cập hại
Việc nuôi lồng bè, phát triển ồ ạt, tự phát không theo quy hoạch nào đang đưa đến nhiều hệ lụy. Lĩnh vực nuôi cá lồng bè, các hộ dân vẫn sử dụng phương thức nuôi đơn giản trong lồng lưới nổi, đối tường nuôi chủ yếu là các giống cá song, cá giò, cá Hồng Mỹ, cá tráp… nguồn giống chủ yếu vẫn là thu gom giống tự nhiên, thức ăn lá cá tạp tươi sống. Nguy cơ về ô nhiễm môi trường khá rõ. Thức ăn dư thừa từ nhà hàng, chất thải của cá các chất thải sinh hoạt khác của con người hoạt động trên lồng bè, chất thải của các nhà hàng du lịch trên các bè dịch vụ, xăng dầu và các chất thải từ xăng dầu từ tàu cá. Các lồng bè đặt quá sát nhau hạn chế tốc độ của dòng chảy làm giảm mức độ trao đổi, làm sạch nước, tăng nguy cơ lây lan và phát tán mầm bệnh do mật độ sinh vật trong thủy vực quá cao. Do đó, bệnh dịch thường thấy đối với cá lồng bè, đó là cá thường mắc các bệnh lở loét, đường ruột đối với cá song, bệnh sưng gan đối với cá giò. Bên cạnh đó, do phát triển nuôi ồ ạt với tốc độ chóng mặt trong khi hệ thống dịch vụ cung cấp thuốc thú y thủy sản, hóa chất và con giống… phục vụ cho nghề nuôi biển chưa hình thành, dịch vụ khuyến ngư chưa đến được với người sản xuất. Nên hiện nay, các hộ nuôi cá lồng bè trong tình cảnh thiếu nguồn cá giống chất lượng nghiêm trọng, buộc phải sử dụng giống cá của thương lái Trung Quốc, dù biết chất lượng không bảo đảm.
Tình hình tiêu thụ cá lồng bè trong mấy năm gần đây phụ thuộc nhiều vào khả năng thu hút khách du lịch của Cát Bà và năng lực thu gom vận chuyển sản phẩm tiêu thụ ở một số thị trường tiểu ngạch như Trung Quốc, Hồng Kông. Phần lớn các hộ nuôi hải sản biển chưa chủ động tự tìm được thị trường tiêu thụ ổn định. Việc tiêu thụ hải sản còn phụ thuộc vào những cơ sở thu gom tại chỗ, sau đó chuyển đi các thị trường khác, dẫn đến tình trạng các hộ có thể bị ép giá tiêu thụ, tồn động sản phẩm.
Bên cạnh đó, hàng loạt khó khăn phát sinh, ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Đó là tình trạng khó quản lý hộ khẩu đối với những bè nuôi tự phát từ tỉnh ngoài về neo đậu hoặc khi các hộ tự ý tháo dỡ, lắp đặt, cơi nới, di chuyển bè nuôi từ vùng này sang vùng khác… Đó là những phức tạp nảy sinh trong quản lý an ninh trật tự, việc học tập, sinh hoạt cộng đồng, phúc lợi xã hội của trẻ em, người già cũng như người dân sống trên các bè. Thêm vào đó, tình trạng cá chết liên tục khiến nhiều hộ dân nuôi lồng bè ở Cát Bà trước nguy cơ điêu đứng thất bát. Nhiều người dân đầu tư nuôi cá lồng bè chán nản, muốn bỏ bè cá lên bờ, về quê sinh sống nhưng không thể, vì đã đầu tư không ít tiền vào ô lồng. Đâm lao phải theo lao. Theo trưởng phòng nông nghiệp - PTNT huyện Cát Hải Vũ Đình Khượng, việc quy hoạch phát triển nuôi cá lồng bè quá chậm khiến cho nhiều giải pháp để lập lại trật tự vùng nuôi của địa phương gần như không khả thi. Tháng 9 vừa qua, thành phố đã công bố quy hoạch nuôi hải sản, đây là lần đầu tiên nuôi biển có quy hoạch dẫn đường. Để thực hiện được quy hoạch này, trước mắt, huyện Cát Hải cần phải làm rất nhiều việc để khắc phục hậu quả của tình trạng phát triển ồ ạt, tự phát trong nhiều năm qua.
Hoàng Yên
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.