• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Xây dựng bộ tiêu chuẩn của thương hiệu thủy sản Việt Nam

Nguồn tin: Website ĐCSVN, 25/11/2010
Ngày cập nhật: 26/11/2010

Thủy sản Việt Nam đang là một trong những ngành xuất khẩu lớn của Việt Nam và trong năm 2010 này nằm trong Top 10 nước xuất khẩu thủy sản của thế giới.

Có thể thấy, thủy sản Việt Nam đang là một thương hiệu khá uy tín đối với khu vực và thế giới. Vấn đề đặt ra xung quanh việc xây dựng bộ tiêu chuẩn của thương hiệu thủy sản Việt Nam được nhiều nhà nghiên cứu và các chuyên gia kinh tế, chuyên gia về thủy sản quan tâm. Theo đó, bộ tiêu chuẩn gồm tiêu chuẩn “cần phải có” (còn gọi là tiêu chuẩn “cứng”) là độ tin cậy của vệ sinh an toàn thực phẩm được bảo đảm; độ tin cậy của khách hàng về chất lượng được bảo đảm (dinh dưỡng, màu sắc, kích cỡ, mùi, vị…) và xu hướng “muốn có” (còn gọi tiêu chuẩn “mềm”) là đạo đức, môi trường và phúc lợi xã hội (cộng đồng, bảo vệ trẻ em); nguồn gốc đặc thù, phát triển bền vững, bảo vệ động vật; các sản phẩm sinh thái…

Ông Ngô Hùng, Giám đốc Công ty Lacoms, Quảng Ninh cho rằng: việc xây dựng thương hiệu phải được tiến hành tổng thể nhưng thực tế cho thấy kết quả xây dựng thương hiệu ngành thủy sản Việt Nam vẫn còn một số tồn tại, dù đã có ý thức xây dựng nhưng chưa có kiến thức và cách thức xây dựng thương hiệu, thiếu khả năng kiểm soát về chất lượng và tự định vị, tiến hành tự phát… Cũng đề cập đến vấn đề xây dựng bộ tiêu chuẩn, ông Ngô Hùng khẳng định: Đây là một nội dung cần kíp bởi qua xây dựng tiêu chuẩn thương hiệu xuất phát từ chính mong muốn của khách hàng được đảm bảo về quản lý an toàn thực phẩm với sự giám sát tổng thể toàn bộ chuỗi sản phẩm và kiểm soát chất lượng về màu sắc, kích cỡ, độ mịn, vị, mùi và sâu xa hơn nữa là từ nhu cầu mong muốn của khách hàng được bảo đảm về các vấn đề bảo vệ môi trường và phúc lợi xã hội. Do đó, yêu cầu đặt ra khi xây dựng tiêu chuẩn là phải phản ánh chính xác những đòi hỏi của thị trường, lợi ích phải bù đắp được chi phí tăng thêm…

Cũng phân tích về việc xây dựng thương hiệu thủy sản Việt Nam, ông Nguyễn Tử Cương, Giám đốc Trung tâm chuyển giao công nghệ và dịch vụ thủy sản Việt Nam (FITES) chia sẻ: trong thời kỳ hội nhập, những nhà sản xuất và cung ứng sản phẩm, bên cạnh việc tuân thủ các quy định của hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT) và hiệp định an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh động và thực vật (SPS) của tổ chức thương mại thế giới còn phải xây dựng và quảng bá thương hiệu của mình đối với người tiêu dùng và xã hội. Theo ông Nguyễn Tử Cương, để đảm bảo cho vấn đề thương hiệu thủy sản Việt Nam, cần xây dựng và công bố tài liệu nghiệp vụ xây dựng, quảng bá và quản lý thương hiệu và cần xây dựng, công bố chiến lược thương hiệu thủy sản theo các cấp độ: thương hiệu thủy sản quốc gia, thương hiệu ngành hàng thủy sản, thương hiệu của từng đơn vị, tổ chức đồng thời cần có kế hoạch hàng năm về xây dựng những thương hiệu có thể thể mạnh nhưng đạt mục tiêu khuyếch trương, mở rộng thị trường. Để làm được như vậy, cần xây dựng tổ chức tư vấn về thương hiệu (giỏi nghiệp vụ, giàu kinh nghiệm thực tế) để hỗ trợ các doanh nghiệp, nhất là giai đoạn đầu, cần tổ chức nhiều khóa tập huấn về xây dựng, quảng bá và quản lý thương hiệu và đặc biệt cần có cơ quan quản lý của Bộ về thương hiệu để tham mưu xây dựng quy chế xây dựng, quảng bá và quản lý thương hiệu thủy sản Việt Nam, có chính sách hỗ trợ các tỉnh, các công ty, doanh nghiệp xây dựng chiến lược thương hiệu, hỗ trợ tài chính đăng ký và bảo hộ thương hiệu cùng các chính sách hỗ trợ giải quyết tranh chấp vi phạm nhãn hiệu, thương hiệu và bản quyền trong nước, quốc tế…

Đảm bảo các yêu cầu của các thị trường nhập khẩu thủy sản Việt Nam

Mức tối thiểu cần đáp ứng để được cho phép xuất khẩu vào các thị trường: Liên minh Châu Âu (EU), Hoa Kỳ, LB Nga… được cho là cần phải đáp ứng yêu cầu “cứng” của thương hiệu.

Đó là đảm bảo an toàn thực phẩm, cụ thể: đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định bắt buộc áp dụng (quản lý theo quá trình theo HACCP, GMP, SSOP, GAP); được cơ quan thẩm quyền Việt Nam kiểm tra, giám sát; được cơ quan thẩm quyền các nước nhập khẩu công nhận cho phép xuất khẩu; sản phẩm được kiểm tra, chứng nhận phù hợp Tiêu chuẩn, Quy chuẩn, Quy định về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP); là các chương trình giám sát quốc gia, các Phòng kiểm nghiệm đạt yêu cầu quốc tế ISO17025. Theo đó, thực hiện chuyến đổi phương thức kiểm soát ATVSTP thủy sản của các nước: quản lý́ theo nguyên lý kiểm soát quá trình “từ ao nuôi đến bàn ăn”, bắt buộc các cơ sở sản xuất – kinh doanh áp dụng hệ thống quản lý chất lượng an toàn thực phẩm theo HACCP, GMP, SSOP; yêu cầu thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm; đưa ra hệ thống luật lệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng khắt khe dựa trên đánh giá cơ ATTP nhằm đảm bảo mức bảo vệ phù hợp; thống nhất đầu mối và tăng cường năng lực cho cơ quan thẩm quyền Nhà nước kiểm soát về ATVSTP; tăng cường xã hội hóa hoạt động kiểm nghiệm, chứng nhận từ bên thứ 3.

Đồng thời thực hiện chuyển đổi phương thức kiểm soát tại Việt Nam với việc thành lập và xây dựng năng lực cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam: ban đầu là NAFIQACEN (trước đây thuộc Bộ Thủy sản), nay là Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thuỷ sản (NAFIQAD) thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT). Rà soát và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, liên quan đến lĩnh vực an toàn vệ sinh và thú y, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn tương đương với các tiêu chuẩn quốc tế; Nâng cấp điều kiện ATVSTP các doanh nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam theo tiêu chuẩn Ngành và đáp ứng yêu cầu các thị trường nhập khẩu; Triển khai chương trình dư lượng hoá chất độc hại trong thủy sản nuôi, chương trình kiểm soát vùng thu hoạch NT2MV… Ký kết các văn bản thoả thuận song phương, hợp tác về kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản với Cơ quan thẩm quyền các nước nhập khẩu.

Hiện nay, nhiều chuyên gia cho biết: hiện trạng phân công kiểm soát an toàn ATVSTP thủy sản tại Việt Nam do Bộ NN&PTNT quản lý chung và có phân cấp cụ thể: Sản xuất, kinh doanh sử dụng thuốc thú y do Cục Thú y chịu trách nhiệm; Sản xuất, kinh doanh sử dụng thức ăn, hóa chất do Cục Nuôi trồng thủy sản chịu trách nhiệm; Hướng dẫn, giám sát áp dụng GaqP do Cục Nuôi trồng thủy sản chịu trách nhiệm; Giám sát dư lượng, nhuyễn thể 2 mảnh vỏ do NAFIQAD chịu trách nhiệm… Khai thác, vận chuyển trên biển do Cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản chịu trách nhiệm, Điều kiện vệ sinh tàu cá, cảng cá, bốc dỡ cá lên bờ do NAFIQAD chịu trách nhiệm; Thu gom, sơ chế, chế biến NAFIQAD do Sở NN&PTNT chịu trách nhiệm; Kiểm tra, kiểm dịch, chứng nhận thực phẩm thủy sản xuất khẩu, chứng nhận CL, ATTP thủy sản nhập khẩu để chế biến do NAFIQAD chịu trách nhiệm; Điều tra, truy xuất nguyên nhân, khắc phục sự cố ATTP do NAFIQAD chịu trách nhiệm.

Yêu cầu đặc thù tại một số thị trường trên thế giới

Tại thị trường Liên bang Nga, cơ quan thẩm quyền là Cục Kiểm dịch động thực vật LB Nga (VPSS) với một số yêu cầu chính: Cơ sở sản xuất thuỷ sản được cơ quan thẩm quyền nước xuất khẩu giám sát điều kiện đảm bảo VSATTP; được VPSS trực tiếp kiểm tra, cho phép xuất khẩu vào Liên bang Nga; Thủy sản và sản phẩm thủy sản phải được cơ quan thẩm quyền nước xuất khẩu kiểm tra các tiêu chuẩn ATTP, xác nhận phù hợp theo quy định của Liên bang Nga; Mỗi lô hàng thủy sản xuất khẩu phải kèm theo chứng thư có biểu hiện chống giả mạo theo mẫu đã được thống nhất với VPSS.

Thực tế, một số hoạt động và kết quả đã triển khai tại thị trường này là: đáp ứng các yêu cầu của VPSS (Danh sách doanh nghiệp, mẫu chứng thư, tiếp đón và làm việc với các đoàn thanh tra Nga, điều tra nguyên nhân các lô hàng bị cảnh báo...); Phối hợp VASEP, Bộ ngành liên quan thông báo kịp thời tới doanh nghiệp các thông tin, qui định, yêu cầu của thị trường, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; Hiện tại có 30 doanh nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam trong Danh sách được phép xuất khẩu vào Liên bang Nga.

Tại thị trường Australia, cơ quan thẩm quyền, cơ quan thanh tra và kiểm dịch Úc (AQIS) với một số yêu cầu chính đối với tôm nhập khẩu vào Úc (Quy định IRA) cụ thể là có xuất xứ từ nước/vùng sạch bệnh WSSV, YHV, IHHNV, TSV, NHPB, được cơ quan thẩm quyền Úc chấp nhận; Tôm bóc vỏ, bỏ đầu (chỉ còn đốt cuối và đuôi) và mỗi lô tôm khi đến Úc bị lấy mẫu xét nghiệm âm tính đối với các bệnh trên; Sản phẩm tôm được chế biến sâu (bóc vỏ, bỏ đầu và bao bột, tẩm bột hoặc thịt tôm làm nem, viên, hoặc há cảo); Tôm được xử lý nhiệt (luộc) bởi cơ sở được Cơ quan thẩm quyền công nhận.

Thực tế một số kết quả đã triển khai: tổ chức nghiên cứu dự thảo báo cáo IRA, gửi văn bản góp ý tới Australia; Liên hệ với Thương vụ Việt Nam tại Australia, cử Đoàn sang làm việc với Hội nhập khẩu thuỷ sản Úc; làm việc với Biosecurity và AQIS về hợp tác kiểm tra chứng nhận hàng thuỷ sản xuất khẩu vào Australia; Đề nghị Biosecurity phối hợp cử chuyên gia đánh giá và công nhận vùng nuôi sạch bệnh của Việt Nam; đề nghị Úc phối hợp với Việt Nam nghiên cứu và đề xuất phương pháp kiểm nghiệm phù hợp, nâng cấp các phòng xét nghiệm bệnh tôm.

Tại thị trường New Zealand, tiêu chuẩn y tế về nhập khẩu cá rô phi và cá tra dùng làm thực phẩm được Bộ An ninh sinh học Nông Lâm nghiệp New Zealand đưa ra ngày 20/3/2009. Theo đó, lô hàng cá tra của Việt Nam xuất khẩu sang New Zealand phải kèm theo chứng thư vệ sinh, trong đó Cơ quan thẩm quyền phải các nhận các nội dung chính sau: tên, địa chỉ, mã số đăng ký của trại nuôi; tên, địa chỉ, mã số đăng ký của cơ sở chế biến; loài nuôi.

Còn tại thị trường EU, quy định của EU về chứng nhận thủy sản đánh bắt được nêu trong Quy định số 1005/2008/EC ngày 29/9/2008 của Uỷ ban Châu Âu về việc thiết lập hệ thống phòng ngừa, ngăn chặn và xoá bỏ các hoạt động khai thác thuỷ sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo qui định (Quy định IUU) có hiệu lực từ 01/01/2010 trong đó ghi rõ: sản phẩm thủy sản nhập khẩu vào EU sau ngày 01/01/2010 phải có giấy chứng nhận đánh bắt. Cơ quan chức năng của nước có tàu đánh bắt phải xác nhận rằng thủy sản được đánh bắt trên tàu là phù hợp với quy định của pháp luật và quốc tế về quản lý và bảo tồn nguồn lợi thủy sản. Chứng nhận này phải được hợp thức bởi cơ quan có thẩm quyền.

Bên cạnh đó là các Thoả thuận công nhận tương đương, công nhận lẫn nhau (tính đến tháng 11/2008), gồm: Quyết định số 2004/267/EC của ủy ban Châu Âu công nhận NAFIQAD; Thỏa thuận Hợp tác trong lĩnh vực kiểm soát Chất lượng, an toàn vệ sinh thủy sản; Thoả thuận về kiểm tra chứng nhận dư lượng thuốc thu y thuỷ sản xuất khẩu sang Canada; Thỏa thuận về thanh tra kiểm dịch và giám sát vệ sinh sản phẩm thực phẩm thủy sản xuất nhập khẩu; Thỏa thuận Hợp tác kỹ thuật trong việc kiểm soát dịch bệnh và an toàn thực phẩm thủy sản; Thỏa thuận Hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực chất lượng, an toàn thực phẩm thủy sản và bảo vệ sức khỏe động thực vật dưới nước và lưỡng cư; Biên bản các Phiên họp nhóm công tác Việt Nam – Liên bang Nga về chất lượng và an toàn thực phẩm thủy sản và sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất khẩu…

Từ thực tế hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, theo các chuyên gia, để đáp ứng nhu cầu hội nhập, chúng ta cần: Thường xuyên cập nhật chính sách, qui định, tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước; qui định tiêu chuẩn kỹ thuật tham chiếu quốc tế (của CODEX, OIE, IPPC hoặc của đối tác khác); Hoàn thiện hệ thống luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn của Việt Nam; Củng cố hệ thống cơ quan quản lý chất lượng Nông - Lâm sản và Thủy sản từ Trung ương đến địa phương (Nghị định 79/2008/NĐ-CP, Thông tư liên tịch 31/2009/TTLT-BNN-BNV); Đầu tư hệ thống phòng kiểm nghiệm chất lượng, ATVSTP theo chuẩn quốc tế. Đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật (kiểm tra viên, kiểm nghiệm viên, kiểm dịch viên…); Tăng cường xã hội hóa hoạt động kiểm nghiệm, chứng nhận hệ thống QLCL; Tăng cường quản lý ATVSTP khu vực trước chế biến (cơ sở sản xuất giống, nuôi, khai thác, bảo quản, thu mua thủy sản). Áp dụng và chứng nhận GAP (Good Aquaculture Practise) đối với cơ sở nuôi thủy sản. Thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc thủy sản; Không ngừng nâng cao nhận thức, năng lực kiểm soát chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn dịch bệnh cho toàn bộ hệ thống (cơ quan nhà nước và doanh nghiệp); Tăng cường hợp tác với cơ quan thẩm quyền của các nước để đàm phán tiến tới ký kết Thoả thuận công nhận tương đương để tránh kiểm tra 2 lần…

HA.NV

Các tin mới

[31/12/2013]

[31/12/2013]

[31/12/2013]

[31/12/2013]

[31/12/2013]

[31/12/2013]

[30/12/2013]

[30/12/2013]

[30/12/2013]

[30/12/2013]

[30/12/2013]

[29/12/2013]

[29/12/2013]

[29/12/2013]

[29/12/2013]

 

Các tin năm 2014

Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476 477 478 479 480 481 482 483 484 485 486 487 488 489 490 491 492 493 494 495 496 497 498 499 500 501 502 503 504 505 506 507 508 509 510 511 512 513 514 515 516 517 518 519 520 521 522 523 524 525 526 527 528 529 530 531 532 533 534 535 536 537 538 539 540 541 542 543 544 545 546 547 548 549 550 551 552 553 554 555 556 557 558 559 560 561 562 563 564 565 566 567 568 569 570 571 572 573 574 575 576 577 578 579 580 581 582 583 584 585 586 587 588 589 590 591 592 593 594 595 596 597 598 599 600 601 602 603 604 605 606 607 608 609 610 611 612 613 614 615 616 617 618 619 620 621 622 623 624 625 626 627 628 629 630 631 632 633 634 635 636 637 638 639 640 641 642 643 644 645 646 647 648 649 650 651 652 653 654 655 656 657 658 659 660 661 662 663 664 665 666 667 668 669 670 671 672 673 674 675 676 677 678 679 680 681 682 683 684 685 686 687 688 689 690 691 692 693 694 695 696 697 698 699 700 701 702 703 704 705 706 707 708 709 710 711 712 713 714 715 716 717 718 719 720 721 722 723 724 725 726 727 728 729 730 731 732 733 734 735 736 737 738 739 740 741 742 743 744 745 746 747 748 749 750 751 752 753 754 755 756 757 758 759 760 761 762 763 764 765 766 767 768 769 770 771 772 773 774 775 776 777 778 779 780 781 782 783 784 785 786 787 788 789 790 791 792 793 794 795 796 797 798 799 800 801 802 803 804 805 806 807 808 809 810 811 812 813 814 815 816 817 818 819 820 821 822 823 824 825 826 827 828 829 830 831 832 833 834 835 836 837 838 839 840 841 842 843 844 845 846 847 848 849 850 851 852 853 854 855 856 857 858 859 860 861 862 863 864 865 866 867 868 869 870 871 872 873 874 875 876 877 878 879 880 881 882 883 884 885 886 887

Các tin năm 2007 | 2006 | năm 2005

Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang