Nguồn tin: Tuổi Trẻ, 16/04/2010
Ngày cập nhật:
16/4/2010
Từ cá trôi sông đến làng bè
Tháng 12-2003, tại công viên ngã ba sông ở thị xã Châu Đốc, An Giang, tượng đài cá ba sa cao 14m được khánh thành. Một nhân vật từng là quan chức tỉnh An Giang, ông Nguyễn Minh Nhị, nói tượng đài cá ba sa là để tôn vinh loài cá và cũng để ghi nhớ việc con người đã thuần dưỡng một giống cá giúp tạo nên thương hiệu mới không chỉ của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Nhân sự kiện Festival thủy sản VN tại Cần Thơ (tháng 4-2010), Tuổi Trẻ trở lại với câu chuyện cá ba sa như một dấu nhấn mang tính “hiện tượng” với ĐBSCL.
Theo những bậc cao niên cả đời sống bằng nghề lưới cá ở Biển Hồ Campuchia, nguồn gốc cá tra, cá ba sa có từ vùng Thượng Lào và trú ngụ sinh sản nhiều nhất ở Biển Hồ. Từ lúc mới nở, cá như bột gạo nhỏ li ti trôi theo dòng Mekong chảy vào đất Việt.
Con cá phương xa
Ông Tư Niên, 75 tuổi, một trong những ngư dân chuyên đánh bắt cá ở Biển Hồ, kể về lai lịch loài cá da trơn đã gắn liền với cuộc đời ông: “Cá tra ở Biển Hồ có hàng chục loài, có con nặng hàng chục ký, bụng đầy trứng. Thế nhưng tụi tôi không biết cách chúng giao phối sinh sản ra sao và ăn thứ gì mà đẻ được hàng triệu con bột ra sông biển. Chỉ biết vào tháng 5 âm lịch, cá tra ở Thượng Lào và vùng Biển Hồ bắt đầu bắt cặp và sinh sản.
Cá mẹ đẻ trứng bắn vào bọt nước hoặc vào dề lục bình rồi theo dòng nước trôi về hạ nguồn sinh sôi. Thuận con nước cá trôi về sông Tiền, sông Hậu và chảy tràn ra ruộng đồng miền hạ. Khoảng một năm sau cá con lớn gần 2kg, lưng đen bụng trắng, da trơn mình bự như đòn bánh tét... Ngư dân Biển Hồ còn vớt bắt cá con rọng dưới nước bán cho thương lái từ VN lên Biển Hồ mua đem về bán buôn”.
Ông cho hay ở VN việc đánh bắt ương nuôi cá bột hình thành cách nay cả 100 năm. Ngư cụ khai thác cá bột cũng được cải tiến dần từ lưới mùng đến lưới cước, từ việc dùng vợt vớt cá đến việc đóng dàn đáy lưới cá dài hàng trăm mét để chặn bắt cả luồng cá thiên nhiên.
Ông Ba Hoàng, ngư dân cố cựu trong nghề đáy cá ở xã Vĩnh Hòa, thị xã Tân Châu, kể vào tháng 5 âm lịch trở đi ngư dân nhìn dòng nước chảy, nơi nào có bọt quần tụ, có lục bình dạt về nhiều thì nơi đó có nhiều cá tra bột. Ai có vốn, làm ăn uy tín đều trở nên khá giả.
Ông Ba Hoàng nói: “Nếu trúng con nước có ngày thu được cả lượng vàng”. Đến thập niên 1980, hằng năm ở vùng cửa sông Tiền thuộc hai tỉnh An Giang, Đồng Tháp đã hình thành hàng trăm miệng đáy bắt cá tra bột, cá ba sa giống... sôi động nhất khu vực.
Từ vùng khai thác cá bột trôi sông đến nơi ương nuôi và bán buôn con giống đã tạo nên nghề nuôi cá tra, cá ba sa từ những năm 1960 đến nay. Ông Trần Văn Que, người có trên 40 năm ương nuôi cá tra bột ở xã cù lao Phú Thuận (Đồng Tháp), cho biết nhờ có con cá bột mà vùng cù lao Long Thuận, Phú Thuận phía dưới hạ nguồn sông Tiền có nghề ương nuôi sản xuất cá tra giống truyền thống. Từ đó người nuôi cá tra hầm cũng ngày một nhiều hơn.
Chợ xã, chợ chồm hổm đầu các vàm sông, đâu đâu cũng có người bán cá tra. Cá tra từ lâu đã trở thành loài cá ngon, rẻ, thường trực trên mâm cơm canh chua cá kho tộ của nhiều gia đình xứ lục tỉnh miền Tây.
Chiếc bè đầu tiên...
Ông Nguyễn Văn Đậm là một trong những gia đình đầu tiên đưa cá ba sa vào bè nuôi và đưa cả bè cá từ Biển Hồ về vùng sông Hậu kể: “Lúc đầu cha tôi vớt cá ba sa con và thả nuôi thử trong mùng lưới dưới nước bằng các loại thức ăn tự chế từ thiên nhiên.
Khi cá lớn chật quá, cha tôi mở rộng vùng nuôi bằng lưới tre bao tròn dưới nước. Cá nuôi vụ đầu bán có giá và cho lợi nhuận, cha tôi đã nghĩ ra cách làm nhiều chiếc bè tre nuôi cá dưới nước. Đáy của bè sâu 2,5m có thể thả nuôi được vài ba tấn cá tùy kích cỡ. Ông chính là người mang chiếc bè tre rộng như ngôi nhà thả trôi theo dòng Mekong từ Biển Hồ vượt 200 km dòng nước chảy xiết, lắm thác ghềnh về đến tận miền sông Hậu...”.
Về quê nhà, cha ông đã chọn được vị trí đất bãi bồi dọc bờ sông Hậu, thuộc xã Đa Phước, cách ngã ba sông Châu Đốc chừng 5km để neo bè và khởi nghiệp. Lúc đó vùng đất này còn hoang vu không có người ở. Cũng trong năm 1970, tại vùng đất hoang vu này có thêm nhiều nhà bè từ nơi khác đến. Ngày ngày họ đào ao nuôi cá, phát đất hoang trồng lúa. Nguồn cá ba sa giống được khai thác ngoài thiên nhiên, dần dà cuộc sống khấm khá hơn.
Ở làng bè xã Đa Phước lúc đó có các ông Văn Quyện, Văn Chất, Sáu Cậy... còn nghĩ ra cách chế biến thức ăn dùng cám tấm và cua ốc, chuối, rau cho cá ăn theo từng giai đoạn tăng trưởng. Biết dùng các vị thuốc có lá giác, muối hột, vôi bột và cả đất sét đặt trong bè để giải nhiệt và trị bệnh cho cá. “Nói chung người sao cá vậy nhưng tuyệt nhiên không sử dụng thuốc kháng sinh, kháng khuẩn phổ biến như bây giờ” - ông Đậm nói.
Nhà bè nuôi cá cũng được cải tiến theo xu thế phát triển. Ông Trần Bá Kế, 83 tuổi, ở ấp Hà Bao, xã Đa Phước, kể từ năm 1975 khi biết xã Đa Phước có nghề nuôi cá bè hiệu quả, ông đã mượn 17 lượng vàng đóng mới bè gỗ thay cho bè tre nuôi được 10 tấn cá ba sa hằng năm và chỉ một năm đã hoàn vốn. Bè ông đóng bằng gỗ căm xe, kích cỡ 6x12x3,5m, rộng và sâu gấp 2,5 lần so với bè tre truyền thống.
Những năm sau khi cá ba sa hút hàng, có ông Hai Nhàn còn đóng bè kích cỡ vô địch 10x28x7m, nuôi hàng trăm tấn cá. Bè cá như một ngôi nhà khang trang trên mặt nước, bên trong nội thất ti vi, máy lạnh sang trọng. Nhà bè là biểu trượng của sự giàu có trong thập niên 1990 - 2003.
Từ chòm bè vài chiếc quần tụ nuôi cá ba sa, sau hơn hai thập kỷ làng bè xã Đa Phước đã có trên 500 nhà bè lớn nhỏ, mỗi bè nuôi 50 đến trên 100 tấn cá ba sa. Từ năm 1990 trở đi khi cá ba sa được xuất khẩu thì làng bè Đa Phước không còn chỗ neo đậu bè nữa. Nhiều người giàu có đến học tập kinh nghiệm làm ăn rồi đóng bè thả nuôi phía dưới hạ nguồn ngã ba sông Châu Đốc.
Ông Nguyễn Văn Phát, trưởng Phòng kinh tế thị xã Châu Đốc, cho biết làng bè ở khu vực ngã ba sông Châu Đốc lúc hưng thịnh có trên 5.000 nhà bè phủ khắp sông Hậu. Không chỉ có ở sông Hậu, làng bè cá ba sa còn phát triển mạnh trên khu vực sông Tiền ở huyện Hồng Ngự và các nơi khác thuộc lưu vực sông Cửu Long.
Rời chiếc bè tre
“Không phải đơn thuần là một hiện tượng nữa mà đó là một kỳ tích”, tiến sĩ Võ Hùng Dũng, giám đốc Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) chi nhánh Cần Thơ, nhận xét.
Cây lúa, hạt gạo và con tôm từng tạo nên hiện tượng kinh tế, làm thay đổi diện mạo vùng ĐBSCL nhưng con cá ba sa, cá tra lại có sức phát triển thật lạ kỳ, đã tạo nên một kỳ tích với mức tăng trưởng chưa ngành nào đạt được trong thời gian vừa qua.
Sự tăng trưởng lạ kỳ
Cuối những năm 1980, con cá ba sa bắt đầu rời những làng bè của vùng đầu nguồn sông Tiền và sông Hậu để mở màn cho chuyến ngao du trời Tây. Anh Võ Đông Đức, tổng giám đốc Công ty Caseamex (Cần Thơ), kể lại: lúc đó tại ĐBSCL chỉ có hai đơn vị đi đầu trong việc chế biến, đưa mặt hàng cá ba sa phi lê ra nước ngoài là Công ty Agifish và Angitexim của tỉnh An Giang.
Khi mặt hàng này được ưa chuộng ở thị trường nước ngoài, giá cả tương đối hấp dẫn thì các công ty bắt đầu mở rộng mạng lưới thu mua, chế biến. Vùng đầu nguồn Châu Đốc (An Giang) và Hồng Ngự (Đồng Tháp) đã sớm mở rộng làng bè, có lúc lên đến hàng ngàn chiếc mỗi nơi. Từ đây, con cá ba sa vẫy vùng thoát khỏi những bè cá của vùng châu thổ đục phù sa để vươn mình ra thế giới.
“Cá ba sa lúc đó chủ yếu nuôi trong lồng bè, sản lượng rất ít và thấp. Khi thị trường nước ngoài bắt đầu chuộng và yêu cầu cung cấp ngày một nhiều hơn thì con cá ba sa ngày càng thể hiện sự đuối sức. Một công ty của Úc đã yêu cầu công ty của chúng tôi tìm con cá gì đó thay thế sản lượng cho con cá ba sa và họ đã cử hẳn chuyên gia tới ĐBSCL để cùng chúng tôi nghiên cứu. Trong nhiều loài cá họ thống nhất chọn con cá tra, vì có đặc điểm sinh trưởng, thịt phi lê tương tự ba sa. Thế là container cá tra phi lê đầu tiên của Việt Nam được xuất qua Úc, thị trường này sau đó chấp nhận mặt hàng này. Đó là tín hiệu đáng mừng ở buổi đầu sơ khai”, anh Võ Đông Đức hồ hởi kể lại.
Vài tháng sau, Công ty Cataco (tiền thân của Caseamex) tiếp tục xuất hàng qua châu Âu và rồi như một phép mầu, thị trường châu Âu cũng say mê con cá tra, ba sa của Việt Nam. Đến năm 1995, anh Đông Đức mở ra trang chính cho con cá tra khi lần đầu tiên đưa con cá này thâm nhập thị trường nước Mỹ. Ngay sau đó, một số công ty khác cũng bắt tay vào xây dựng nhà máy, đào tạo đội ngũ công nhân chế biến, tìm thị trường cho con cá tra.
Tiến sĩ Võ Hùng Dũng khi nhắc đến chuyện này phải thừa nhận: “Chỉ trong mười năm mà kim ngạch xuất khẩu từ mức vài chục triệu USD đã tăng vọt lên 1,4 tỉ USD. Ở Việt Nam chưa có ngành kinh tế nào có khả năng xuất khẩu tăng cao như vậy. Trong vòng mười năm qua thì bình quân tăng 30 %/năm”.
Tiến sĩ Dũng nói thêm trước đây cây lúa cũng tạo nên một hiện tượng giúp Việt Nam từ một nước nghèo đói, thiếu ăn thành một quốc gia xuất khẩu lương thực thuộc hàng đầu thế giới, góp phần quan trọng vào việc ổn định an ninh lương thực cho thế giới. Con tôm cũng vậy, từ mặt hàng không có lợi thế cạnh tranh nhưng các doanh nghiệp đã biến mặt hàng này thành chiến lược. Nhưng con cá tra, ba sa lại khác, từ nguồn giống tự nhiên ban đầu, kỹ thuật nuôi cây nhà lá vườn... vậy mà đã vươn xa qua trời Tây, tạo cho ĐBSCL và Việt Nam có một thương hiệu lớn: cá da trơn Việt Nam.
Làm đổi thay diện mạo đồng bằng
Trước khi con cá tra, ba sa rời khỏi cái lồng tre tìm đường bơi ra nước ngoài, bộ mặt nông thôn, một bộ phận khu vực có nuôi cá, còn nghèo. Nhưng rồi con cá tra đã làm thay đổi toàn bộ, người nông dân bắt đầu đào ao, lập trang trại, doanh nghiệp được thành lập nhiều hơn, nhà máy chế biến cá tra cũng mọc lên như nấm.
Nhiều tỉnh thành trong khu vực đã nghĩ tới và bắt tay vào xây dựng các khu, cụm công nghiệp chạy dọc sông Tiền và sông Hậu. Những khu vực ruộng đồng kém hiệu quả được chuyển dịch sang sản xuất công nghiệp, mà trong đó công nghiệp chế biến thủy sản chiếm phần lớn diện tích. Đường sá nông thôn cũng mở rộng hơn để phục vụ ngành chế biến, nuôi trồng con cá tra này.
Tiến sĩ Dũng nhớ lại trước đây khi con cá tra, ba sa còn chưa ai biết thì công nghiệp vùng ĐBSCL cũng chỉ quanh quẩn với các nhà máy chế biến lúa gạo nằm rải rác khắp nơi. Khi con tôm bước vào thị trường thế giới thì ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản cũng chỉ tập trung ở các tỉnh ven biển. Nhưng khi con cá tra tạo nên hiện tượng đột biến thì bộ mặt, cơ cấu ngành công nghiệp chế biến đã được điều chỉnh lại.
Mười tỉnh thành có nuôi cá tra đều xây dựng nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu, xây dựng nhà máy chế biến thức ăn, hệ thống hậu cần phục vụ nghề nuôi cá tra và cả mạng lưới dịch vụ hỗ trợ. Hiện tại ĐBSCL có trên 150 nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu, riêng tại Cần Thơ có 31 nhà máy. Ngoài ra còn hàng chục, hàng trăm nhà máy chế biến thức ăn, chế biến phụ phẩm từ cá.
Lợi thế cây lúa là lợi thế toàn vùng, lợi thế con tôm là lợi thế các tỉnh ven biển, còn lợi thế có cá tra là lợi thế của các tỉnh chạy dọc hai bờ sông Tiền và sông Hậu. Chính điều này đã phần nào làm đồng bằng có thể phát triển mạnh và đồng bộ. Con cá tra hiện chiếm 1/3 doanh số các tỉnh có nuôi cá tra trong khu vực.
Người nuôi, nhà chế biến, hệ thống cung cấp dịch vụ, người buôn bán, hệ thống dịch vụ thủy sản... cũng phát triển theo con cá tra, tạo ra công ăn việc làm cho hàng triệu người. Trong 15 năm qua đã tạo ra một ngành công nghiệp về cá, hình thành một chuỗi giá trị về cá rất lý thú, có mối quan hệ từ người cung cấp giống, người nuôi, người chế biến, xuất khẩu, sự phát triển hạ tầng phục vụ nghề cá, hệ thống kỹ thuật...
Tiến sĩ Nguyễn Văn Sánh, quyền giám đốc Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, cho biết sản lượng cá tra, ba sa của ĐBSCL chiếm trên 95% sản lượng cá da trơn của cả nước.
Nếu tính trong mười năm qua (1997 - 2007) thì diện tích nuôi tăng khoảng tám lần, sản lượng nuôi tăng 45 lần, sản lượng philê xuất khẩu tăng 55 lần và kim ngạch xuất khẩu tăng 50 lần. Tuy chỉ 6.000ha nuôi ở 10 tỉnh nhưng giá trị xuất khẩu cá tra từ năm 2000 - 2008 đã gần đuổi kịp tôm nuôi nước lợ.
Năm 2008 sản lượng cá tra, ba sa đạt 1,2 triệu tấn; sản phẩm xuất khẩu đạt 640.829 tấn, tăng 65,6% so với năm 2007; giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,453 tỉ USD, chiếm 32,2% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản, tăng 48,4% so với năm 2007, đóng góp 2,0% GDP của cả nước. Đến nay đã có 130 nước trên thế giới tiêu thụ cá tra, ba sa của Việt Nam.
Từ “mụ tây” tới “mụ vườn”
Năm 1993 Philippe Caco tốt nghiệp Ðại học Nông nghiệp Paris (khoa thủy sản), đã quyết định đến VN nghiên cứu cách cho cá ba sa sinh sản. Đến làng bè Châu Đốc (An Giang), anh bất ngờ với những làng bè sung túc trên sông Hậu.
Công nghệ “tây”
Philippe đến ngay lúc làng bè đang có tin Công ty Agifish An Giang đã thay sản phẩm xuất khẩu con tôm biển khan hiếm bằng con cá ba sa giàu tiềm năng hơn.
Nhiều người đã đón đầu cơ hội làm ăn lớn, đầu tư mới nhiều nhà bè cá bề thế trị giá hàng tỉ đồng. Cá giống ba sa trong thiên nhiên không đủ cung ứng cho nhu cầu làng bè và trở nên đắt đỏ. Một con cá bụng - cá ba sa con - bằng ngón tay có lúc vọt lên 5.000 - 7.000 đồng.
Thông tin Philippe đến làng bè tìm cá bố mẹ đã được người dân các nơi mừng rỡ. Bà con ở vùng hạ nguồn sông Mekong đã đem đến tặng Philippe những con cá bụng to 5 - 7 kg có dáng đẹp để tuyển chọn và thử nghiệm. Hai tháng ở làng bè, Philippe và kỹ sư cộng sự đã tuyển chọn ngẫu nhiên được 200 con cá ba sa bố mẹ đem về ao Trường đại học Cần Thơ nuôi vỗ.
Đến tháng 6-1995, Philippe và nhóm cộng sự của anh đón nhận thêm một người bạn mới - Marc Campet - vừa tốt nghiệp Ðại học Thủy sản Pháp.
Đến làng bè và làm việc thuận lợi tại một phòng thí nghiệm ngay trên nhà bè của Công ty Agifish An Giang, Philippe và Marc đã áp dụng phương pháp cấy chip điện tử với mã số vào thân cá để kiểm tra, phân biệt, thay cho cách dùng phẩm mực trước đó.
Hàng tháng trời cứ cách 10 ngày một lần nhóm “bà đỡ” lại vớt cá lên thăm trứng chích hormon kích dục tố, tìm mọi cách nhưng vẫn không thấy cá mẹ rụng trứng. Thế rồi trong một lần kiểm tra, Philippe bất ngờ thấy bụng một con cá phình to. Tìm dò mã số thì biết đây chính là con cá của cư dân làng bè tặng anh.
Cá mẹ được đưa lên khay và kích đẻ, bụng nó bắt đầu căng phồng lên. “Bà đỡ” Philippe nhẹ tay vuốt dạ dưới con cá mẹ, từ bụng dưới con cá phụt ra tia trứng vàng. Đến lần tiếp theo trứng cứ phun vào chậu chứa 75 gam trứng. Sau đó nhóm “bà đỡ” Pháp - Việt cho trứng thụ tinh nhân tạo. Khoảng 24 giờ sau cá con lúc nhúc xé màng và đàn cá li ti mới bắt đầu chuyển mình.
“Trứng thành cá rồi” - cả nhóm “bà đỡ” cùng Philippe và Marc đã vui mừng ôm nhau chúc mừng thành công mà người dân làng bè mong đợi.
Philippe và Marc đã áp dụng kỹ thuật cho cá ba sa và cá tra sinh sản nhân tạo, ương nuôi cá bột cho đơn vị hợp tác là trại giống Mỹ Châu (Công ty Agifish An Giang).
Qua tay nông dân Việt
Những nông dân cố cựu ở vùng sản xuất cá giống Hồng Ngự (Đồng Tháp) cho biết trại cá giống Mỹ Châu thời gian đầu là đơn vị độc quyền tiếp nhận công nghệ sinh sản cá tra giống và bán cho dân.
Lợi nhuận từ việc sinh sản cá giống nhân tạo là rất lớn. Nhiều nông dân thức thời đã nhanh chóng tìm đến trại cá giống để học cách cho cá đẻ nhưng bất thành. Phải đến một năm sau đó công nghệ cho cá sinh sản nhân tạo mới được “rò rỉ” ra bên ngoài khi các kỹ sư nơi đây trở thành những người thầy giúp nông dân.
Ông Út Que, chủ cơ sở sản xuất cá tra giống, nhà ở ngay bến đò xã Phú Thuận (Đồng Tháp), đưa chúng tôi đi thăm cơ ngơi sản xuất cá giống gồm ao nuôi hàng ngàn con cá bố mẹ thuần thục, và khu vực sinh sản cho cá.
Cơ sở được đầu tư khá bài bản, từ hệ thống ống dẫn nước, bồn ấp trứng đến khay đẻ cho cá đều được làm theo quy trình khá hiện đại. “Nhưng để học được nghề cho cá đẻ, nói tắt là “đẻ” cá thì nông dân như tụi tui phải mời kỹ sư về tầm sư học nghề. Học theo kiểu cầm tay chỉ việc, thầy chỉ một mình ráng học lóm tới mười, phải ráng moi cho hết các ngón nghề từ nuôi vỗ cá bố mẹ đến sử dụng thuốc kích dục, thao tác thăm trứng và vuốt tay ép bụng cá cho trứng phun ra... Các nhà khoa học đã có công nghiên cứu thì mình ráng học để mang lại cái lợi cho mình”.
Út Que còn nói để học được nghề này ông phải chia lợi nhuận 6 : 4 cho người dạy. Đó là nguồn tiền thu được sau khi cho cá đẻ thành công và bán được cá giống trong suốt thời gian học nghề 3 - 4 tháng.
Còn ông Đào Thanh Khiết, 54 tuổi, ấp Phú Hòa, xã Phú Lâm, huyện Phú Tân, An Giang, cho biết ông đã phải trả cho kỹ sư thủy sản 5 lượng vàng để học nghề “đẻ” cá tra.
Học nghề “đẻ” cá lắm công phu. Đó là học cách chọn cá bố mẹ thuần thục cho đẻ trứng được trên 3 năm tuổi, phải đi săn tìm cá bố mẹ có ngoại hình hoàn chỉnh, da bụng mỏng. Học cách chọc que thăm trứng xem cá đẻ được hay chưa. Nếu được thì tách đàn để chuẩn bị chích thuốc kích thích với liều lượng hợp lý cho cá đẻ. Sau đó ba ngày nếu thăm thấy trứng chín thì bắt đầu đưa cá lên khay, dùng tay vuốt bụng cá cho trứng phun ra và tiến hành cho trứng thụ tinh. Sau đó đem trứng thụ tinh vào bể ấp trong thời gian 24 giờ, trứng nở thành cá bột. Thêm 24 giờ nữa đưa cá bột vào bọc oxy đem đến ao ương nuôi.
“Vui nhất là khi chính tay mình thao tác cho cá tự đẻ. Thành công khi đạt tỉ lệ 10% trứng cho trọng lượng một con cá mẹ; ba con cá mẹ cho 1 kg trứng, tương đương khoảng 1,2 triệu con cá bột” - ông Khiết nói.
Lúc đó trại cá giống của Hai Nấm, Bảy Biết, Bảy Xùm, Hai Diễm lớn nhất trong vùng sông Tiền, mỗi lần sản xuất cho ra lò 20 - 30 triệu con cá bột thu vào chừng nửa tỉ đồng, tương đương 100 lượng vàng. Cá nhân tạo đem nuôi sông đạt tỉ lệ cao trên 40%, do cá bố mẹ được tuyển chọn từ thiên nhiên hoang dã.
Chỉ trong một năm đã có khoảng 100 trại cá giống mọc lên, cung vượt cầu đã kéo giá cá giống từ 60 đồng xuống còn 1 đồng/con. Hiện có khoảng 10 cơ sở sản xuất cá giống ở đồng bằng đang áp dụng tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt (Globle GAP) trong sản xuất con giống cá.
Cái nhạy của người nông dân miền sông nước chính là tác nhân chính thúc đẩy sự phát triển nghề cá ở đồng bằng.
“Trên cơm dưới cá”
Ông Nguyễn Hữu Khánh - nguyên bí thư Tỉnh ủy An Giang, nguyên chủ tịch Hội Nghề cá VN - lý giải về “hiện tượng ba sa”: “Vào cuối những năm 1980 khi cây lúa đã phát triển mạnh, chúng tôi nghĩ đến câu nói của cha ông “trên cơm dưới cá” để mở hướng phát triển mới. Trên đã có lúa rồi, tại sao không phát triển con cá đang có lợi thế vùng nuôi? Lợi thế từ tay nghề nuôi cá ba sa, cá tra đến nhờ vả sự “mai mối” của bà con Việt kiều để đưa thị trường này ra thế giới”.
Cuối thập niên 1990, An Giang gặp khó khăn về nguồn cung ứng cá giống. Sau đó tỉnh đã chủ động phối hợp với các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu để đến năm 2001 sinh sản nhân tạo cá.
Năm 1995, tỉnh An Giang sản xuất chỉ được khoảng 50.000 tấn cá nhưng đến nay sản lượng này là 180.000 tấn. Khó có ngành kinh tế nào có được sự phát triển mạnh mẽ như vậy!
QUANG VINH - PHƯƠNG NGUYÊN
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.