Nguồn tin: Báo Vĩnh Long, 23/02/2010
Ngày cập nhật:
24/2/2010
Chủ trương đưa cá tra vào nhóm sản phẩm chiến lược đã thể hiện đậm nét vai trò “nhạc trưởng” của Nhà nước, các chương trình dự án cụ thể sẽ là động lực thúc đẩy đổi mới để tổ chức sắp xếp lại ngành hàng cá tra, nâng tính chuyên nghiệp của nhà sản xuất, cân bằng giữa xuất khẩu và tiêu thụ nội địa loại sản phẩm này theo hướng phát triển ổn định, hiệu quả và bền vững. Sự quan tâm đặc biệt này của Chính phủ sẽ là tín hiệu lạc quan để những ai đã từng “thăng trầm” với con cá tra - đặc biệt là những người nuôi, có cơ sở để kỳ vọng sản phẩm chủ lực này lại “khởi sắc mùa xuân” vào những năm tới như đã từng khởi sắc.
Phát triển ấn tượng
Cá tra được nuôi phổ biến ở các tỉnh trong vùng ĐBSCL, đặc biệt là các tỉnh ven sông Tiền và sông Hậu và đã có sự phát triển vượt bậc trong nhiều năm qua, đóng góp lớn trong tỉ trọng xuất khẩu của ngành thủy sản Việt Nam.
Tuy chỉ với hơn 6.000 ha nuôi ở 9 tỉnh, thành phố trong vùng (Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng) nhưng giá trị xuất khẩu cá tra giai đoạn 2000 - 2009 đã gần đuổi kịp con tôm nuôi nước lợ - đối tượng xuất khẩu chủ lực của quốc gia.
Đã từng có thời kỳ “vàng son” giá xuất khẩu cá tra phi lê lên đến 3,2 USD/kg và người nuôi kiếm tiền tỉ/1ha ao sau 6 – 7 tháng nuôi là “chuyện dễ như chơi”! Và năm 2008, mặc dù là năm đầy “sóng gió” nhưng sản lượng cá tra nuôi vẫn đạt trên 1,2 triệu tấn, sản lượng xuất khẩu đạt 640.829 tấn (tăng 65,6% so với năm 2007) và giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,453 tỉ USD, chiếm 32,2% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của cả nước (tăng 48,4% so với năm 2007) và đóng góp khoảng 2% GDP của cả nước. Riêng năm 2009 muôn vàn khó khăn cũng đạt 1,34 tỉ USD, chiếm tỉ trọng xuất khẩu cao với 31,5%, có mặt trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.
Nhưng vô vàn rủi ro và thách thức
Do tốc độ phát triển nhanh lại chậm quy hoạch, nhiều bất cập trong công tác quản lý các yếu tố đầu vào và thu mua, chế biến tiêu thụ; tổ chức sản xuất chưa hợp lý và mối liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ chưa chặt chẽ; công tác xúc tiến thương mại hiệu quả chưa cao; vai trò của các tổ chức hiệp hội trong chuỗi sản xuất còn chưa được thể hiện rõ ràng… đã dẫn đến việc sản xuất và tiêu thụ cá tra gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt trong thời gian gần đây nhiều cơ sở nuôi bị thua lỗ, phá sản không tiếp tục đầu tư vào sản xuất. Mặt khác, ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp mạnh và giá tại các thị trường chủ lực đều giảm, những thông tin không trung thực nhằm hạ uy tín con cá tra Việt Nam của báo chí một số nước như Italia, Tây Ban Nha, Na Uy, khu vực Trung Đông và New Zealand; những rào cản bảo hộ mậu dịch từ các nước nhập khẩu chính liên tục được đặt ra; rồi nguồn nguyên liệu không ổn định… là những thách thức đã, đang phải đối đầu.
Trong suốt năm 2009, giá cá nguyên liệu luôn đứng ở mức thấp, bằng hoặc thấp hơn giá thành sản xuất, người nuôi luôn trong tình trạng thua lỗ dẫn đến chuyện nuôi bị chựng lại, số hộ bỏ ao, treo hầm tiếp tục tăng 30 - 50%. Những tháng cuối năm, giá thu mua nguyên liệu cá tra đã có “nhích” lên chút ít, người nuôi có thể lời từ 500 – 800 đ/kg cá, nhưng tín hiệu này vẫn chưa thể xua tan không khí ảm đạm ở những vùng nuôi cá tra thuộc ĐBSCL. “Cơn bão” cá tra đi qua đã hơn một năm, nhưng hậu quả nặng nề của nó thì không dễ gì ngày một ngày hai khắc phục được!
Chính phủ đặc biệt quan tâm – kỳ vọng sự khởi sắc
Trước tình hình đó, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã chủ trì xây dựng quy hoạch sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và đã được ban hành bởi Quyết định số 102/2008/QD9-BNN ngày 17/10/2008. Đây là căn cứ pháp lý để định hướng nghề sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL phát triển ổn định và bền vững. Việc hoạch định chiến lược sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL đến năm 2020 để phát triển cá tra thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực của quốc gia và đóng góp vai trò quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, chủ trương này đã được triển khai bằng Đề án sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL đến năm 2020 và đã được Thủ tướng chính thức phê duyệt vào ngày 4/12/2009 và đến ngày 19/1/2010, Văn phòng Chính phủ chính thức thông báo Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng đồng ý đưa sản phẩm cá tra vào nhóm sản phẩm chiến lược, đồng thời chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu, xây dựng các chính sách ưu đãi để phát triển bền vững sản phẩm này với những chính sách ưu đãi cho ngành này.
Tổng nhu cầu vốn đầu tư cho Đề án sản xuất và tiêu thụ cá tra vào khoảng 1.340 tỉ đồng, trong đó, giai đoạn 2010 - 2015 cần 800 tỉ đồng, giai đoạn 2016 - 2020 cần 540 tỉ đồng. Một số giải pháp chính thực hiện đề án này là:
1. Phát triển theo quy hoạch:
Cá tra được quy hoạch nuôi chủ yếu ở khu vực ven sông Tiền và sông Hậu gồm các tỉnh Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng với diện tích tối đa năm 2015 là 11.000 ha và năm 2020 là 13.000 ha. Trong năm 2010, hoàn thành việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sản xuất và tiêu thụ cá tra của các địa phương trong vùng ĐBSCL. Để tránh tình trạng nuôi cá tra manh mún, nhỏ lẻ, các cơ sở nuôi cá tra mới có quy mô 10 ha trở lên phải nằm trong vùng sản xuất theo quy hoạch, có cơ sở hạ tầng phù hợp với sản xuất công nghiệp và đối với các cơ sở hiện có phải được rà soát, bố trí lại phù hợp quy hoạch, bảo đảm vệ sinh môi trường và an toàn dịch bệnh.
2. Cải thiện và nâng cao chất lượng giống, thức ăn, sản phẩm chế biến, xuất khẩu:
Đến năm 2015, ĐBSCL hoàn thành việc thay thế toàn bộ giống cá tra, bảo đảm giống có chất lượng cao, sạch bệnh. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thức ăn phục vụ nuôi cá tra phải đảm bảo điều kiện sản xuất, kinh doanh, thực hiện công bố chất lượng và đảm bảo chất lượng sản phẩm theo quy định hiện hành của Nhà nước, phải tuân thủ sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan chức năng và bị xử phạt nghiêm minh khi vi phạm.
Các cơ sở chế biến phải thực hiện công bố và chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng sản phẩm đã công bố để giám sát hoạt động quy trình sản xuất của cơ sở, phải thực hiện kiểm dịch, kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi đưa ra lưu thông phân phối trên thị trường.
3. Tổ chức lại sản xuất:
Tổ chức lại sản xuất theo hướng gắn kết chặt chẽ và bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu nuôi, thu mua, chế biến và xuất khẩu. Trong đó, tổ chức lại các hộ nuôi cá tra theo mô hình quản lý cộng đồng và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh tế tập thể như Hợp tác xã, Tổ hợp tác.
Đối với các cơ sở chế biến và tiêu thụ phải được bố trí, sắp xếp lại thành hệ thống phù hợp với các vùng sản xuất nguyên liệu, yếu tố quan trọng là thực hiện nguyên tắc nhà máy chế biến phải có vùng nguyên liệu, có trách nhiệm ký kết và thực hiện hợp đồng thu mua nguyên liệu với người nuôi để bảo đảm nguồn nguyên liệu ổn định.
4. Chính sách đầu tư:
Một số lĩnh vực ngân sách nhà nước hỗ trợ: Các nghiên cứu khoa học, nhập công nghệ, lai tạo giống, nhân giống và giữ giống gốc, giống chất lượng cao sạch bệnh; cơ sở hạ tầng thủy lợi, điện và hạ tầng công trình xử lý môi trường cho vùng nuôi, vùng sản xuất giống tập trung trên cơ sở phù hợp quy hoạch và có dự án được duyệt; Đầu tư nâng cấp 4 trung tâm sản xuất giống cá tra chất lượng cao sạch bệnh tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Bến Tre và TP Cần Thơ; đầu tư đồng bộ một trung tâm vùng và 9 tỉnh/thành phố (trong quy hoạch nuôi cá tra ở ĐBSCL) phòng thí nghiệm đủ năng lực tham chiếu, kiểm nghiệm chất lượng thức ăn, chế phẩm vi sinh, chất lượng sản phẩm và kiểm định chất lượng giống cá tra.
Đầu tư trang thiết bị phục vụ công tác thông tin, thống kê, dự báo tình hình sản xuất - tiêu thụ cá tra và đầu tư xây dựng đồng bộ cho mỗi địa phương trên hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường, đảm bảo kịp thời phòng chống dịch bệnh và phát triển nuôi cá tra bền vững.
Đối tượng cá tra được thừa nhận là ngành hàng đầy tiềm năng và triển vọng sẽ tiếp tục phát triển. Đây là nhận định dựa trên nhiều cơ sở khoa học, căn cứ dự báo kinh tế thị trường của các chuyên gia, tình trạng “bấp bênh” như hiện nay chỉ là nhất thời.
Th.S PHẠM THỊ THU HỒNG
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.