• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Thịt nhập “giết” ngành chăn nuôi: Nếu không chấn chỉnh, nhiều hộ chăn nuôi sẽ phá sản

Nguồn tin: TT, 26/9/2008
Ngày cập nhật: 27/9/2008

Thịt ngoại nhập tràn lan đang là một trong những thủ phạm “giết” ngành chăn nuôi trong nước. Vì sao một nước nông nghiệp như VN lại phải chịu nghịch lý này? Tuổi Trẻ đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Đức Bình - phó chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi VN. Ông Bình cho biết:

- Nói thịt nhập đang góp phần “giết chết” ngành chăn nuôi là hoàn toàn chính xác, nhưng không phải do những sản phẩm này có giá rẻ mà cách thức nó xâm nhập thị trường VN.

Theo cam kết WTO, đến năm 2012 VN mới phải cắt giảm thuế suất nhập khẩu sản phẩm thịt heo xuống còn 25% và 15% tùy loại. Tương tự là các sản phẩm thịt gà cũng được cắt giảm thuế xuống 15%. Tuy nhiên, vừa qua chúng ta đã sớm cắt giảm thuế suất nhập thịt heo xuống còn 20% và 12% đối với thịt gà. Điều này đã khiến ngành chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn hiện nay.

Cho đến nay, khi sản phẩm thịt nhập đã tràn ngập thị trường VN, hàng loạt hộ chăn nuôi đã và đang rơi vào cảnh phá sản, người chăn nuôi mới “bật ngửa” ra trước thông tin thuế nhập khẩu các sản phẩm thịt đã giảm mạnh. Hầu như không một người chăn nuôi nào - đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi việc điều chỉnh thuế này - nhận được thông tin một cách đầy đủ về việc cắt giảm thuế này.

Ngay cả ngành nông nghiệp cũng không có bất cứ khuyến cáo nào để người chăn nuôi có thể chủ động giảm đàn, ngừng chăn nuôi, hoặc có biện pháp đối phó hiệu quả trước nguy cơ cạnh tranh với thịt nhập.

Điều ngạc nhiên là đến nay chúng ta chưa có bất cứ một bộ tiêu chuẩn nào để kiểm tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm thịt nhập. Ai đảm bảo được số thịt nhập này không có tồn dư chất tăng trưởng, chưa kể hàng loạt phụ phẩm cũng dễ dàng đưa vào thị trường VN... và trong thực tế chưa thấy cơ quan nào kiểm soát vấn đề này.

* Nhưng giá thịt nhập thấp hơn nhiều so với thịt sản xuất trong nước, vì sao thưa ông ?

Nuôi gà công nghiệp ở xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn, TP.HCM - Ảnh: N.C.T.

- Giá thịt nhập rẻ hơn so với thịt sản xuất trong nước vì được xem là những mặt hàng phụ phẩm, không được người tiêu dùng các nước ưa chuộng mới xuất qua VN. Chẳng hạn, thói quen tiêu dùng tại các nước Âu, Mỹ là chọn ức gà và được bán với giá rất cao, các bộ phận còn lại trong con gà được bán với giá rất rẻ.

Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận giá thành chăn nuôi tại VN hiện nay quá cao, hơn 20% so với các nước trong khu vực, trong khi các nước trong khu vực cũng có giá thành cao hơn 20% so với các nước có ngành chăn nuôi phát triển.

Có rất nhiều yếu tố khiến giá thành chăn nuôi ở VN quá cao như hiện nay, đó là thuế VAT 5% đối với thức ăn chăn nuôi (TACN) trong khi các nước trong khu vực không có thuế suất này. Rồi chi phí vận chuyển tăng, lãi suất ngân hàng cao, năng suất chăn nuôi của người nông dân thấp, đặc biệt là giá bán các sản phẩm TACN không ổn định và quá cao...

* Trong các yếu tố kể trên, giá TACN đang gây rất nhiều bức xúc đối với người chăn nuôi do cao hơn các nước trong khu vực. Ngay cả trong thời điểm giá nguyên liệu thế giới giảm mạnh thời gian qua nhưng giá TACN cũng chỉ giảm nhẹ ?

- Sự bức xúc của người chăn nuôi là hoàn toàn có cơ sở. Trong khi người chăn nuôi đang khốn đốn, các nhà sản xuất TACN không những không chia sẻ với họ mà còn góp phần gây thêm khó khăn. Cụ thể, trong ba tháng qua giá nguyên liệu thế giới đã giảm khoảng 30%, riêng đậu nành giảm đến 140 USD/tấn trong một tháng qua, nhưng đến nay các nhà sản xuất TACN trong nước điều chỉnh giảm giá bán không đáng kể, khoảng 2,6%.

Sự chậm trễ trong việc điều chỉnh giảm giá khi giá nguyên liệu giảm hiện nay của các nhà sản xuất TACN hoàn toàn ngược lại với xu hướng điều chỉnh tăng giá bán liên tục, thậm chí tăng giá đến ba lần trong vòng một tháng khi giá nguyên liệu thế giới tăng trong những tháng trước đó. Lẽ ra, các nhà sản xuất phải tính toán một tỉ lệ lãi định mức, khi giá nguyên liệu lên sẽ điều chỉnh giá bán một cách hợp lý, và ngược lại giảm giá bán phù hợp với giá nguyên liệu giảm. Ngược lại, các nhà sản xuất TACN tại VN thường “ăn” chênh lệch giá thay vì tính toán lợi nhuận định mức.

Cách hành xử này của các nhà sản xuất, theo tôi, giống như một “con buôn” hơn là một nhà sản xuất đúng nghĩa.

* Việc phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu khiến giá TACN cao và giá thành chăn nuôi cũng bị đẩy lên, thưa ông ?

- Một nước nông nghiệp như VN mà nguyên liệu cho ngành sản xuất TACN lại quá phụ thuộc nhập khẩu là điều khá nghịch lý. Chẳng hạn bắp, một loại nguyên liệu có thể phát triển mạnh trong nước nếu có chính sách hợp lý. Là quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, nhưng mỗi năm phải nhập gần nửa triệu tấn bắp là điều rất nghịch lý.

Theo tôi, có thể khuyến khích một số vùng chuyển từ trồng lúa sang trồng bắp, đồng thời có chính sách bảo hộ cho người trồng bắp. Việc nhập và xuất khẩu bắp hiện nay đều không chịu thuế. Điều này dẫn đến tình trạng là vào vụ thu hoạch bắp được xuất đi ào ạt, và ngược lại bắp được nhập ào ạt khi hết vụ với giá mua vào 1,5-2 lần giá bán ban đầu.

Lẽ ra chúng ta phải đánh thuế cả khâu xuất lẫn khâu nhập bắp để vừa bảo hộ cho ngành chăn nuôi và cả người trồng bắp. Cứ cho năng suất bắp ở các nước cao hơn, nhưng chi phí vận chuyển bắp từ Nam Mỹ về đến VN hiện nay cũng lên tới 1.000 đồng/kg. Vì vậy nếu chủ động được nguồn nguyên liệu này sẽ giảm được chi phí giá thành rất lớn cho người chăn nuôi.

* Theo ông, làm thế nào để ngành chăn nuôi có thể tiếp tục “sống” được mà người tiêu dùng VN không phải sử dụng sản phẩm thịt giá cao?

- Trước mắt, việc nâng thuế nhập khẩu để bảo hộ cho người chăn nuôi là cần thiết. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tạm thời. Còn về lâu dài, mỗi khâu trong hoạt động chăn nuôi phải có sự điều chỉnh phù hợp, trên cơ sở có sự cầm trịch của cơ quan quản lý ngành chăn nuôi.

Do đó, nhà sản xuất phải làm thị trường và kế hoạch sản xuất tốt hơn, không thể cứ thấy giá nguyên liệu tăng thì nhập ào ạt, rồi khi giá xuống lại không nhập, hậu quả người chăn nuôi lãnh đủ. Bản thân người chăn nuôi cũng không thể cứ trông chờ vào sự bảo bộ của Nhà nước, mà phải tự cứu lấy mình bằng các biện pháp nâng cao hiệu quả chăn nuôi.

Chẳng hạn, thay vì đi mua TACN thành phẩm, người chăn nuôi có thể mua loại đậm đặc và các loại nguyên liệu khác (bắp, mì...) về để tự chế biến. Với cách thức này, không chỉ chất lượng TACN vẫn đảm bảo mà giá thành cũng giảm, ít nhất là không phải chịu thuế VAT 5%, chưa kể các chi phí khác như đóng gói, bao bì, nhãn mác và cả phí quảng cáo của nhà sản xuất…

HẢI ĐĂNG

Các tin chăn nuôi khác:

31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
29/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
27/12/2013
27/12/2013

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang