• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Phú Thọ: Chăn nuôi bò chất lượng cao trong chương trình kinh tế nông nghiệp trọng điểm

Nguồn tin: Báo Phú Thọ, 30/12/2010
Ngày cập nhật: 2/1/2011

- Chăn nuôi bò chất lượng cao là một trong các chương trình kinh tế nông nghiệp trọng điểm của tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2005-2010.

Qua quá trình đầu tư phát triển trong 5 năm qua tình hình đàn bò của tỉnh phát triển khá cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng tổng đàn bò thường xuyên ổn định ở mức 130-160 ngàn con. Tuy mức độ tăng, giảm ở mỗi địa phương theo từng giai đoạn có biến động nhưng nhìn chung đàn bò phát triển khá ổn định ở các huyện như Tân Sơn, Thanh Sơn, Tam Nông, Thanh Ba, Lâm Thao, Cẩm Khê, Phù Ninh, Thanh Thủy.

Nhờ áp dụng chương trình lai sind nên hiện nay huyện Lâm Thao có đàn bò lai chiếm gần 70%. - Đàn bò của xã Vĩnh Lại (Lâm Thao).

Sự khác biệt giữa nuôi bò hiện nay so với trước kia là bò đưa làm thực phẩm đang có xu thế tăng thay thế cho chăn nuôi lấy sức kéo. Do nhu cầu xã hội tăng mạnh nên nhiều hộ trước coi nuôi bò là nghề phụ thì nay đã chuyển dần sang nuôi bò bán thâm canh theo hình thức vừa chăn thả tự do vừa trồng cỏ, dự trữ thức ăn tinh, thậm chí đầu tư cả cám công nghiệp vỗ béo cho đàn bò. Qua khảo sát ở nhiều địa phương cho thấy số hộ nuôi 2-3 nái bò thay thế cho nuôi lợn đang có xu hướng tăng lên. Những hộ này chọn lựa nái nền tương đối tốt có tỷ lệ máu lai từ 25%-50%, gia đình tận dụng đất đai vườn đồi, bờ soi bãi, ruộng cao hạn trồng cỏ. Với cách nuôi như vậy mỗi năm có thể có 2-3 bê con xuất bán.

Nếu chịu khó lai tạo được bê lai nhất là bê cái có thể thu về được vài chục triệu đồng hơn hẳn nuôi lợn mà lại nhàn hạ. Với cách chăn nuôi bán thâm canh như vậy liên tục những năm qua đàn bò của tỉnh luôn ổn định từ 130-170 ngàn con. Nếu năm 2006 tổng đàn bò của tỉnh có tới gần 130 ngàn con, sản lượng thịt hơi mới đưa giết mổ đạt 1.752 tấn thì năm 2009 tuy tổng đàn giảm xuống còn gần 128 ngàn con nhưng sản lượng thịt bò hơi tăng lên 5.110 ngàn tấn. So sánh số liệu trong 5 năm qua cho thấy xu thế chăn nuôi bò lấy thịt đang trở thành phổ biến và có nhu cầu tăng mạnh kích thích chăn nuôi bò phát triển. Cùng với số lượng trong 5 năm qua, chất lượng đàn bò của tỉnh được cải thiện rõ rệt. Năm 2006 số lượng bò lai sind có 18.740/ gần 130 ngàn con chiếm tỷ lệ trên 15% tổng đàn, thì đến năm 2009 tỷ lệ đó là 51.231/ 128 ngàn, chiếm tỷ lệ trên 40% tổng đàn. Có nhiều địa phương tỷ lệ bò lai sind đã đạt trên 50% như Lâm Thao thống kê 1-10-2010 có số lượng đàn bò gần 7.100 con nhưng số lượng bò lai sind có tới 4.766 con, đạt tỷ lệ trên 65%, huyện Thanh Thủy cùng thời điểm đạt số lượng 5.085/8.559 con, bằng trên 60% tổng đàn… Đây là xu hướng tích cực, góp phần làm tăng trọng lượng bò nuôi và giải thích vì sao giai đoạn 2009-2010 số lượng đàn bò của tỉnh giảm hơn giai đoạn 2006-2007 nhưng sản lượng thịt hơi lại tăng từ 2.500 lên trên 4.500 tấn.

Đánh giá về các yếu tố làm thay đổi chất lượng chăn nuôi bò có mấy nguyên nhân. Trước hết là tỉnh đã có chính sách tác động kịp thời. Nhìn lại hơn chục năm qua do thấy được tiềm năng và lợi thế phát triển chăn nuôi bò nên Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã có những chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển cụ thể để thúc đẩy phong trào chăn nuôi bò phát triển. Cụ thể rõ nhất là các chính sách về hỗ trợ đàn bò đực giống lai sind để cải tạo đàn bò vàng địa phương. Thông qua nhiều chương trình, dự án mỗi năm tỉnh đã cung cấp về địa phương từ vài chục đến trên 100 bò đực có từ 50%-75% máu Dêbu làm đực giống để phối giống trực tiếp cải tạo đàn bò sẵn có. Chỉ tính từ năm 2008 trở lại đây mỗi năm đã có gần 100 bò đực giống được cung ứng cho địa phương làm bò đực giống.

Thực tế cho thấy với những nơi có đàn bò chăn thả tập trung, có từ 1-2 bò đực lai thì hầu hết đàn bò đều được lai tạo sản sinh ra bò lai. Nếu việc này kết hợp với đưa bò đực không có nhu cầu nuôi lại phục vụ cày kéo thì chỉ một thời gian nữa là các địa bàn cơ bản xóa hết bò đực giống địa phương. Ngoài ra còn đào tạo đội ngũ kỹ thuật dẫn tinh viên làm công việc phối giống trực tiếp bằng tinh viên đông lạnh. Bên cạnh đó, các chính sách về thú y về phát triển trồng cỏ làm thức ăn cũng tác động rất lớn đến chăn nuôi bò. Hầu hết các địa bàn đã có đội ngũ thú y được đào tạo cơ bản đủ khả năng phòng, trị bệnh thông thường cho đàn bò. Đặc biệt thông qua dự án chăn nuôi bò sữa giai đoạn 2000-2003 các địa phương đã đưa một số giống cỏ về trồng, đến nay đa số các hộ chăn nuôi bò đều đã trồng cỏ. Nhiều nơi bà con còn tận dụng đất cao hạn, bờ ao, góc vườn trồng cỏ tập trung làm thức ăn chăn nuôi bò thay cho việc chăn thả tự do, ngoài ra còn dùng thức ăn tinh từ cám bã nên chất lượng chăn nuôi tăng lên rất nhanh. Nếu trước đây một bò giống địa phương sau 12 tháng tuổi chỉ đạt trọng lượng 50-60kg, nay nhờ được cải tạo giống kết hợp với nuôi thâm canh thời gian nuôi trên dưới 1 năm tuổi cho trọng lượng trên 100kg.

Một nguyên nhân nữa là thị trường thực phẩm từ thịt bò tăng mạnh thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Qua khảo sát thị trường cho thấy nhu cầu sử dụng thịt bò làm thực phẩm hiện nay đã tăng lên đáng kể và cung không đủ cầu. Đây là dấu hiệu rất tốt thúc đẩy ngành chăn nuôi bò ở tỉnh ta phát triển. Để tiếp tục phát huy tiềm năng, lợi thế của ngành này trong thời gian tới cần tập trung làm tốt một số khâu sau đây.

Thứ nhất là tiếp tục đẩy mạnh khuyến khích phát triển thông qua chính sách hỗ trợ đưa nhập đàn bò đực giống về cải tạo đàn bò địa phương. Hiện nay tại địa bàn các huyện có tiềm năng về đồng cỏ, số lượng bò nuôi nhiều như Yên Lập, Thanh Sơn, Tân Sơn, Thanh Ba, Đoan Hùng… số lượng bò đực giống lai sind còn ít, thậm chí có nhiều xã chưa có bò đạt chuẩn có bò đực giống máu ngoại 50%-75% nên việc cải tạo đàn bò vẫn còn hạn chế, bê con sinh ra chỉ có tỷ lệ máu lai dưới 10%. Bò đực giống kém cộng với bò nái chưa được chọn lọc làm cho chất lượng bê con sinh ra không chuẩn, thời gian nuôi kéo dài trọng lượng thấp. Cùng với đó khuyến khích và tạo điều kiện để các hộ mở rộng diện tích trồng cỏ lấy thức ăn nuôi bò, đặc biệt các hộ nuôi quy mô lớn. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã có hàng ngàn trang trại nhưng chưa có trang trại nào chuyên nuôi bò, thời gian tới các địa phương cần nghiên cứu tạo điều kiện khuyến khích chuyển hướng từ nuôi trồng tổng hợp sang nuôi bò tập trung kết hợp trồng cỏ, làm hầm biôga vừa giải quyết chất đốt vừa đảm bảo cải thiện môi trường. Một vấn đề nữa là tập trung nâng cao năng lực dịch vụ thú y phục vụ chăn nuôi gồm các dịch vụ cung ứng thức ăn, thuốc, dịch vụ khám chữa, phòng bệnh, thụ tinh nhân tạo cho bò.

Thứ hai là nâng cao năng lực quản lý và điều tiết thị trường để tiếp tục tác động chăn nuôi bò phát triển. Xu hướng phát triển chăn nuôi bò, sử dụng thịt bò càng tăng đây là biện pháp cần được chú ý để vừa tạo điều kiện cho chăn nuôi bò tại địa bàn phát triển vừa đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng.

Quốc Vượng

Các tin chăn nuôi khác:

31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
29/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
27/12/2013
27/12/2013

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang