• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Thừa Thiên Huế: Phát triển chăn nuôi theo hướng hàng hoá - Không thể để nông dân “tự bơi”

Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế, 30/09/2010
Ngày cập nhật: 1/10/2010

Phát triển chăn nuôi theo hướng hàng hoá, an toàn dịch bệnh (ATDB) là định hướng của tỉnh Thừa Thiên Huế trong tiến trình hội nhập và góp phần xây dựng nông thôn mới. Để phát triển sản xuất chăn nuôi hàng hoá mang lại hiệu quả không thể để nông dân “tự bơi”, mà cần có một chính sách đầu tư thoả đáng.

Phát triển chăn nuôi theo mô hình trang trại - gia trại (TT – GT) gắn với ATDB là một hướng sản xuất chăn nuôi hàng hoá đang được ngành nông nghiệp quan tâm. Vài năm trở lại đây, trên địa bàn tỉnh xuất hiện một số TT - GT chăn nuôi gia súc, gia cầm mang lại hiệu quả kinh tế cao, như TT lợn của anh Nguyễn Phú Cường ở thôn Công Lương, xã Thuỷ Vân (Hương Thuỷ), TT của anh Trần Ngọc Mười ở xã Phú Mậu (Phú vang), TT gà của ông Trần Thiện Chương, TT gà của bà Trần Thị Tỵ ở vùng cát Quảng Điền… Tuy nhiên, việc đầu tư những TT trên chủ yếu phụ thuộc vào năng lực của các chủ TT, cả về tài chính lẫn kỹ thuật. Cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển TT chưa thoả đáng nên số lượng TT – GT chăn nuôi trên địa bàn tỉnh vẫn còn rất khiêm tốn, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá. Hằng năm, toàn tỉnh phải nhập thêm khoảng 40% sản phẩm để cung ứng nhu cầu tiêu thụ trên địa bàn tỉnh.

Những khó khăn

Ông Hồ Đăng Vang, TUV, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh cho rằng, khó khăn lớn nhất trong việc nâng cao số lượng và chất lượng gia súc, gia cầm là do nguồn giống chăn nuôi tại chỗ còn thiếu. Đến nay, lợn nái chỉ chiếm khoảng 15,5% tổng đàn; trong đó lợn nái ngoại có tỷ lệ nạc cao chỉ khoảng 5.000 con, còn lại chủ yếu là móng cái chưa qua chọn lọc nên chất lượng và năng suất sinh sản không cao. Toàn tỉnh hiện có khoảng 5 - 7 cơ sở thụ tinh nhân tạo quy mô nhỏ, số lượng chỉ khoảng 50 con; chỉ có một cơ sở sản xuất giống có hệ thống với quy mô 300 con lợn nái ngoại vừa mới đi vào hoạt động nên chưa đáp ứng nhu cầu chăn nuôi tại chỗ. Trong khi tập trung chăn nuôi lợn siêu nạc bằng phương thức công nghiệp, nhưng các địa phương chưa quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh thức ăn đảm bảo nhu cầu chăn nuôi. Toàn tỉnh hiện chỉ có vài cơ sở chế biến thức ăn tổng hợp, với công suất bình quân trên 600 tấn/năm không đáp ứng nhu cầu sản xuất. Phần lớn người dân phải nhập thức ăn từ các tỉnh khác với giá cao và khó kiểm soát chất lượng…

Ngành nông nghiệp và các địa phương cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao số lượng và chất lượng đàn lợn. Nhưng đến nay, số lượng lợn có tỷ lệ nạc từ 52% trở lên chỉ chiếm trên 10% so với tổng đàn khoảng 300 ngàn con. Nguyên nhân chính là do chính sách đầu tư nâng cao số lượng và chất lượng đàn lợn chưa được quan tâm đúng mức. Kinh phí đầu tư thấp là một trong những trở lực lớn trong chiến lược phát triển chăn nuôi nói chung. Những năm qua, mức đầu tư bình quân mỗi năm khoảng hơn một tỷ đồng, ngành chăn nuôi chỉ dừng lại ở việc thực hiện mô hình thí điểm, không thể chuyển giao và nhân rộng đến với người dân.

Chăn nuôi gia cầm theo mô hình TT - GT gắn với ATDB cũng đang được ngành nông nghiệp, bà con nông dân quan tâm. Tuy nhiên, đến nay toàn tỉnh mới có khoảng 350 hộ chăn nuôi gia cầm có quy mô GT từ 100 con trở lên; khoảng vài chục TT có quy mô từ 2.000 con trở lên. Trên địa bàn tỉnh chỉ có khoảng 42 cơ sở ấp nở gia cầm giống có công suất từ 11 ngàn - 14 ngàn con, chưa đáp ứng nguồn giống chăn nuôi tại chỗ… Do đầu tư chưa thoả đáng nên phần lớn hộ dân trên địa bàn tỉnh chủ yếu chăn nuôi theo phương thức nhỏ lẻ, tự phát… Những khó khăn trên khiến tỷ trọng ngành chăn nuôi của tỉnh, chỉ chiếm trên 30% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tỉnh (năm 2009).

Cần một chính sách đầu tư hợp lý

Trước thực trạng trên, việc đầu tư chăn nuôi theo mô hình TT - GT và theo hướng sản xuất hàng hoá cần có một chính sách đầu tư hợp lý. Những năm gần đây, tỉnh và ngành nông nghiệp cũng đã quan tâm và có chính sách đầu tư, hỗ trợ trong việc phát triển mô hình kinh tế TT - GT. Trao đổi với chúng tôi, hầu hết các chủ TT đều cho biết, họ luôn được chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng hết sức tạo điều kiện cấp đất, cho vay vốn đầu tư sản xuất. Đặc biệt, tại vùng cát Quảng Vinh còn được đầu tư hệ thống điện lưới quốc gia nhằm thu hút và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân làm TT... Tuy nhiên, theo các chủ TT thì mức cho vay chỉ từ vài chục triệu đến vài trăm triệu đồng chưa tương xứng với yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá lớn. Riêng TT bà Trần Thị Tỵ ở vùng cát Quảng Vinh có mức đầu tư trên 1,5 tỷ đồng, nhưng chỉ được vay khoảng 400 triệu đồng. Việc cấp đất sản xuất nhưng không hoàn chậm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã gây trở ngại trong việc vay vốn đối với các chủ TT. Hệ thống giao thông đi lại tại vùng quy hoạch phát triển TT chưa được quan tâm đầu tư đúng mức nên việc tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn...

Mô hình kinh tế TT - GT chăn nuôi đã thật sự khẳng định hiệu quả. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nhân rộng nhằm hướng tới phát triển sản xuất hàng hoá lớn, góp phần nâng cao tỷ trọng ngành chăn nuôi của tỉnh. Ngành nông nghiệp đã và đang phối hợp với các địa phương tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân chuyển đổi phương thức chăn nuôi truyền thống nhỏ lẻ sang chăn nuôi theo quy mô TT - GT gắn với ATDB. Theo đó, đề xuất tỉnh, các Bộ ngành liên quan có chính sách đầu tư, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ cá nhân vay vốn đầu tư sản xuất một cách thoả đáng. Theo anh Trần Thiện Chương, bà Trần Thị Tỵ... với một TT có quy mô từ 1 tỷ đến vài tỷ đồng, thì mức cho vay khoảng 500 triệu đến 1 tỷ đồng là phù hợp. Riêng đối với các hộ chăn nuôi GT thì mức cho vay thấp hơn, song cũng cần tương xứng với quy mô sản xuất. Việc cấp đất sản xuất cần quan tâm tạo điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để được thế chấp vay vốn ngân hàng.

Cũng theo đề xuất của các chủ TT, tại các vùng quy hoạch phát triển TT như ở đồi Cồn Vang (Hương Trà), vùng cát Quảng Vinh (Quảng Điền), vùng đồi Bình Thành, Bình Điền (Hương Trà)... cần được đầu tư xây dựng hệ thống giao thông hoàn thiện nhằm phục vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm một cách thuận lợi. Phần lớn nông dân hiện nay vẫn chưa tiếp cận và nắm vững các quy trình sản xuất mô hình kinh tế TT - GT gắn với ATDB. Ngành nông nghiệp, các địa phương cần chọn các mô hình TT hiệu quả, đồng thời có cơ chế, chính sách tổ chức tham quan, chuyển giao kỹ thuật sản xuất cho người dân; quan tâm chính sách đầu tư xây dựng mô hình thí điểm và nhân rộng. Các chủ TT, ban ngành liên quan cũng cần liên kết với các doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm một cách thuận lợi. Để sản phẩm có chỗ đứng ổn định, đáp ứng yêu cầu thị trường, việc chấp hành quy định sản xuất an toàn và xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu cũng là điều hết sức cần thiết.

Mục tiêu của tỉnh đến cuối năm 2010, nâng tỷ trọng sản xuất chăn nuôi từ 27% (2008) lên 40 - 45%; đến năm 2015 nâng lên 50% trong tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Chủ động kiểm soát và khống chế dịch bệnh trên đàn GSGC. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi trong việc phát triển, nhân rộng mô hình kinh tế TT trên địa bàn tỉnh, nhằm hình thành vùng sản xuất hàng hoá lớn, tạo chuyển biến mạnh trong sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa.

Hoàng Triều

Các tin chăn nuôi khác:

31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
29/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
27/12/2013
27/12/2013

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang