• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Hưng Yên: Phát triển chăn nuôi nhìn từ khâu giống

Nguồn tin: Báo Hưng Yên, 05/07/2010
Ngày cập nhật: 7/7/2010

Dân gian có câu: “Tốt nái tốt một ổ, tốt đực tốt cả đàn”. Kinh nghiệm đó cho thấy khâu giống có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển, hiệu quả trong chăn nuôi. Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực tế sản xuất giống trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện còn gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến chăn nuôi, như số lượng không bảo đảm, chất lượng thấp, chưa chú trọng quy mô phát triển...

Nguồn giống khan hiếm

Do ảnh hưởng của dịch bệnh, thời gian qua, người chăn nuôi phải lao đao vì con giống khan hiếm, đẩy giá lên cao khiến nỗ lực khôi phục đàn gia súc, gia cầm bị ảnh hưởng. Tại huyện Văn Lâm, đàn lợn đang giảm mạnh, việc phát triển đàn lợn gặp khó khăn. Thế nhưng, đến nay, một chương trình sản xuất lợn giống đủ mạnh vẫn chưa được hình thành, và nhiều nông dân dù muốn nuôi nhưng đành để chuồng trống. Nguyên nhân là do người chăn nuôi gặp khó khăn trong việc phát triển đàn trở lại vì con giống quá hiếm. Hiện, giá lợn giống đã tăng lên gấp 2 lần so với năm trước. Chị Nguyễn Thị Thìn, xã Việt Hưng (Văn Lâm) cho biết: “Trước đây, muốn mua lợn giống chẳng khó khăn gì, cứ đến chợ thấy con nào to, khoẻ, lông mượt thì mua, hoặc bắt ngay của các hộ có lợn nái trong thôn. Bây giờ thì khác, rất ít gia đình mang lợn giống ra chợ bán, bởi thương lái đặt mua trước cả đàn rồi đem bán cho người chăn nuôi với giá cao hơn; nhiều khi gặp phải lợn còi cọc, xấu xí vẫn phải mua”.

Trong khi nguồn giống khan hiếm, người dân khó khăn trong việc tìm con giống để khôi phục đàn thì các trung tâm giống trên địa bàn tỉnh chưa đáp ứng được nguồn con giống cho người chăn nuôi. Thực tế cho thấy, tại Trung tâm giống gia súc Dân Tiến (Khoái Châu) hoạt động chưa như mong muốn. Đặc biệt, sau cổ phần hoá, việc sản xuất con giống, lai tạo con giống mới còn nhiều hạn chế, thậm chí trung tâm phải nhập con giống từ các cơ sở khác về nuôi. Hiện nay, hầu hết hoạt động của trung tâm tập trung chăn nuôi lợn thịt, nguồn giống sản xuất ra cũng chỉ đáp ứng nhu cầu tại chỗ, hoạt động cung ứng con giống cho người nuôi trên địa bàn tỉnh gần như không có.

Chất lượng con giống chưa đáp ứng yêu cầu

Thời gian qua, hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn (còn gọi là bệnh tai xanh) xảy ra trên địa bàn tỉnh khiến lợn ốm, chết hàng loạt, đặc biệt, đàn lợn nái giảm đáng kể. Sau dịch, lợn giống trở nên khan hiếm nên giá tăng đến 50 - 60%. Các hộ chăn nuôi quy mô trang trại còn tự chủ được nguồn giống, với hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, điều này thực sự không dễ dàng. Trong thời điểm khan hiếm con giống như hiện nay, chọn được con giống đạt yêu cầu về trọng lượng, dáng vóc đã khó nói gì đến phẩm cấp, nguồn gốc bố mẹ ra sao. Ông Nguyễn Đình Tưởng, trưởng phòng chăn nuôi (Sở Nông nghiệp và PTNT) nhận định, ngoài nguyên nhân từ bệnh tai xanh còn do trên địa bàn tỉnh chưa có cơ sở giống bảo đảm chất lượng. Hiện, nhu cầu về giống của người chăn nuôi khoảng từ 400.000 đến 500.000 con/năm, trong khi tỉnh chỉ có 1 trung tâm giống và 1 trung tâm truyền tinh nhân tạo lợn sản xuất giống lợn hướng nạc. Số lợn giống mà các cơ sở trên cung ứng được khoảng 100.000 con/năm. Mặt khác, số liều tinh lợn ngoại chất lượng cao mà các cơ sở truyền giống sản xuất mới đáp ứng khoảng 40% nhu cầu, còn lại được nhân giống từ đàn lợn nuôi tự do trong dân. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng bệnh, khai thác giống không theo đúng quy trình kỹ thuật nên chất lượng truyền giống kém.

Tương tự như đàn lợn, chất lượng bò giống trên địa bàn tỉnh cũng còn nhiều vấn đề phải bàn. Thực tế cho thấy, bò lai sind có ưu thế hơn hẳn bò vàng địa phương. Tuy nhiên, việc nhân rộng đàn bò lai dù đã thực hiện nhiều năm nhưng vẫn không cho kết quả như mong muốn. Nguyên nhân do số liều tinh bò lai thụ tinh nhân tạo chỉ dừng ở mức khoảng 5.000 liều/năm, đáp ứng 70% nhu cầu, phần còn lại được nhân giống từ đàn bò cóc địa phương. Trong khi đó, bê lai sind ra đời hầu hết được bán làm bò thịt, ít hộ giữ lại để thay thế bò cóc. Theo số liệu của Sở Nông nghiệp và PTNT, trong năm 2009, toàn tỉnh triển khai thực hiện lai tạo được 2.742 con lợn nái và 30.000 con lợn thịt. Chương trình sind hoá đàn bò thực hiện lai tạo được 12.000 con bê lai, đưa tổng số bò lai sind trên địa bàn tỉnh đạt 92% tổng đàn, trong đó bò lai sind Brahman đạt 5%. Thực hiện kế hoạch giám định bình tuyển đàn lợn giống ngoại, toàn tỉnh thực hiện được gần 10.000 con lợn nái ngoại ở các trang trại và 200 lợn đực giống ngoại. Giám định được 80 con bò đực sind, lai sind, Brahman thuộc chương trình sind hoá đàn bò; giám định bình tuyển được 650 con bò sữa. Qua giám định bình tuyển số lượng đàn gia súc nêu trên, nhìn chung chất lượng con giống đạt khá, đàn lợn giống đạt tiêu chuẩn chiếm trên 95%, đàn bò đạt 100%, đàn bò sữa đạt tỷ lệ 92%.

Cần giải pháp đồng bộ

Theo đánh giá của một số cán bộ chuyên môn, để có giống vật nuôi tốt, cần thiết phải có một giải pháp chặt chẽ hơn. Trong mục tiêu phát triển lĩnh vực chăn nuôi đến năm 2020, tỉnh và các ngành, địa phương tiếp tục triển khai các nội dung của chương trình giống và nuôi giữ giống gốc, bảo đảm đến năm 2015, có trên 70% con giống đã được chọn lọc và đánh giá bình tuyển. Để đạt mục tiêu trên, về giống bò, cần triển khai trên diện rộng chương trình cải tiến, nâng cao tầm vóc đàn bò theo hướng sind hoá trên cơ sở phát triển nhanh mạng lưới thụ tinh nhân tạo phục vụ nhân giống và sử dụng bò đực giống đã qua chọn lọc ở những nơi chưa có điều kiện làm thụ tinh nhân tạo; chọn lọc và nhập nội một số giống bò có khả năng thích nghi với điều kiện sinh thái của tỉnh để tạo đàn phục vụ cho lai tạo giống bò sữa và bò thịt chất lượng cao; nhân thuần các giống bò lai Brahman, bò sữa cao sản nhập nội đã thích nghi với điều kiện chăn nuôi trong nước; khuyến khích bảo tồn và phát triển các giống bò địa phương... nhằm từng bước nâng cao chất lượng các giống bò và tăng cường độ đa dạng sinh học.

Đối với các giống vật nuôi khác, cần chọn lọc trong sản xuất tạo đàn cái nền và đực giống tốt, thực hiện giải pháp đảo đực giống giữa các vùng; quản lý giống lợn, gia cầm theo hình tháp gắn với từng vùng sản xuất, thương hiệu sản phẩm; chọn lọc, cải tiến, nâng cao năng suất, chất lượng các giống lợn, gia cầm địa phương có nguồn gien quý; nhập nội các giống lợn, gia cầm cao sản; xây dựng và sử dụng các công thức lai giống phù hợp.

Mở rộng mạng lưới và tiêu chuẩn hoá các cơ sở, chất lượng đực giống của hệ thống thụ tinh nhân tạo lợn. Cần tổ chức đánh giá bình tuyển, loại thải lợn đực giống kém chất lượng trong sản xuất. Về kỹ thuật nuôi, các cơ sở phải có chuồng trại được quy hoạch khoa học, thiết kế phù hợp với các điều kiện sinh trưởng, phát triển của vật nuôi; nhất thiết phải có hệ thống vệ sinh phòng dịch thú y và xử lý môi trường. Đối với các cơ sở chăn nuôi trang trại, công nghiệp, cần áp dụng công nghệ tự động hoá từng khâu và toàn bộ quá trình sản xuất; các cơ sở chăn nuôi phải có sổ sách theo dõi quản lý, lưu giữ số liệu về giống, thuốc thú y và dịch bệnh; áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý; cơ sở giống nhất thiết phải có sổ theo dõi, phần mềm tin học quản lý được các cơ quan chức năng công nhận.

Đào Ban

Các tin chăn nuôi khác:

31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
29/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
27/12/2013
27/12/2013

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang