• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Nuôi lợn rừng: Những lầm tưởng về con giống, thức ăn, chuồng trại

Nguồn tin: Nông Nghiệp Việt Nam, 12/02/2009
Ngày cập nhật: 16/2/2009

Nuôi lợn rừng đang là nghề hấp dẫn hiện nay nhưng với kiểu “nháo nhào nuôi”, với những ngộ nhận ngây thơ như lợn gì lông đen, lông luôm nhuôm, thân dài cũng… là lợn rừng, rồi quan niệm lợn rừng dễ tính, cho ăn, chuồng trại kiểu gì cũng xong chẳng chóng thì chầy sẽ khiến người nuôi rơi vào vòng thua lỗ. Hoa mắt bởi giống

Hiện nay nhiều nơi nuôi lợn rừng thuần Việt Nam, Thái Lan và các con lai giữa những giống này với các giống lợn khác. Nhìn chung là dễ nuôi, thịt là đặc sản. Tuy nhiên trong quá trình nuôi, các nhà chăn nuôi cũng mắc phải nhiều khó khăn, trong đó có việc phân biệt giống. Đây chính là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công hay không đối với người nuôi.

Sau 2 năm thực hiện đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật nhân, nuôi và phát triển một số loài động vật rừng có giá trị kinh tế” được Bộ NN & PTNT giao, TS Võ Văn Sự, Trưởng Bộ môn Động vật quý hiếm và đa dạng sinh học – Viện Chăn nuôi cho biết hiện nay ở nước ta đang có các giống lợn rừng và lợn rừng lai như sau: Lợn rừng Thái Lan mặt dài (LRTL); lợn rừng Việt Nam (LRVN); lợn rừng lai. Riêng về lợn rừng lai cũng có vô vàn kiểu như con lai giữa LRTL / LRVN với các giống lợn đen vùng núi Việt Nam (như lợn Vân Pa, lợn sóc Tây Nguyên, lợn đen Mường Lay, lợn Mường Khương...

Loại khác: Lợn rừng lai từ Trung Quốc nhập về; con lai giữa LRTL x lợn ỉ. Do rất đa dạng như vậy nên để phân biệt lợn rừng thật và con lai, thường phải căn cứ vào 3 yếu tố sau: ngoại hình (lông, màu, vóc dáng), lỗ chân lông và quan trọng hơn là lý lịch giống.

Về ngoại hình

Lợn rừng Thái Lan:

Được nhập vào miền Nam cách đây 5-6 năm. Lúc mới đẻ, lợn con bộ lông nâu đen với 6 sọc vàng dọc thân. Các sọc này to đều, tương đối liền nét, rõ. Đó là dấu hiệu rõ nhất cho lợn rừng. Các sọc này sẽ phai dần và khoảng đến 3-4 tháng tuổi sẽ mất hẳn. Lợn hậu bị đã có vạt lông bạc trắng trên má, lông sống lưng từ cổ vai đến giữa lưng có màu đậm hơn, đoạn chân liền với móng có màu đen. Lợn rừng Thái Lan trưởng thành: ngoài các đặc điểm của lợn hậu bị, còn có các đặc điểm khá nổi bật là: thân hình mảnh mai, chân cao, lông bờm dài, màu lông vàng – xám, lưng phẳng, bụng không sệ, tai bé, thẳng, mặt dài, mõm nhọn. Lợn già còn có răng nanh to. Lợn đực giống: dương vật bé, cà không to như các giống lợn trắng công nghiệp.

Đây là giống lợn được khuyến khích nuôi, vì tương đối thuần. Tuy nhiên cũng có nhiều con hung dữ, đẻ ở bụi rậm, hoặc tự làm chuồng. TS Sự lưu ý việc nhập khẩu lợn từ Thái Lan: “Người Thái Lan đã bắt đầu nuôi lợn rừng và con lai trước đây khoảng 10-15 năm, và trên nhiều nơi, việc nhân giống cũng chưa theo quy chuẩn nào về giống. Vì thế các nhà nhập khẩu cần phải hết sức lưu ý tránh nhập con lai”. Ngoài ra ở Thái còn có nhóm được gọi là lợn rừng Thái mặt ngắn, màu đen, thân to, có bờm, trông giống như một số giống lợn to con tại vùng núi phía Bắc như lợn Mường Nhé (Điện Biên), Lợn Lũng Pù (Hà Giang), lợn Táp Ná (Cao Bằng). Theo TS Sự lợn rừng Thái mặt ngắn là con của lợn rừng Thái với các giống lợn đen vùng núi Thái Lan.

Lợn rừng Việt Nam:

Khá giống với lợn rừng Thái Lan, tuy nhiên mảnh mai và dữ tợn hơn. Con đực dễ thuần hơn con cái. Nhiều người đã tự thuần hoá, tuy nhiên chết rất nhiều. Cho đến nay khoảng 20 con đực được thuần hoá, sử dụng phối giống với các loại lợn khác. Còn lợn cái đến nay Viện Chăn nuôi mới thuần hoá và cho sinh sản một con cái duy nhất. TS Sự không khuyến khích nuôi lợn này, vì rất khó.

Lợn rừng lai:

Con lai giữa LRTL hoặc LRVN với các giống lợn đen vùng núi Việt Nam như lợn Vân Pa (Quảng Trị), lợn sóc Tây Nguyên, lợn đen vùng Bù Đăng, Bù Đốp (Bình Phước), lợn đen Mường Lay, lợn Mường Khương. Các con lai loại này thường thấy ở các vùng núi nước ta do người dân thả rông lợn nhà vào rừng và giao phối với lợn rừng. Hiện nay nhiều người chăn nuôi cũng dùng lợn rừng thuần lai với các giống lợn miền núi đen nói trên. Đặc điểm của các loại này là, trong một ổ có con giống lợn rừng – cũng có vạch sọc dưa đen – vàng, tuy nhiên màu sắc các sọc không rõ rệt, và có con lại giống lợn nhà - đen tuyền.

Con lai giữa LRTL hoặc LRVN với giống lợn khác như Móng Cái, lợn lai Yorkshire, Duroc, Petrain... Con lai loại này thường thấy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở miền Nam. Lợn cái thường là các loại lợn lang trắng đen – có “máu” lợn công nghiệp hoặc lợn Móng Cái. Đặc điểm chính của con lai này là lông khác đa dạng, không phát triển các sọc dưa mà bù lại nó có các vệt loang vàng – nâu với màu sắc không tương phản. Khi trưởng thành các con lai này cũng phân ly khá nhiều kiểu. Ngoài hai nhóm lợn rừng lai nói trên còn có lợn lai giữa lợn rừng Thái Lan với lợn ỉ (Viện Chăn Nuôi thí nghiệm). Đặc điểm là lúc đẻ ra sọc dưa lờ mờ. Lợn rừng lai từ TQ nhập về: Loại lợn này màu nâu hung, tím, đôi lúc có vết đen, cổ chân trắng.

Một “sai lầm chết người” mà nhiều chủ trang trại cũng như người tiêu dùng lầm tưởng là hễ có ba lông chụm một là chắc chắn lợn rừng. Thực tế, không những lợn rừng mà các giống lợn đen miền núi như lợn Vân Pa – Quảng Trị, lợn sóc Tây Nguyên, lợn đen vùng Bù Đăng, Bù Đốp (Bình Phước) cũng có lông như thế, thậm chí rất nhiều. Vì thế ngoài đặc điểm ngoại hình việc xăm xoi lý lịch là rất quan trọng. Cách tốt nhất là xem cả ổ đẻ ra như thế nào.

Theo TS. Võ Văn Sự - Trưởng Bộ môn Động vật quý hiếm và ĐDSH - Viện Chăn nuôi, định hướng chung của việc nuôi lợn rừng là: trang trại, bán hoang dã, hữu cơ, quản lý theo công nghiệp và bảo vệ môi trường xanh, sạch.

TS Sự kể với tôi những chuyện cười ra nước mắt khi nhiều người chăn nuôi ngộ nhận lợn rừng cái gì cũng ăn nên cho ăn rất ít, toàn rau xanh khiến lợn còi cọc, thiếu chất hoặc ngược lại cho ăn thái quá chất tinh bột khiến lợn béo phì. Cho rằng lợn sống ở rừng thì chẳng cần lo chuyện bẩn sạch nên để chuồng trại rất bẩn. Rồi đủ thứ ngộ nhận khác như không cần lo phòng tránh bệnh vì lợn rừng rất khoẻ…

Về cách thức nuôi nhốt có thể chia làm 3 dạng gồm: Dạng 1: chuồng đơn giản, ra vào tự do kết hợp với vườn chăn thả lớn, như trang trại của Cty Khánh Gia, trại Xương Giang (Bắc Giang). Dạng 2: Chuồng đơn giản kết hợp với sân chơi bé. Có thể thấy hệ thống này tại trại ông Bảy Dũng (Bình Phước), ông Đông (Phú Yên), ông Nguyên (Nha Trang). Dạng 3: Nuôi nhốt hoàn toàn trong chuồng xi măng như thể lợn địa phương. Yêu cầu chung về khu chăn nuôi lợn rừng phải rộng rãi, thoáng mát, không ẩm ướt, tốt nhất nên là sườn đồi có nhiều cây xanh, bóng mát và xung quanh nên được rào cẩn thận bằng gạch hoặc lưới sắt B40 (cao khoảng 1,5m). Khu chăn nuôi phải được chia thành từng ô nhỏ để nuôi các đối tượng khác nhau như: lợn chửa, lợn đẻ, lợn con, lợn hậu bị, và lợn đực cần được nhốt riêng để tiện chăm sóc, nuôi dưỡng đảm bảo đủ nhu cầu sinh trưởng và phát triển của lợn.

Khu chăn nuôi cần được thiết kế liên hoàn, có đường liên thông nối các ô để tiện việc di chuyển lợn. Cụ thể trong mỗi khu chăn nuôi nên có chuồng với diện tích đủ rộng, ít nhất là 2m2/con, xung quanh phải thoáng mát, không ẩm ướt, ấm về mùa đông, nền chuồng phải cao hơn mặt đất khoảng 30 cm. Nền chuồng có thể làm bằng xi măng để dễ quét dọn, vệ sinh chuồng trại, đồng thời bổ sung rơm rạ cho lợn ủ ấm vào mùa đông. Chuồng nên có cửa để có thể nhốt lợn khi thời tiết quá khắc nghiệt. Sân chơi phải được để diện tích rộng nhất có thể, ít nhất là 5m2/con. Ở sân chơi có chỗ cho lợn ăn, đằm tắm. Hệ thống tắm có thể làm bằng vòi phun nước trực tiếp hoặc xây bể nhỏ. Thả tự do, trừ trường hợp đặc biệt phải nhốt.

Về phân nhóm nuôi nhốt, tại các trang trại miền Bắc, theo hướng dẫn của Bộ môn, lợn được phân thành nhóm theo sinh lý, sinh trưởng như thể lợn công nghiệp để nuôi dưỡng phù hợp. Ở phía Nam một vài trại nhỏ cũng làm như thế nhưng nhiều trại lớn lại nuôi kiểu bầy cả bố, mẹ, con cái vào một chỗ. Họ cho rằng đó là “tự nhiên”. Nuôi thế dễ bị hiện tượng lợn lớn ăn tranh khẩu phần lợn nhỏ, khẩu phần không phù hợp với từng loại, rất khó theo dõi để chọn lọc, lấy giống cá thể vượt trội và đặc biệt lợn con dễ bị con lớn cắn chết. Về theo dõi năng suất, chọn lọc trong 25 trang trại, chủ hộ nuôi chỉ có 8 trại có đeo tai, theo dõi lý lịch. Như vậy việc phối giống tránh đồng huyết, chọn lọc nâng cao năng suất sẽ khó khăn. Lợn rừng nói chung do không được chọn lọc nên năng suất khá dao động, như số con đẻ ra chẳng hạn từ 2-9 con.

Một vấn đề rất quan trọng mà người nuôi lợn rừng lưu ý là thức ăn. Lợn rừng ăn rất tạp nhưng không phải cái gì chúng cũng ăn và cái gì ăn cũng giúp chúng đầy đủ dưỡng chất và tăng trọng. Chủ yếu dùng thức ăn thô xanh và thức ăn tinh, lợn được cho ăn tự do 2 bữa/ngày vào buổi sáng và buổi chiều. Khẩu phần ăn cho từng đối lượng lợn sẽ khác nhau: Lợn đực giống: 3.000 kcal/kg; lợn nái sinh sản: 2.800 - 2.900 kcal/kg; lợn nái nuôi con: 3.000 kcal/kg. Cần đặc biệt lưu ý đối với lợn nái nuôi con luôn luôn phải đảm bảo cung cấp đầy đủ thức ăn thô xanh cũng như thức ăn tinh để có đủ sữa nuôi con. Trong trường hợp thức ăn thô xanh không đảm bảo chất lượng và số lượng, chúng ta có thể bổ sung cám, thậm chí là cám tổng hợp cho lợn. Đối với lợn con cai sữa: cần cho ăn thức ăn đảm bảo chất lượng, và cho ăn tăng dần theo tuổi. Đối với lợn đực: dùng để phối giống cần được cho ăn bồi dưỡng thêm như lợn nuôi bình thường. Đối với các loại khác như lợn thịt, hậu bị... cần tăng cường cho ăn rau xanh, củ quả các loại, thậm chí các cây thuốc để tăng chất lượng thịt, hướng tới lợn thịt rừng “hương thảo”. Lợn rừng tận dụng rất tốt nguồn cây củ quả và rất tạp ăn – đó là yếu tố để giảm giá thành.

Công tác thú y phải lấy phòng bệnh là chính, nên cách ly khỏi đàn vật nuôi khác, khu dân cư và các phương tiện có thể mang bệnh. Trong điều kiện nuôi nhốt lợn rừng thường mắc bệnh tiêu chảy, nếu vậy cần xem lại chế độ ăn, điều chỉnh cho hợp lý. Với các bệnh khác, chỉ cần điều trị bình thường. Không nên nuôi chung với các vật nuôi khác để tránh bệnh tật. Việc phối giống theo phương pháp tự nhiên. Lợn đực cần được nuôi nhốt riêng, thời điểm cần phối giống thì dẫn lợn cái vào chuồng và sau khi phối giống thành công thì đưa lợn cái ra. Tất cả lợn phải được đánh số tai như lợn công nghiệp. Theo dõi, ghi chép sổ sách đầy đủ cho từng cá thể. Có thể quản lý đàn bằng phần mềm Vietpig để thuận tiện cho việc chọn lọc và tránh cận huyết giữa các đàn. Công tác chọn lọc, cần chọn lọc kỹ nhằm hướng tới tăng số lượng con, chọn lọc để đảm bảo các đặc điểm thích nghi của lợn rừng.

DƯƠNG ĐÌNH TƯỜNG

Các tin chăn nuôi khác:

31/12/2013
31/12/2013
31/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
30/12/2013
29/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
28/12/2013
27/12/2013
27/12/2013

 

Các tin năm 2014

Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang