• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Cần phát huy thế mạnh giống cây ăn quả bản địa ở Nam bộ

Nguồn tin: Kiên Giang, 16/09/2009
Ngày cập nhật: 17/9/2009

Các nhà khoa học cho rằng, thời điểm hiện nay, vùng Nam bộ nói chung và ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng, chưa có giống cây ăn quả nhập nội nào vượt trội hơn giống bản địa về chất lượng. Nhưng do diện tích trồng manh mún và khó nhân rộng, công tác lai tạo giống bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, trong khi đây là khâu đột phá để nhân rộng diện tích.

Khắc phục yếu kém về giống

Hiện nay, diện tích cây ăn quả (CAQ) ở Nam bộ tăng nhanh, riêng toàn vùng ĐBSCL hiện có khoảng 355.000 ha trồng cây ăn trái. Trong đó, diện tích trồng CAQ bản địa chiếm 70 - 80% so với giống cây nhập nội, nhưng diện tích trồng manh mún, chưa phân bố đều ở các địa phương. Thêm vào đó, công tác lai tạo giống chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của diện tích trồng toàn vùng. Hơn 15 năm thành lập, Viện Nghiên cứu CAQ miền Nam đã tiến hành thu thập giống CAQ bản địa, lai tạo, bình tuyển, phục tráng các giống cây... Đến nay, Viện được Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn công nhận 6 giống CAQ và 33 cây đầu dòng của hầu hết các chủng loại đang trồng phổ biến ở Nam bộ.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Châu, Viện trưởng Viện nghiên cứu CAQ miền Nam, cho biết: “Những loại trái cây đặc sản như: sầu riêng Ri6, 9 Hóa, xuồng cơm vàng, thanh long, măng cụt... tại ĐBSCL còn trụ vững 10 - 15 năm nữa, bởi công tác lai tạo giống mới tốn nhiều thời gian và để có cây giống ngon, chất lượng cao hơn giống bản địa phải mất 18 - 20 năm”. Cũng theo Tiến sĩ Nguyễn Minh Châu, ở một số nước như: Nhật, Malaixia, Thái Lan, Trung Quốc thời gian lai tạo giống CAQ cũng mất 18 - 20 năm. Hiện nay, một số loại trái cây xuất khẩu của những quốc gia này đều là giống bản địa. Tại những quốc gia này, công tác giống được thực hiện rất bài bản, chỉ có một Viện nghiên cứu và dưới viện là các trung tâm trực thuộc, chịu trách nhiệm nghiên cứu từng loại giống cụ thể. Còn tại Việt Nam có đến 2 viện nghiên cứu và việc phê duyệt đề tài lai tạo giống CAQ quá ngắn (5 năm) trong khi chương trình lai tạo cần 18 - 20 năm để ra giống mới.

Mặt khác, bản quyền nghiên cứu cũng chưa được tôn trọng và kiểm soát chặt chẽ nên không khuyến khích nhà tạo giống. Chẳng hạn như giống thanh long ruột đỏ Long Định 1, Viện Nghiên cứu CAQ miền Nam mất 11 năm dài thu thập cây đầu dòng, lai tạo, bình tuyển giống và đến khi được Bộ NN & PTNT công nhận giống tạm thời (năm 2005) thì giống đã được trồng đại trà trong dân.

Làm thế nào để trái cây Việt Nam nói chung, ĐBSCL nói riêng phát triển ổn định và bền vững? Tiến sĩ Nguyễn Minh Châu, Viện trưởng Viện Nghiên cứu CAQ miền Nam cho rằng, cần phải giải quyết từ gốc: Công tác lai tạo, chọn giống và qui hoạch vùng trồng, đồng thời hỗ trợ nhà vườn trong sản xuất theo tiêu chuẩn GAP, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường khó tính. Theo Tiến sĩ Nguyễn Minh Châu, nguồn kinh phí Nhà nước cấp cho công tác nghiên cứu giống thời gian qua không đáp ứng nhu cầu. Viện cần được cấp 2 - 3 tỉ đồng/năm trong ít nhất 10 năm thì mới ổn định công việc lai tạo giống đến năm 2020. Nguồn kinh phí này để thực hiện đề tài nghiên cứu cải tiến một vài đặc tính của giống bản địa đặc sản chất lượng cao như: vỏ mỏng (xoài cát Hòa Lộc), nhiều hạt (quýt, cam sành), sầu riêng mẫn cảm với bệnh hại... Tại ĐBSCL cần phát triển những loại đặc sản như: xoài, nhãn, chôm chôm, cây có múi (cam, bưởi, quýt), thanh long, dứa Queen, dứa Cayenne, chuối. Để phát triển, Bộ NN & PTNT cần ưu tiên kinh phí thực hiện cho vùng, còn đối với một số loại như vú sữa, sơ ri (trồng ở Tiền Giang)... có thể tỉnh sẽ đầu tư.

Liên kết tạo dựng thương hiệu

Từ đầu năm 2009 đến nay, Việt Nam xuất khẩu CAQ đạt khoảng 270 triệu USD và nhập khẩu 160 triệu USD. Trái cây Việt Nam vẫn đang xuất siêu, nhưng do diện tích trồng manh mún, chưa có vùng nguyên liệu tập trung nên sản lượng chưa đáp ứng nhu cầu lớn của khách hàng. Theo tính toán của Viện nghiên cứu CAQ miền Nam, trong sản xuất, lưu thông trái thanh long, người nông dân chỉ được hưởng 3,75% trên giá trị sản phẩm, người đóng gói 5,71%, nhà xuất khẩu 8% và đến 80% là của người vận chuyển, nhà phân phối.

Mặt khác, giống sạch, chất lượng trên thị trường hiện không đáp ứng nhu cầu của nhà vườn, nhiều người trồng rồi chặt, không thu hoạch được trái do cây trồng được vài năm đã bệnh, héo rũ, nhất là cây có múi. Những bất cập này cũng làm nản lòng nhà vườn, nên điệp khúc “trồng rồi chặt” hay “mất mùa được giá” luôn nóng bỏng trong những năm gần đây ở ĐBSCL. Tại hội thảo “Tăng hiệu quả sản xuất trái cây” do Hội giống cây trồng Nam bộ tổ chức mới đây ở Tiền Giang, Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, Phó Chủ tịch Hội giống cây trồng Nam bộ, cho rằng: “Cần có đề tài nghiên cứu chuỗi ngành hàng và thương hiệu cho trái cây Việt Nam. Mặt khác, cần tôn vinh những người làm vườn có công phát hiện và gìn giữ những cây đầu dòng tổ tiên đặc sản. Tăng cường liên kết “4 nhà” đảm bảo cho người trồng cây ăn trái gắn bó chặt với mảnh vườn của mình. Trên cơ sở đó, qui hoạch vùng trồng, dựa vào lợi thế của từng địa phương để phát triển loại giống phù hợp. Tuy nhiên, các địa phương cần thống nhất các phương án liên kết để tạo ra vùng nguyên liệu rộng lớn, đáp ứng nhu cầu lớn của khách hàng”. Một số nhà khoa học cũng đồng tình với nhận xét của Tiến sĩ Lê Văn Bảnh và cho rằng, lâu nay công tác lai tạo giống chỉ phục vụ qui hoạch tổng thể chung mà chưa tính đúng, tính đủ và có đánh giá xác thực về đặc điểm sinh thái của từng tiểu vùng để chọn cây trồng phù hợp. Các nhà khoa học đã nêu quan điểm: Trái thanh long của Việt Nam đã xuất khẩu sang Mỹ, EU... và hiện được trồng ở Bình Thuận, Long An, Tiền Giang, nhưng vì sao 3 địa phương này không ngồi lại với nhau để tính toán, đưa ra qui trình sản xuất hợp lý. Khi đã có sự thống nhất chung thì việc xây dựng thương hiệu sẽ dễ dàng hơn, có thương hiệu, sản xuất đúng qui trình, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm là “giấy thông hành” để trái cây Việt Nam, ĐBSCL mới cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Do vậy, công tác lai tạo không chỉ là chuyện của nhà khoa học về CAQ mà phải có sự tham gia của nhà bảo vệ thực vật, địa chất, khí hậu... nhằm phục vụ cho sự phát triển diện tích CAQ cũng như xây dựng thương hiệu cho trái cây Việt Nam.

Hiện nay các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Hậu Giang và Thành phố Cần Thơ đang triển khai dự án nâng cao chất lượng 9 loại trái cây đặc sản gồm bưởi Năm Roi, bưởi da xanh, cam sành, xoài cát Hòa Lộc, sầu riêng cơm vàng hạt lép Chín Hóa, sầu riêng Ri 6, măng cụt, thanh long, vú sữa lò rèn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ đầu tư. Theo đó đến năm 2010, các tỉnh trên sẽ đưa diện tích 9 loại trái cây trên lên gần 80.000 ha, tăng hơn 25.000 ha so hiện nay. Mỗi tỉnh phát triển từ 1 đến 3 cây chủ lực. Để Khắc phục tình trạng thiếu giống, hàng trăm cơ sở tư nhân tại Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Tiền Giang đã được đặt hàng sản xuất giống đạt chuẩn sạch bệnh. Bước đầu, đã có khoảng 4000 nông dân trong vùng qui hoạch, được tập huấn chương trình IPM trên cây có múi do Cục Bảo vệ Thực vật tổ chức.

Các tin khác:

17/9/2009
17/9/2009
17/9/2009
17/9/2009
17/9/2009
17/9/2009
17/9/2009
17/9/2009
17/9/2009

 

Xem các tin năm 2014

Xem các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428

 

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang