• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

An Giang mùa nước nổi: khuyến khích nuôi tôm dưới chân ruộng, nuôi thủy sản lồng, đăng quầng, nuôi lươn, ếch đồng

Nguồn tin: SGGP, 20/08/2007
Ngày cập nhật: 21/8/2007

Sở NN-PTNT An Giang cho biết: Hiện nay, các địa phương khẩn trương triển khai nhiều mô hình sản xuất mùa nước nổi hiệu quả cao như: lúa vụ 3 khoảng 66.070 ha; rau màu 11.000 ha; nấm rơm 4.500 ha; nuôi thủy sản trên 8.000 ha; nuôi 315.000 con bò, heo, trâu… Theo đó, khuyến khích giảm lúa vụ 3, tăng diện tích nuôi tôm dưới chân ruộng, nuôi thủy sản lồng, đăng quầng, nuôi lươn, ếch đồng, trồng rau màu cao cấp… Đẩy mạnh phát triển ngành nghề, dịch vụ mùa nước nổi, tạo điều kiện cho lao động nghèo không đất sản xuất bắt ốc bươu vàng, chở đất mướn, khai thác thủy sản, gom lục bình làm thủ công mỹ nghệ, câu lưới, hái rau...

Mùa nước nổi năm 2006, An Giang triển khai 32 mô hình làm ăn, giải quyết việc làm cho gần 500.000 lao động; đạt giá trị sản xuất trên 1.331 tỷ đồng. Trong đó, ông Nguyễn Long Hồ, ấp Vĩnh Thới, xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành nuôi cá dưới chân ruộng, sau 4 tháng nuôi doanh thu đạt được 28 triệu đồng; ông Võ Vũ Đời, xã Tân Trung, huyện Phú Tân, chỉ có 1.000m2 nuôi cá lóc lãi 28 triệu đồng…


Tôm hùm chết hàng loạt tại Phú Yên

Nguồn tin: QĐND, 19/08/2007
Ngày cập nhật: 21/8/2007

Trong chuyến công tác tại tỉnh Phú Yên, chúng tôi được chứng kiến tôm hùmchết hàng loạt mà chưa rõ nguyên nhân. Huyện Sông Cầu là nơi có số tôm chết nhiều nhất, cũng là nơi nuôi tôm hùm nhiều nhất tỉnh với khoảng 10.000 lồng tôm (toàn tỉnh có khoảng 18.000 lồng tôm). Hiện chưa thống kê được mức độ thiệt hại của người dân nhưng theo Sở Thủy sản, con số thiệt hại lên tới hàng chục tỷ đồng.

Ông Võ Tiến ở thôn Phước Hậu, xã Xuân Thọ 1, huyện Sông Cầu cho biết: Gia đình ông đang rơi vào cảnh trắng tay với vụ tôm năm nay. Ngày cao điểm các lồng tôm của ông chết tới 60 con. Số tôm của ông Tiến đang trong thời kỳ sắp cho thu hoạch (khoảng 0,3-0,5kg/con), thiệt hại khoảng 120 triệu đồng. Tôm chết bán rẻ như cho với giá 5.000/con trong khi tôm sống đến thời kỳ thu hoạch đang được thương lái thu mua với giá 700-750 nghìn đồng/kg. Tôm hùm là loại hải sản chỉ có giá trị khi còn sống. Trên tất cả các thôn, xã ven biển của huyện Sông Cầu đều xảy ra hiện tượng tôm chết. Ông Tiến cho biết thêm: Thức ăn nuôi tôm hùm rất đắt, tôm hùm ăn phần lớn là sò và thức ăn tươi sống. Vì thế, các hộ dân nuôi tôm đang lâm vào cảnh lỗ nặng.

Các mẫu tôm chết đã được gửi đi xét nghiệm tại Viện Hải Dương học Nha Trang nhưng chưa có kết luận chính thức. Người dân ở Sông Cầu mỗi người nói một nguyên nhân khác nhau. Theo ông Tiến, có thể do ô nhiễm dầu tại các tỉnh miền Trung trong thời gian vừa qua mà Phú Yên là địa bàn bị ảnh hưởng nặng. Nhưng có ý kiến cho rằng tôm chết là do hiện tượng thủy triều đỏ. Riêng về phía Sở Thủy sản, sau khi xem xét tình hình thực tế đã ghi nhận, số tôm này bị nhiễm một loại nấm. Thực tế nơi đây cho thấy, môi trường nước có thể bị ô nhiễm do người dân phát triển nuôi tôm hùm ồ ạt, thiếu quy hoạch. Thức ăn cho tôm là dạng tươi sống, dễ làm môi trường ô nhiễm. Hơn nữa tôm bị bệnh không được chữa trị kịp thời có thể gây ra dịch.

Bà con nông dân làm nghề nuôi tôm hùm của Phú Yên đang trông chờ những giải pháp của các ngành chức năng để cứu lấy những con tôm còn lại và cứu nghề nuôi tôm hùm. Cùng với việc tìm ra nguyên nhân tôm chết thì cũng phải có giải pháp ngăn chặn dịch lan sang các địa bàn khác. Về lâu dài, việc nuôi tôm hùm cũng như các ngành chăn nuôi khác, phải có quy hoạch để tránh rủi ro.

SƠN ĐÔNG


Lối ra nào cho thủy sản đồng bằng sông Hồng?

Nguồn tin: ND, 20/8/2007
Ngày cập nhật: 21/8/2007

Các tỉnh, thành phố đồng bằng sông Hồng (ÐBSH) là khu vực thuận lợi trong giao thương, có nhiều tiềm năng để phát triển sản xuất thủy sản hàng hóa. Với vùng duyên hải trải dài hàng trăm km, nhiều khu trũng thấp nhiễm mặn và đồng muối sản xuất kém hiệu quả đang chuyển mạnh sang nuôi trồng thủy sản (NTTS). Ðịa phương không có biển thì cải tạo những ruộng lúa trũng thành ao, đầm NTTS nước ngọt.

Tôm, cá "lên ngôi"

Hơn bốn năm về trước, gia đình anh Ðỗ Thanh Dân, thôn Thượng Sơn, xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ (Hải Dương) là một trong những hộ đầu tiên dời nhà ra ở lều trên vùng ruộng trũng của nhà và đấu thầu của xã. Anh Dân mạnh dạn vay ngân hàng, bà con làng xóm hàng chục triệu đồng để đào ao nuôi cá. Hiện nay, bốn ao với hai mẫu mặt nước anh thả cá tra, rô phi đơn tính, chép lai. Cùng với nguồn thu từ chăn nuôi lợn, gà, hằng năm gia đình anh Dân cũng được hơn 80 triệu đồng lãi.

Nước da ngăm đen vì mưa nắng, tần tảo nơi ao đầm không làm phai lạt nụ cười thoải mái với khách của anh. Chúng tôi đang chuyện trò rôm rả thì chuông điện thoại di động reo lên. Anh nghe điện xong liền giải thích: Năm đầu, chỉ thả mấy con trắm, con chép thì đâu cần điện với đóm, chỉ bán trong xã là xong. Từ ngày nuôi mấy "anh" đặc sản và cung ứng giống cho bà con thì phải sắm cái di động cho nó tiện. Nhỡ một cái là mất ngay mối hàng trong huyện, ngoài tỉnh.

- Anh nuôi cá tra có khó không, đến vụ thu hoạch thì bán cho ai? - Tôi hỏi.

- Tôi nuôi cá tra ba năm rồi, đó là giống phàm ăn, mật độ thả dày, nuôi không khó, năng suất lại cao. Ngặt nỗi, lượng tiêu thụ không được nhiều, năm ngoái tôi bán hơn sáu tấn với giá 12.000 đồng/kg cho doanh nghiệp ở Hải Phòng, trừ chi phí giống, thức ăn cũng lãi được 30 triệu đồng.

Ðược biết, HTX thủy sản Tái Sơn có 20 xã viên cũng khai thác khá hiệu quả những vùng đất trũng, bãi triều mà trước đây khi chia ruộng không ai muốn nhận.

Tạm chia tay với những nông dân cần cù, sáng tạo ở Hải Dương, chúng tôi về vùng duyên hải với những địa danh gắn liền với sông, với biển. Ðồng chí Ðặng Văn Hiển, Phó trưởng phòng phụ trách NTTS (Sở Thủy sản Nam Ðịnh) vừa bước đi trên sân phơi muối còn sót lại ở cánh đồng muối xã Giao Long, Giao Yến của huyện Giao Thủy, vừa kể: Cách đây gần chục năm, những cánh đồng muối trắng đã nuôi sống nhiều gia đình. Nhưng "sứ mệnh lịch sử" của nó đã hết, nhường chỗ cho con tôm sú và các loại thủy sản khác đầy tiềm năng.

Gặp vợ anh Lương Ngọc Am bên bờ ao nuôi tôm công nghiệp, chị cho biết: Lúc đầu làm ao, cả nhà ai cũng lo, không biết bỏ tiền ra có thu được gì không. Thế mà đã sang năm thứ bảy rồi. Nhờ giời, năm ngoái thu được hai tấn rưỡi tôm, xuất được giá 75.000 đồng/kg, có lúc lên đến 90.000 đồng.

Anh em trong đoàn đều mừng cho chị. Và, chúng tôi biết được sau kết quả ấy, là sự lo toan, vất vả. So với làm muối thì nuôi tôm sú thu lãi gấp 20 đến 30 lần, nhưng rủi ro luôn thường trực. Ðể làm 2.000 m2 ao đầu tiên nhà chị phải đào đắp thủ công với chi phí hơn 30 triệu đồng, đến năm 2006 được 5.000 m2. Năm nay, nhờ có máy nên chi phí có giảm và nhanh hơn. Với 8.000 m2 mặt nước, nhà chị thả 160 nghìn con tôm giống. Vụ nuôi bắt đầu từ giữa tháng 3 và kéo dài bốn tháng. Sau khi thu hoạch nhà chị Am dành thời gian vệ sinh ao đầm, một số hộ khác thì tranh thủ nuôi cua, tôm rát, tôm he chân trắng.

Phó Giám đốc Sở Thủy sản Nam Ðịnh Nguyễn Quang Trực khẳng định: Nam Ðịnh có các vùng nuôi ở cả ba loại mặt nước (mặn, lợ, ngọt). Diện tích NTTS toàn tỉnh đến năm 2006 là 14.200 ha. Ðến nay, con tôm sú vẫn là đối tượng nuôi chủ lực ở vùng nước lợ. Tổng diện tích nuôi tôm sú đã lên 4.500 ha. Những năm qua, con cua chỉ xếp sau tôm sú, chủ yếu là nuôi luân canh, xen canh với các đối tượng khác. Với diện tích khoảng một nghìn ha bãi triều, các hộ nuôi ngao ở hai huyện Giao Thủy và Nghĩa Hưng đã đạt sản lượng hơn mười nghìn tấn, năng suất bình quân đạt 15 tấn/ha, có diện tích đạt 40 đến 80 tấn/ha. Các con nuôi khác như tôm rảo, cá bớp, cá song, cá vược, rong câu, chỉ vàng... cũng cho năng suất và sản lượng khá. Từ năm 2003 đến nay, Nam Ðịnh xác định cá rô phi đơn tính là con nuôi chủ lực cùng với tôm càng xanh của vùng nội đồng. Diện tích nuôi được mở rộng do việc chuyển đổi những vùng lúa năng suất thấp sang nuôi cá rô phi. Tỉnh đã hình thành được các vùng nuôi tập trung tại khu vực nội đồng như xã Hải Ðông, Hải Châu (Hải Hậu); Nam Vân, Lộc An (TP Nam Ðịnh). Năm 2006, năng suất đạt hơn 150 tấn và toàn tỉnh đã có hơn 3.000 lao động tham gia NTTS, có mười doanh nghiệp và ba hợp tác xã NTTS.

Khó khăn và giải pháp tháo gỡ Hiệu quả của NTTS so với trồng lúa và làm muối là quá rõ. Song, các cán bộ ngành thủy sản và hộ nuôi mà chúng tôi gặp không khỏi băn khoăn về những khó khăn, thách thức đang và sẽ đặt ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trước mắt là việc tiêu thụ sản phẩm. Nhà máy chế biến chưa có, sản phẩm chủ yếu là bán cho tư nhân và thường bị ép giá. Anh Dân bộc bạch: Mật độ thả cá tra ở ao của tôi vẫn còn thưa nhưng không dám đầu tư thả thêm con giống. Chỉ sợ nuôi nhiều quá lại không bán được hoặc giá thấp. Nếu hợp đồng được với doanh nghiệp thu mua ở Hải Phòng thì họ có thể ứng trước tiền giống, thức ăn. Thế mới yên tâm mà làm, gia đình tôi và một số hộ khác có thể đầu tư tăng mật độ hoặc mở rộng ao nuôi để bảo đảm cung cấp khoảng 50 tấn cá tra thương phẩm.

Chị vợ anh Am cũng bày tỏ, nuôi được con tôm đã khó nhưng bán được giá còn khó hơn. Vì không bán được cho nhà máy chế biến nên chỉ bán cho tư thương, mà tư thương sức mua cũng không nhiều. Họ chỉ lấy tôm bơi, mỗi lần chỉ bán được mấy tạ, khó xuất một đến hai tấn một lần, và sau nhiều ngày mới lấy được tiền. Cũng may là hiện nay bán có vất vả nhưng chưa đến mức ế.

Ngành thủy sản Nam Ðịnh đang quy hoạch chuyển dần các vùng úng trũng cấy lúa kém hiệu quả sang NTTS tập trung hoặc kết hợp nuôi cá và trồng lúa. Quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư theo Chương trình 224/CP, 112/CP, tập trung đầu tư các dự án NTTS. Quy hoạch bảo vệ và khai thác bền vững các bãi giống ngao, cua, tôm tự nhiên tại Giao Thủy, Nghĩa Hưng. Vận động, tuyên truyền nông dân, ngư dân làm tốt công tác cải tạo ao, đầm, bảo vệ và xử lý môi trường ở các vùng nuôi, hạn chế thấp nhất rủi ro do dịch bệnh. Tăng cường kiểm soát việc lưu thông và sử dụng thức ăn, thuốc kháng sinh và chế phẩm sinh học trong NTTS nhằm bảo đảm chất lượng sản phẩm thủy sản từ ao nuôi tới bàn ăn theo các tiêu chuẩn tiên tiến.

Tạo điều kiện cho Tập đoàn Shell- fish Hà Lan sớm đầu tư xây dựng nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh xuất khẩu. Hỗ trợ chuyển đổi sản xuất khác sang NTTS, khuyến khích đầu tư phát triển cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu, hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ... Thực hiện cấp quyền sử dụng đất lâu dài cho nhân dân NTTS (kể cả bãi triều, mặt nước ven biển, ven sông) theo quy định của Luật Ðất đai. Ðào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chỉ đạo thực tiễn, trình độ quản lý, khoa học kỹ thuật cho cán bộ thủy sản từ tỉnh đến cơ sở. Bố trí lãnh đạo phụ trách và một cán bộ theo dõi có chuyên môn thủy sản, biên chế trong phòng NN& PTNT. Bổ sung chức năng, nhiệm vụ khuyến ngư cho các trạm khuyến nông. Bố trí cán bộ khuyến ngư chuyên trách ở các xã ven biển, các xã có dự án và diện tích NTTS.

Về hướng phát triển NTTS của Hải Dương, Giám đốc Sở NN&PTNT Nguyễn Hữu Dương cho biết: Các huyện có nhiều ruộng trũng, cấy lúa năng suất thấp, đã xây dựng kế hoạch và được UBND tỉnh Hải Dương cho phép tiến hành lập quy hoạch vùng nuôi thủy sản tập trung, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất hàng hóa, hướng tới xuất khẩu. Tỉnh có chính sách hỗ trợ 25 đến 30% chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng nuôi thủy sản tập trung, hỗ trợ 50% về giống cho hộ nuôi thủy sản giống mới. Ở các huyện Tứ Kỳ, Gia Lộc, Cẩm Giàng, Bình Giang, Kinh Môn, Ninh Giang... tập trung nuôi cá rô phi đơn tính cho năng suất 12 đến 15 tấn/ha, doanh thu 150 đến 200 triệu đồng/ha. Trong hai năm qua, Sở NN&PTNT tỉnh đã thẩm định mười dự án vùng nuôi thủy sản tập trung thuộc bảy huyện, đã phê duyệt quy hoạch hơn 1.400 ha. Tuy vậy, tiêu thụ sản phẩm chủ yếu trông chờ tư thương, chưa có đơn vị đứng ra tiêu thụ cá thương phẩm cho hộ nuôi.

Trước những khó khăn, vướng mắc đang đặt ra đối với việc phát triển NTTS, ngành thủy sản cần cảnh báo cho hộ nuôi khi thị trường tiêu thụ sản phẩm bão hòa, hướng dẫn kỹ thuật nuôi thủy sản không gây ô nhiễm môi trường, cách phòng, chống dịch bệnh. Ðồng thời, tư vấn về khoa học - công nghệ, giống, thức ăn, hậu cần dịch vụ, bảo đảm cho việc NTTS ở ÐBSH phát triển bền vững.

Thế Huân, Quang Dũng


An Giang: Triển khai 32 mô hình sản xuất trong mùa nước nổi

Nguồn tin: AG, 16/8/2007
Ngày cập nhật: 20/8/2007

Những năm trước đây đến mùa nước nổi từ 150.000 đến 160.000 hộ với trên 500.000 lao động đã tham gia khai thác lợi thế mùa nước nổi đạt giá trị từ 1.500 đến 1.600 tỷ đồng/năm.

Qua thực tế các năm qua nhân dân khai thác lợi thế mùa nước nổi để sản xuất chăn nuôi, tăng thu nhập lúc nông nhàn với nhiều mô hình. Chuẩn bị cho sản xuất mùa lũ năm nay Chương trình khai thác lợi thế mùa nước nổi để phát triển sản xuất do ngành nông nghiệp chủ trì tổng kết rút ra và triển khai 32 mô hình sản xuất mùa nước nổi có hiệu quả kinh tế cao phù hợp với hộ nghèo ít vốn và ít đất sản xuất, trong đó mùa nước nỗi năm nay các địa phương trong tỉnh nhân rộng 8 mô hình nuôi trồng thủy sản phù hợp với các huyện đầu nguồn và các huyện vùng sâu như: nuôi cá ao hầm 2.166ha, nuôi cá đăng quằng 80 ha, nuôi cá chân ruộng 1.000ha, nuôi cá lóc mùng, vèo 2.600 cái, nuôi cá lòng bè nhỏ 2.500 cái, nuôi lươn trong bể đất 15 ha, nuôi ếch 15 ha, ương giống thủy sản 120 ha. Toàn tỉnh có trên 9.000 hộ tham gia nuôi trồng thủy sản, giải quyết việc làm cho gần 20.000 lao động, ngành nông nghiệp xây dựng mô hình nuôi cá chân ruộng theo tổ nhóm cộng đồng cùng góp vốn trong mùa nước tại huyện Thoại Sơn. Các vùng không ngập nước như rừng, đồi núi phát triển mô hình trang trại chăn nuôi gia súc trang trại như: Tri Tôn, Tịnh Biên và một phần Ba Thê huyện Thoại Sơn; mô hình trồng ngô thu trái non kết hợp chăn nuôi bò vùng đê bao khép kín như Chợ Mới, Châu Phú… tận dụng thân vỏ cây ngô thu trái non làm thức ăn cho bò, phấn đấu năm 2007 đạt tổng đàn gia súc (trâu bò, dê, lợn, 320.000 con) tăng 16% so năm 2006, mô hình trồng rau nhút trên ruộng đem lại hiệu quả khá cao cho người ít vốn. Mô hình trồng cỏ mồm làm thức ăn cho bò trong mùa lũ đem lại lợi nhuận khá cao, đồng thời có tác dụng chống sạc lỡ đê bao, có khả năng thích nghi với mùa lũ, gia đình ông Nguyễn Văn Tịnh ở Tri Tôn mùa lũ năm 2006 trồng thí nghiệm 10.000 m2 (0,1 ha) cỏ mồm bán cho người chăn nuôi bò, trừ chi phí thu lợi nhuận 7 triệu đồng, mô hình thu gom cọng lục bình cung cấp cho các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ giải quyết việc làm 3.600 lao động, mô hình trồng nấm rơm, tận dụng rơm rạ sản xuất lúa hè thu để dân sản xuất đạt năng xuất và hiệu quả cao, dự kiến trong mùa lũ năm nay tòan tỉnh sẽ sản xuất 1.600 ha nắm rơm.

Tố Quyên


Thái Bình: Hơn 200ha ngao ở xã Nam Thịnh, Tiền Hải đồng loạt chết

Nguồn tin: Lao Động, 20/08/2007
Ngày cập nhật: 20/8/2007

Việc ngao chết đã gây thiệt hại hàng chục tỉ đồng. Nguyên nhân là do mực nước sông Hồng lên cao, cống Lân (huyện Tiền Hải) xả nước trong 10 ngày vừa qua gây ô nhiễm nguồn nước.

Để hỗ trợ người dân bị thiệt hại, chính quyền huyện Tiền Hải đã đề nghị các ngân hàng tạo điều kiện cho người dân vay vốn, dãn nợ... cử cán bộ kỹ thuật xuống giúp đỡ người dân cải tạo lại vùng nuôi ngao...

C.Th


Nuôi thủy sản: Phòng bệnh hơn chữa bệnh

Nguồn tin: BR-VT, 17/8/2007
Ngày cập nhật: 20/8/2007

Người nuôi thủy sản thường chữa bệnh cho vật nuôi khi bệnh đã quá nặng, cách làm này không thật sự có hiệu quả kinh tế, đôi khi vẫn “tiền mất, tật mang”. Vì vậy, việc kiểm tra chất lượng con giống trước khi nuôi, kiểm tra môi trường, mẫu động vật định kỳ giúp người nuôi kịp thời điều chỉnh môi trường, phát hiện các mầm bệnh nguy hiểm để giảm thiểu rủi ro trong quá trình nuôi là rất cần thiết.

“TRÚNG LỚN” NHỜ CHỌN GIỐNG TỐT

Trong năm 2006, nhiều người dân nuôi tôm sú ở khu vực Phước Thuận (huyện Xuyên Mộc) rất hoang mang khi đem mẫu tôm đến Trung tâm Khuyến ngư kiểm tra vì tôm nuôi có dấu hiệu bỏ ăn, xuất hiện những đốm trắng rải rác trên thân như dấu hiệu của bệnh đốm trắng (bệnh do virus gây ra). Qua kết quả kiểm tra bằng phương pháp PCR của Trung tâm Khuyến ngư, tôm không mắc bệnh đốm trắng mà bị nhiễm vi khuẩn gây ra các đốm trắng. Được Trung tâm Khuyến ngư tư vấn, các hộ nuôi tôm ở Phước Thuận đã chữa được bệnh và đã “trúng lớn” trong vụ nuôi.

Con giống là yếu tố chi phối rất lớn đối với thành công trong nuôi tôm công nghiệp, do vậy việc kiểm tra chất lượng con giống là điều cần thiết trước khi mua tôm giống. Việc này giúp ngư dân loại bỏ rủi ro do vô tình đưa con giống mang mầm bệnh vào ao nuôi. Ông Nguyễn Hữu Cảnh, ở xã Tân Hòa (huyện Tân Thành) có ao nuôi tôm công nghiệp ở miền Tây cho biết, thời gian trước ông thường đưa tôm giống từ TP. Vũng Tàu lên TP. Hồ Chí Minh kiểm tra bằng phương pháp PCR, nhưng đường xa thấy bất tiện. Từ khi biết Trung tâm Khuyến ngư Bà Rịa-Vũng Tàu có dịch vụ chẩn đoán bệnh, kiểm tra chất lượng môi trường và tư vấn chữa bệnh hải sản, ông thường xuyên đến đây để kiểm tra mẫu tôm giống, nhờ vậy ông yên tâm về chất lượng con giống. Theo cán bộ kỹ thuật bộ phận xét nghiệm của Trung tâm Khuyến ngư, vụ nuôi năm 2006, ông Cảnh phải kiểm tra mẫu tôm giống đến lần thứ 3 mới đạt.

ĐỪNG ĐỂ “NƯỚC TỚI CHÂN MỚI NHẢY”

Hiện nay, Trung tâm Khuyến ngư Bà Rịa-Vũng Tàu đã trang bị đầy đủ các thiết bị cho phòng chẩn đoán PCR, mô học và môi trường để giúp nông, ngư dân kiểm tra lựa chọn giống tốt, xác định được mức độ các yếu tố gây bất lợi môi trường ao nuôi. Qua kết quả kiểm tra, bà con còn được tư vấn về phương pháp điều trị bệnh hợp lý, hạn chế rủi ro bệnh tật trong quá trình nuôi.

Tâm lý chung của đa số các hộ nuôi tôm, cá hiện nay là chỉ khi nào ao nuôi có vấn đề nghiêm trọng mới gửi mẫu xét nghiệm hoặc tìm kiếm giải pháp khắc phục. Tuy nhiên, theo cán bộ khuyến ngư, ngoài việc kiểm tra con giống trước khi thả, định kỳ mỗi tháng, nếu con giống không có biểu hiện bệnh, bà con cũng nên kiểm tra mẫu giống và môi trường nước để chủ động phòng ngừa bệnh và điều chỉnh môi trường ao nuôi hợp lý, hạn chế rủi ro. Nếu như đã xảy ra bệnh, việc điều trị sẽ khó khăn và tốn kém hơn.

Trên thị trường hiện có bán rất nhiều loại máy đo và các dụng cụ test nhỏ giọt sử dụng tại hiện trường rất thuận lợi cho người nuôi tôm, cá. Tuy nhiên, các loại dụng cụ test nhỏ giọt đôi khi mức độ chính xác không cao. Đồng thời bất kỳ máy đo nào khi sử dụng cũng cần được hiệu chỉnh kết quả, nếu không sẽ dẫn đến sai số không kiểm soát được. Chính vì vậy, để có kết quả chính xác, người dân cần gửi mẫu phân tích ở các trung tâm có uy tín. Nhất là khi cần phân tích các chỉ tiêu phức tạp hơn như: kim loại nặng, ô nhiễm hữu cơ, virút, vi khuẩn… Để phân tích được các chỉ tiêu này, người dân không thể tự trang bị máy móc cho mình, vì giá các trang thiết bị này rất cao.

Với một chương trình kiểm tra định kỳ từ khi chọn giống đến khi thu hoạch tôm, người nuôi chỉ tốn một khoản phí khoảng từ 500-600 nghìn đồng (cho 4 đợt kiểm tra mô, 2 đợt kiểm tra PCR, 4 đợt kiểm tra môi trường) nhưng hiệu quả cao. Trong khi đó, nếu sử dụng kinh nghiệm thường xác định sai nguyên nhân thì chi phí thuốc xử lý có thể gấp nhiều lần số tiền trên mà có khi còn “tiền mất, tật mang”.

Thu Phong


Bạc Liêu: Tôm nuôi chết trên diện rộng

Nguồn tin: NLĐ, 19/8/2007
Ngày cập nhật: 20/8/2007

Liên tiếp trong hơn một tuần qua, ở Bạc Liêu xảy ra tình trạng tôm chết rải rác trên diện rộng, làm nhiều hộ nuôi tôm hoang mang, lo lắng.

Tại 2 huyện Đông Hải, Hòa Bình có tỷ lệ tôm chết khá cao; riêng tại huyện Đông Hải trong những ngày qua thiệt hại hơn 1.200 ha, trong đó diện tích tôm nuôi công nghiệp, bán công nghiệp tỉ lệ thiệt hại từ 80 đến 100% năng suất.

Tôm chết đẩy các hộ nuôi tôm công nghiệp thua lỗ nặng, lâm vào cảnh khó khăn, khó có vốn tái đầu tư sản xuất trở lại.

Theo Ông Nguyễn Trường Hận, Trưởng Phòng Kinh tế huyện Đông Hải: do trong những ngày qua mưa dầm kéo dài trong nhiều ngày, lượng mưa lớn làm cho độ mặn hạ thấp, độ pH biến động, nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm lớn nên tôm sốc nước chết. Hơn nữa, mưa nhiều làm trôi phèn, muối, bùn đất trên bờ kênh xuống ao, làm nguồn nước bị ô nhiễm gây ra bệnh chết hàng loạt...

Hiện tại, trên địa bàn lượng mưa tuy có giảm hơn so với những ngày trước, nhưng lại xảy ra nắng nóng gay gắt, oi bức, không thích hợp cho tôm sinh trưởng. Theo Sở Thủy sản, với thời tiết diễn biến bất thường như hiện nay, nguy cơ tôm chết hàng loạt sẽ còn xảy ra, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản lượng tôm nuôi của tỉnh.

Theo TTXVN


Cà Mau: cấm sản xuất và nuôi tôm thẻ chân trắng

Nguồn tin: TT, 20/08/2007
Ngày cập nhật: 20/8/2007

Tỉnh Cà Mau đã nghiêm cấm tất cả đơn vị, cá nhân sản xuất, bán và nuôi giống tôm thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh.

Tôm thẻ chân trắng cho năng suất không ổn định, chậm lớn và hiệu quả kinh tế không cao. Tôm có nguồn gốc từ châu Mỹ nhập vào VN dễ nhiễm các bệnh thường gặp ở các giống tôm nội địa và một số bệnh khác không có ở VN. Đặc biệt là hội chứng Taura có thể lây nhiễm qua tôm sú và các giống tôm bản địa gây thiệt hại cho nuôi trồng thủy sản và môi trường tự nhiên.

PHẠM ANH HOAN


Tiền Giang: Nuôi thử nghiệm con cá chình

Nguồn tin: TG, 18/8/2007
Ngày cập nhật: 19/8/2007

Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Tiền Giang vừa kết hợp với hộ ông Nguyễn Văn Dãn (ngư dân xã Gia Thuận, huyện Gò Công Đông) tổ chức thử nghiệm mô hình nuôi cá chình. Hơn 1700 con cá chình được thả nuôi xuống 1200 m2 mặt nước. Thực hiện mô hình này, Trung tâm Khuyến ngư hỗ trợ 40% kinh phí cho hộ nuôi mua con giống và 20% kinh phí đầu tư mua thức ăn. Được biết, cá chình là loại thủy sản quý hiếm hiện cho hiệu quả kinh tế rất cao. Ở thời điểm này, giá cá chình thịt là 300 ngàn đồng/kg, nuôi sau 05 tháng cá cho thu hoạch. Tuy nhiên, cá chình giống rất đắt và khan hiếm phải mua qua thương lái bắt từ môi trường tự nhiên vì chưa được nhân tạo, giá mỗi con giống là 23.000 đồng.

Ông Phan Hữu Hội, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Tiền Giang cho biết, đến nay, trên địa bàn tỉnh vẫn chưa nuôi được con cá chình. Mô hình thử nghiệm này thành công sẽ rút ra kinh nghiệm và khuyến khích nhân rộng mô hình nuôi thủy sản này.

CHU TRINH


Tuy Phước (Bình Định): Có trên 153 ha tôm bị bệnh

Nguồn tin: BĐ, 18/8/2007
Ngày cập nhật: 19/8/2007

Thực hiện chỉ đạo của tỉnh, năm 2007 huyện Tuy Phước chỉ nuôi 1 vụ tôm trên diện tích 1.004 ha, nhưng có đến hơn 444 ha bị dịch bệnh thân đỏ đốm trắng và bệnh do môi trường.

Sau khi thu hoạch sớm tôm nuôi trên diện tích bị dịch bệnh, người dân đã cải tạo lại ao và tiếp tục thả tôm. Tuy nhiên, do thời tiết diễn biến phức tạp, nắng nóng kéo dài, độ mặn trong nước quá cao, sau đó lại xảy ra mưa lớn đột ngột làm tôm nuôi bị sốc và chết. Toàn huyện hiện có 153,2 ha tôm nuôi bị chết do tác động của thời tiết và môi trường, khiến nhiều hộ nuôi tôm bị thua lỗ nặng.

Minh Hằng


Nông thuỷ sản cần phản ứng nhạy hơn với thị trường

Nguồn tin: VNN, 14/08/2007
Ngày cập nhật: 18/8/2007


Công ty INTIMEX và dự án nuôi tôm trên cát

Nguồn tin: Nghệ An, 16/08/2007
Ngày cập nhật: 18/8/2007

Năm 2002, thực hiện chính sách thu hút đầu tư khai thác tiềm năng lợi thế để phát triển kinh tế, Công ty Intimex đã mạnh dạn lập dự án nhận gần 100 ha bãi cát ven biển Diễn Kim (Diễn Châu) để nuôi trồng thuỷ sản.

Sau gần 3 năm, một vùng ao nuôi đã mọc lên bên bờ biển xanh. Theo kỹ sư Hoàng Văn Bốn - Trưởng phòng thuỷ sản huyện, Công ty Intimex là doanh nghiệp duy nhất đầu tư nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn huyện. Mặc dù nuôi tôm trên cát là nghề đòi hỏi đầu tư lớn và đầy khó khăn, nhưng bằng quyết tâm, ý chí làm giàu bước đầu Công ty đã đầu tư hơn 2 tỷ đồng để đào ao, xây dựng mương, lắp đặt hệ thống bơm kéo nước biển vào nuôi tôm. Hoạt động vất vả nhưng nghề nuôi tôm trên cát quả là nghề siêu lợi, có thể nói chưa có nghề nào sánh nổi. Kỹ sư Nguyễn Anh Tuấn, phụ trách kỹ thuật của Công ty cho biết: Năm nay là năm thứ 3 đơn vị đi vào sản xuất thử, kết quả mang lại rất khả quan. Năm đầu đưa 4 ao (tương đương 2 ha) vào nuôi tôm he chân trắng, năng suất đạt 9 tấn/ha/2 vụ, sản lượng 18 tấn. Năm thứ 2 đưa vào 11 đầm (5,5 ha) vào thả 2 vụ cũng đạt năng suất gần 10 tấn/ha/2 vụ/năm. Năm 2007 đơn vị đưa 18 ao (9 ha) vào nuôi thả, tuy chưa thu hoạch nhưng qua theo dõi tốc độ lớn so với tiêu chí của đối tác cung cấp thức ăn - Công ty Cypi thì tốc độ lớn nhanh vượt trội. Mới 2 tháng nuôi trọng lượng đạt bình quân 120 con/kg, vượt 25 con so với tiêu chí. Khả năng đến kỳ thu hoạch đạt năng suất gần 10 tấn/ha. Nếu đầu ra thuận lợi, bán với giá bình quân như mọi năm 70-75 ngàn/kg thì trung bình mỗi ha cũng có mức thu nhập 540-550 triệu đồng/ha. Mặc dù so với nuôi thâm canh ở vùng ao đầm nước mặn lợ năng suất, sản lượng trên là rất khá nhưng theo đánh giá của kỹ sư Hoàng Anh Tuấn, năng suất đó vẫn còn thấp, nếu đầu tư lút sẽ có thể đạt 7-8 tấn/ha/vụ. Tìm hiểu được biết, thị trường xuất khẩu của con tôm đang có sự biến động xấu nên đầu ra đang gặp khó khăn. Những năm trước tôm chưa đến mùa thu hoạch đã có khách hàng đến đặt mua tại đầm để xuất theo đường tiểu ngạch sang Trung Quốc và tiêu thụ nội địa, thế nhưng đến thời điểm này thị trường xuất khẩu cả chính ngạch và tiểu ngạch vẫn im ắng. Tiêu thụ nội địa chẳng ăn thua. Người nuôi tôm nói chung và Công ty Intimex nói riêng tỏ ra lo lắng và việc đầu tư thâm canh cũng rất dè dặt. Tuy vậy, Công ty vẫn đang cố gắng duy trì nuôi mỗi năm 2 vụ để hạn chế tối đa sự lãng phí của đồng vốn bỏ ra. Nhờ hệ thống ao đầm xây dựng trên cát vĩnh cửu nên hoạt động sản xuất có nhiều thuận lợi, mưa bão không ảnh hưởng đến quá trình nuôi. Dự kiến sau thu hoạch tôm vụ một sẽ triển khai nuôi tôm vụ 2 phục vụ cho nhu cầu thị trường dịp trong Tết Nguyên Đán phấn đấu đạt năng suất 10 tấn/ha/2 vụ/năm. Gắn với tìm kiếm đối tác tạo đầu ra thuận lợi, Công ty đang áp dụng qui trình kỹ thuật đầu tư thâm canh nuôi tôm sạch, đảm bảo 100% sản phẩm tôm không có dư lượng hoá chất độc hại. Trên cơ sở đó Công ty tiếp tục đầu tư mở rộng hệ thống ao đầm đưa trên 80 ha còn lại vào nuôi trồng thuỷ sản tạo vùng chuyên canh sản xuất thuỷ sản xuất khẩu với sản lượng 1.200 tấn tôm/năm.

Văn Đoàn


Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc: "Đừng để vì tâm tư ảnh hưởng đến công việc"

Nguồn tin: VNN, 15/08/2007
Ngày cập nhật: 18/8/2007


Thuỷ sản về chung "nhà" với Nông nghiệp

Nguồn tin: VNN, 16/08/2007
Ngày cập nhật: 18/8/2007


Trại sản xuất giống tôm càng xanh Lương Phú - Giồng Trôm, Bến Tre

Nguồn tin: Btre, 18/8/2007
Ngày cập nhật: 18/8/2007

Nằm trong dự án chuyển giao công nghệ sản xuất giống tôm càng xanh cho nông hộ, năm 2001, trại sản xuất giống tôm càng xanh của anh Nguyễn Hữu Cường ở ấp 6, xã Lương Phú, huyện Giồng Trôm đã ra đời.

Mục tiêu của dự án là hỗ trợ vốn cho nông hộ, chuyển giao công nghệ sản xuất tôm càng giống, tập huấn kỹ thuật nuôi tôm cho nông dân nhằm xã hội hoá nghề sản xuất giống, thúc đẩy phong trào nuôi tôm càng xanh trên địa bàn phát triển, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và xoá đói giảm nghèo cho nông hộ . Trại sản xuất giống tôm càng xanh xã Lương Phú, huyện Giồng Trôm có qui mô 20 bể ương với thể tích 10m3 nước, ước công suất 2 triệu post/năm. Trại được đầu tư hoàn chỉnh hệ thống nhà xưởng, bể ương, trang thiết bị kỹ thuật có tổng giá trị là 80 triệu đồng, trong đó, nguồn vốn từ sự nghiệp khoa học của Trung tâm khuyến ngư Quốc gia hỗ trợ 40 triệu đồng. Sau 2 năm thực hiện dự án, trại đã sản xuất được 10 đợt với tổng lượng tôm post là 3,5 triệu con, trị giá 280 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí và hoàn trả 80% vốn cho nhà nước, lợi nhuận thu được hơn 60 triệu đồng. Đây là 1 thành công lớn, mở ra triển vọng cho nghề nuôi tôm ở địa phương, giải quyết phần nào sự khan hiếm về con giống cho người nuôi tôm. Con giống sản xuất nhân tạo nhanh chóng được người nuôi tiếp nhận với ưu thế là chủ động được mùa, kích cỡ tương đối đồng đều, khả năng tăng trọng tương đương với con giống tự nhiên. Nhiều mô hình ương tôm post lên tôm giống, mô hình nuôi tôm càng bán thâm canh ở địa phương cũng phát triển từ đây. Phong trào nuôi tôm càng ở Lương Phú được thúc đẩy, mở rộng một cách nhanh chóng đã góp phần đáng kể trong việc phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Nhiều mô hình nuôi tôm bán thâm canh đạt năng suất 1 tấn/ha mặt nước. Không ít nông hộ áp dụng phương pháp nuôi thâm canh, xen canh kết hợp VAC nâng mức thu nhập đạt 50 triệu đồng/ha . Từ thành công bước đầu, năm 2004, anh Nguyễn Hữu Cường mạnh dạn đầu tư vốn mở rộng cơ sở xuất tôm giống, nâng tổng thể tích bể ương đạt 15m3 nước sản xuất. Với nhu cầu con giống ngày càng cao của người nuôi, năm 2006, anh Cường tiếp tục đầu tư 100 triệu đồng để mở rộng hệ thống trại ương với tổng thể tích bể ương đạt 75 m3 nước, công suất ước hơn 15 triệu post/năm. Từ đầu năm 2007 đến nay, trại đã sản xuất được 7 triệu post tôm càng xanh, giá tôm post từ 70 đến 80 đồng/con, lợi nhuận thu được hơn 200 triệu đồng. Dự kiến trong năm nay, trại sẽ sản xuất đạt 10 triệu post tôm càng xanh . Với thuận lợi là tôm bố mẹ có nguồn gốc tự nhiên khá dồi dào, sinh sản tốt, nên tỷ lệ chuyển post của trại luôn đạt từ 50 đến 80%. Con giống sản xuất nhân tạo của trại được người nuôi đánh giá là có chất lượng cao. Thị trường tiêu thụ tôm post của trại không chỉ riêng bà con nuôi tôm trong tỉnh, mà người nuôi ở An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An cũng đến đặt hàng với số lượng cao. Theo đánh giá của Trung tâm khuyến ngư Bến Tre, đây là một trong những nông hộ ứng dụng thành công nhất qui trình sản xuất giống tôm càng xanh. Từ lý thuyết đến ứng dụng thực hành và mở rộng sản xuất, trại sản xuất giống tôm càng xanh xã Lương Phú huyện Giồng Trôm đã chứng minh được khả năng tiếp nhận và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, góp phần đáng kể vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương.


Huế: Cá tái tạo nguồn lợi thủy sản được thả vào… ao nuôi!

Nguồn tin: Dân trí, 17/8/2007
Ngày cập nhật: 17/8/2007

Hơn 5,4 vạn con cá rô phi, trôi, trắm, mè, chép… với tổng kinh phí hơn 25 triệu đồng (1 phần được mua từ ngân sách nhà nước) dùng để tái tạo, làm phong phú cho nguồn lợi thủy sản đã được Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản (BVNLTS) Thừa Thiên Huế thả vào… ao nuôi của dân.

Sự việc bắt đầu vào sáng 8/8, khi Chi cục BVNLTS Thừa Thiên Huế đưa số cá trên về Hồ Truồi (diện tích 360 héc ta) thì bất ngờ bị Ban quản lý vườn Quốc gia Bạch Mã không cho phép thả. Lý do Ban quản lý đưa ra là số cá này nằm trong danh sách cấm.

Việc thả cá “nhùng nhằng” từ 8h30 đến 9h30 vẫn không xong, Chi cục BVNLTS đã đưa ra giải pháp cuối cùng là thả cá tái tạo vào hồ nuôi gần đó. Như vậy, thay vì phải tái tạo nguồn lợi thủy sản, Chi cục đã phối hợp với UBND xã Lộc Hòa để thả số cá trên vào hồ nuôi cá thịt (rộng 4 héc ta) của ông Phạm Quốc Hoàng Vũ, một người dân xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc.

Trao đổi với Dân trí, ông Huỳnh Văn Kéo, Giám đốc Vườn Quốc gia Bạch Mã cho biết: Không thể cho thả vào Hồ Truồi vì số cá này thuộc loại cấm theo Nghị định 186 NĐ/CP của Chính phủ và thông tư 99 hướng dẫn việc thả cá vào Hồ Truồi.

“Nếu thả các loài cá đó vào sẽ phá hủy hệ sinh thái, làm mất cân bằng hệ sinh thái. Việc làm của Chi cục trước đó đã không thống nhất với Ban quản lý vườn Quốc gia Bạch Mã để biết loài cá nào được phép thả” - ông Kéo cho biết.

Làm việc với Chi cục BVNLTS, ông Lê Văn Bình, Chi cục trưởng lý giải: “Chúng tôi đã làm theo chỉ đạo của Sở Thủy sản là sẽ thả cá vào Hồ Truồi nhưng Ban quản lý vườn Quốc gia Bạch Mã lại không đồng ý. “Giằng co” hàng tiếng đồng hồ, chúng tôi hoàn toàn bất lực nên đã cùng UBND xã Lộc Hòa tính đến phương án nhằm cứu số cá còn lại vì thời gian đã làm chết 1/3.

Nhưng khi phóng viên đặt câu hỏi: nếu không thả được cá vào Hồ Truồi thì vẫn có thể thả được vào sông, tại sao lại thả vào hồ của dân? Ông Bình lý giải, lúc đó nước sông quá đục (?).

Thêm 1 điều đáng nói ở đây nữa là tại sao Chi cục BVNLTS lại không nắm được loại cá nào có thể được thả và không được thả vào Hồ Truồi? Để dẫn đến tình trạng kinh phí được cấp từ nguồn ngân sách nhà nước đã vô tình bị Chi cục làm “cho xong việc”, còn chủ hồ nuôi thì “cá vào ao ta ta hưởng”.

Ông Nguyễn Minh Tân, Bí thư Đảng ủy xã Lộc Hòa cho biết: “Trước tình hình hai bên căng thẳng như vậy, UBND xã chỉ tính đến biện pháp tạm thời, còn về lâu dài thì Chi cục BVNLTS cùng các ngành chức năng phải tìm cách tháo gỡ”.

Nguyễn Phương


Bình Định: Hỗ trợ gạo cho các hộ nuôi trồng thủy sản bị thua lỗ

Nguồn tin: BĐ, 17/8/2007
Ngày cập nhật: 17/8/2007

Trong vụ 1 nuôi tôm của năm 2007, toàn huyện Tuy Phước có hơn 444ha bị bệnh dịch thân đỏ đốm trắng. Hầu hết các ngư dân đều bị thua lỗ với thiệt hại ước tính trên 30 triệu đồng/ha.

Trước tình hình trên, mới đây Sở Thủy sản đã hỗ trợ 10 tấn gạo cho các hộ nuôi trồng bị thiệt hại ở các xã Phước Thắng, Phước Hòa, Phước Sơn và Phước Thuận. Trong đó: Phước Sơn 4,9 tấn, Phước Thuận 2,2 tấn, Phước Hòa 1,95 tấn và Phước Thắng 950 kg. Bình quân mỗi hộ được hỗ trợ 22,5kg/ha.

Được biết, số gạo trên do Hội hữu nghị Việt-Nhật tài trợ thông qua Sở Thủy sản Bình Định.

Xuân Vinh


Cần Giờ (TPHCM): diện tích nuôi tôm quảng canh tăng do hiệu quả hơn

Nguồn tin: SGGP, 17/08/2007
Ngày cập nhật: 17/8/2007

Do khuyến cáo nuôi tôm sú 1 vụ/năm để khống chế dịch bệnh, diện tích nuôi công nghiệp và bán công nghiệp cũng như mật số nuôi giảm dần, nhưng diện tích nuôi quảng canh lại tăng lên do hiệu quả hơn.

Ngày 16-8, phát biểu tại buổi làm việc với lãnh đạo huyện Cần Giờ về tình hình KT-XH, Chủ tịch UBND TPHCM Lê Hoàng Quân cho rằng, nhiều công trình TP phải vay ngân hàng để ưu tiên dành vốn cho Cần Giờ, nhưng tiến độ xây dựng cơ bản các dự án hiện nay rất chậm. Vì vậy, Chủ tịch UBND TP chỉ đạo, các sở, ngành cùng quan tâm, góp ý và hỗ trợ với huyện Cần Giờ trong việc xây dựng và thực hiện các dự án, không phải làm lại nhiều lần. Trước hết là vấn đề điều chỉnh quy hoạch tổng thể đến năm 2015, trong đó, khẳng định TP tập trung đầu tư, xây dựng huyện Cần Giờ phát triển theo hướng kinh tế biển, du lịch.

Về các công trình cụ thể, Chủ tịch Lê Hoàng Quân yêu cầu không thể kéo dài thời gian cầu đường Rừng Sác lâu hơn nữa, cần tập trung xây dựng xong vào cuối năm 2008. Sở GTCC báo cáo việc xây cầu Bình Khánh, để rút ngắn thời gian từ nội thành ra huyện biển. Cầu, đường, nước và điện là huyết mạch thúc đẩy huyện phía Nam TP phát triển. TP cũng chỉ đạo ngành y tế, giáo dục bố trí đủ bác sĩ, giáo viên, giúp hoàn thành phổ cập phổ thông vào cuối năm 2008. Phải hết sức cảnh giác với thiên tai, di dời bà con xã đảo Thạnh An vào đất liền và tạo điều kiện sản xuất, ổn định cuộc sống.

CÔNG PHIÊN


Sốt giá trứng Artemia

Nguồn tin: CT, 15/8/2007
Ngày cập nhật: 16/8/2007

Do trứng artemia (một loài bào xác) là nguồn thức ăn có hàm lượng đạm rất cao, giúp nâng cao tốc độ tăng trưởng của cá bột, tôm bột giống... nên trở thành sản phẩm không thể thiếu đối với các trại sản xuất giống thủy sản. Hiện tại, các trại sản xuất giống thủy sản ở ĐBSCL và một số tỉnh lân cận có nhu cầu tiêu thụ khoảng 2.000 tấn trứng artemia/năm. Nhu cầu cao, giá trứng artemia ngày càng tăng, nhất là vào mùa mưa.

Artemia được bà con nông dân vùng ven biển Vĩnh Châu (Sóc Trăng), Vĩnh Lợi (Bạc Liêu) nuôi từ nhiều năm nay. Người ta nuôi artemia để lấy trứng làm thức ăn cho ấu trùng tôm, cá bột trong quy trình sản xuất con giống. Trứng artemia ở vùng nuôi Vĩnh Châu và Vĩnh Lợi được các nhà khoa học đánh giá có chất lượng cao nhất thế giới. Giá bán trứng bào xác tại ruộng nuôi rất cao. Vì thế, diện tích nuôi artemia ngày càng tăng.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hòa, Giám đốc Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao công nghệ thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, cho biết: “Những năm 1986, chúng tôi đến Vĩnh Châu nghiên cứu và bắt đầu thả nuôi thử nghiệm artemia trên ruộng muối. Lúc đầu, kết quả nuôi không cao. Nhưng, những năm sau chúng tôi tiếp tục rút kinh nghiệm, nên đã đạt kết quả cao, sản lượng năm sau cao hơn năm trước, lợi nhuận từ mô hình nuôi artemia trên ruộng muối cao gấp 5 lần so với sản xuất muối. Từ đó, diện tích nuôi dần phát triển trong dân vùng ven biển. Có năm, diện tích nuôi artemia ở Vĩnh Châu và Vĩnh Lợi lên đến gần 1.100ha”.

Năm 2007, ở Vĩnh Châu và Vĩnh Lợi, diện tích nuôi artemia được gần 200ha, thời gian nuôi vào mùa khô, thu hoạch đạt sản lượng trên 10 tấn trứng tươi. So với những năm trước, diện tích nuôi artemia có giảm, nguyên nhân do một số nông dân chuyển đổi sang nuôi tôm sú. Nhưng do diện tích nuôi giảm, sản lượng thu hoạch giảm, nên giá bán trứng artemia tăng khá cao. Ban Chủ nhiệm Hợp tác xã Artemia Vĩnh Châu - Bạc Liêu cho biết: “Khi thu hoạch, trứng artemia tươi có giá bán 350.000-380.000 đồng/kg trứng, tăng 80.000-110.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm ngoái. Cá biệt, những tháng cuối vụ nuôi như hiện nay, giá trứng artemia lên đến 450.000-500.000 đồng/kg, người nuôi artemia thu được lợi nhuận khá cao”.

Hợp tác xã Artemia Vĩnh Châu-Bạc Liêu là nơi duy nhất nuôi artemia lấy trứng cung cấp cho các trại sản xuất tôm, cá giống và xuất khẩu. Năm nay, Hợp tác xã tổ chức nuôi với diện tích 90ha tại Bạc Liêu và huyện Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Hợp tác xã Artemia Vĩnh Châu - Bạc Liêu cũng như bà con ngoài hợp tác xã nuôi artemia luân vụ trong ruộng muối, tạo ra mô hình canh tác độc đáo và hiệu quả tôm - muối - artemia. Nhờ nuôi artemia mà nhiều hộ nông dân ở vùng biển Vĩnh Châu, Vĩnh Lợi có cuộc sống khấm khá hơn, lợi nhuận thu được khoảng 10 triệu đồng/vụ.

Hiện nay, trứng khô artemia sau khi chế biến từ trứng tươi được bán với giá 1,7-2 triệu đồng/kg. Trên thị trường bán lẻ, giá trứng artemia khô khoảng 2,3-2,5 triệu đồng/kg. So với cùng kỳ năm ngoái, giá trứng khô artemia tăng 300.000-500.000 đồng/kg. Được biết, 1 kg trứng khô artemia được chế biến từ 3 kg trứng tươi. Sau khi được chế biến thành sản phẩm khô, trứng artemia có thời gian sử dụng rất lâu, khoảng 5 năm. Tiến sĩ Nguyễn Văn Hòa cho biết: “Hiện nay, thời tiết vào mùa mưa, artemia không còn nuôi trên đồng muối, do đó giá trứng artemia khô có khả năng tăng cao trong thời gian tới”.

Hiện hầu hết các cơ sở sản xuất giống thủy sản ở ĐBSCL đều vào vụ do nông dân chuẩn bị thả nuôi con giống tôm canh xanh, cá... trong mùa nước nổi năm 2007. Trại tôm Công đoàn thủy sản Cần Thơ đang vào thời kỳ cao điểm sản xuất con giống tôm càng xanh và tôm sú. Trạm giống có quy mô 48m3, sản xuất trên 3 triệu con post giống tôm càng xanh/năm và 12 triệu con post giống tôm sú/năm. Trong thời điểm hiện tại, sản lượng sản xuất con giống cao nhất trong năm. Trại giống cũng chuẩn bị xuất bán hàng triệu con post giống tôm sú cho nông dân ở Bến Tre, Sóc Trăng, Cà Mau... Anh Lê Đức Thanh, cán bộ kỹ thuật Trại tôm giống Công đoàn thủy sản Cần Thơ, cho biết: “Để tôm giống đạt chất lượng cao, ngoài kỹ thuật tạo giống, chúng tôi đặc biệt chú trọng cho con giống ăn trứng artemia được sản xuất tại Vĩnh Châu, Vĩnh Lợi. Do trứng artemia sản xuất ở 2 địa phương này có hàm lượng chất đạm cao, cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho tôm, cá bột. Đặc biệt, con tôm post ăn trứng artemia giúp tăng khả năng phòng chống dịch bệnh, tăng trưởng nhanh...”.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Hòa, nuôi artemia không những mang lại lợi nhuận khá cao cho bà con nông dân ở Vĩnh Châu, Vĩnh Lợi mà còn trở thành mô hình cứu cánh cho các hộ dân chuyển đổi sản xuất khi muối rớt giá. ĐBSCL hiện vẫn còn một số địa phương có điều kiện nuôi artemia rất tốt như: Bến Tre, Kiên Giang, Trà Vinh... Nếu các địa phương trên có nhu cầu nuôi artemia, Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao công nghệ thủy sản sẵn sàng hỗ trợ, hướng dẫn, hợp tác...

HÀ VĂN


Diện tích tôm thả nuôi tăng 30,3% so với cùng kỳ

Nguồn tin: Ninh Thuận, 14/08/2007
Ngày cập nhật: 16/8/2007

Trong tháng 7 do giá tôm xuống cấp, các địa phương chỉ thả nuôi 77,5 ha ao đìa, nâng tổng diện tích tôm thả nuôi toàn tỉnh từ đầu năm đến nay lên 1.107,5 ha, tăng 30,3% so với cùng kỳ, trong đó huyện Ninh Phước có 501 ha, huyện Ninh Hải có 543 ha và thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có 63,5 ha diện tích tôm thả nuôi. Tính đến tháng 7, toàn tỉnh tôm thu hoạch đạt sản lượng 2.037 tấn, bao gồm 342 tấn tôm sú và 1.659 tấn tôm thẻ.

Đặc biệt tôm thẻ tập trung ở vùng nuôi trên cát Ninh Phước đã đem lại hiệu quả kinh tế, với năng suất bình quân 7,05 tấn/ha, hầu hết người nuôi lãi từ 50 đến 100 triệu đồng/ha.


Bình Thuận: Hội thảo khoa học về nuôi thủy sản trong các hồ chứa

Nguồn tin: Bình Thuận, 13/8/2007
Ngày cập nhật: 16/8/2007

Vừa qua, Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh đã phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, tổ chức hội thảo khoa học với đề tài: “Điều tra đánh giá và định hướng nuôi thủy sản hồ chứa tỉnh Bình Thuận”. Mục đích của hội thảo nhằm phân tích, đánh giá về tình hình thủy sinh, thủy hóa và đề ra các giải pháp nuôi thủy sản trong 4 hồ chứa: hồ Cà Giây (Bắc Bình), hồ Suối Đá (Hàm Thuận Bắc); hồ Núi Đất (La Gi), hồ Trà Tân (Đức Linh). Tham dự hội thảo có TS. Nguyễn Văn Thuần - Chủ tịch Hội Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh, chủ nhiệm đề tài và đại diện các sở, ban ngành liên quan. Tại hội thảo, đại diện các đơn vị đã bàn bạc, thảo luận các giải pháp nhằm nâng cao sản lượng nuôi thủy sản trong những năm tới như phương án cải thiện và xử lý tình trạng ô nhiễm lòng hồ, khảo sát việc xử lý nước thải trước khi chảy xuống lòng hồ, lựa chọn những loại ngư cụ và phương pháp thu hoạch thủy sản nào đạt hiệu quả cao nhất. Nếu có quy trình kỹ thuật nuôi thích hợp, đặc biệt về cỡ giống, cơ cấu giống và mật độ thả nuôi, thì kế hoạch khai thác 20.000 tấn thủy sản vào năm 2010 có khả năng đạt được.

(Báo Bình Thuận, 13/8/2007)


An Giang: Nông dân Mỹ Khánh nuôi ếch Thái Lan và ếch Trung Quốc lợi nhuận từ 250 – 400 triệu đồng/năm

Nguồn tin: AG, 15/8/2007
Ngày cập nhật: 15/8/2007

Nhiều hộ nông dân ở xã Mỹ Khánh TP.Long Xuyên tỉnh An Giang nuôi ếch Thái Lan và ếch Trung Quốc theo mô hình công nghiệp mới thu lợi nhuận từ 250 – 400 triệu đồng/năm.

Anh Nguyễn Văn Ngói ở ấp Bình Hòa 1 xã Mỹ Khánh xây dựng 11 bồn nuôi ếch, thiết kế mỗi bồn 45 m2, xây kiên cố bằng xi măng, xung quanh bồn bao rào lướt cao hơn 1 mét để ếch trong bồn không nhảy ra ngoài được và cũng để ngăn các con vật khác ở ngoài tấn công ếch nuôi trong bồn, đáy bồn trải tấm nhựa cao su, bồn có trang bị ống bơm nước vào và ống thoát nước ra để mỗi ngày thay nước 2 lần, một cái ao rộng lọc nước thải từ bồn nuôi ếch trước khi thoát ra ruộng, 1 bồn 270 m2 để gieo con giống, 1 bồn ếch bố mẹ, 4 bồn giành cho sinh sản, tổng cộng khu vực mô hình chiếm 0,1 ha

Trước đây anh Ngói là người nuôi cá rô đồng nổi tiếng ở xã Mỹ Khánh. Qua học hỏi và nghiên cứu nhiều tài liệu khoa học chăn nuôi thấy nuôi ếch Thái Lan và ếch Trung Quốc hiệu quả kinh tế rất hấp dẫn, năm 2004 anh Ngói nuôi thí nghiệm 3.000 con ếch Thái Lan, sau 3 tháng trừ chi phí lãi 7 triệu đồng, thấy nuôi ếch Thái Lan ít tốn công sức chăm sóc và lãi cao hơn nuôi cá rô đồng trên 36% cùng diện tích và thời gian ngắn hơn nuôi cá rô đồng 2 tháng/vụ. Anh chọn lại 50 cặp giống ếch bố mẹ tốt nhất, anh tích cực tham khảo nhiều tài liệu hướng dẫn cách sinh sản cho ếch để áp dụng. Kết quả bước đầu mỗi cặp ếch bố mẹ cho ra đời 3.000 con giống/năm, anh bán 900 – 1.000 đồng/con giống, giữ lại 25.000 con để nuôi ếch thịt thương phẩm. Bước đầu anh nuôi ếch trong mùng lưới, chất lượng không cao, đùi ếch không to, và thịt không săn chắc, nên chỉ bán 22.000đồng/kg. Năm 2006 anh Ngói nghiên cứu xây bồn có rào chấn bên trên để ếch nhảy thường xuyên nhằm kích thích cặp đùi phát triển to và thịt săn chắc, giá bán cao hơn 10.000 đồng/kg so với trước.

Đến thu hoạch thương lái đến tận mô hình mua giá 32.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí lãi 17.000 đồng/kg, trong mỗi kỳ thu hoạch anh Ngói thu lãi trên 126 triệu đồng, tính chung mỗi năm nuôi 3 đợt, cộng với tiền bán ếch giống thu lãi trên 400 triệu đồng/năm.

Từ kết quả trên, nhiều nông dân trong vùng học hỏi mô hình nuôi ếch của anh Ngói, thu lợi nhuận từ 250 – trên 300 triệu đồng/ năm.

Tố Quyên


Cà Mau: Sinh sản nhân tạo được hàu giống

Nguồn tin: NLĐ, 14/08/2007
Ngày cập nhật: 15/8/2007

(NLĐO) - Trại Nghiên cứu thực nghiệm giống thuỷ sản nước lợ Rạch Gốc - Tân Ân, Ngọc Hiển thuộc Trung tâm Khuyến ngư Cà Mau vừa nhân giống thành công và cho sinh sản khoảng 1,5 triệu con giống

Theo TTXVN, cán bộ chuyên môn tại trại nghiên cứu cho biết, tỉ lệ hao hụt trong việc cho sinh sản hàu giống còn khá cao; khâu thức ăn cho ấu trùng đang gặp khó khăn và để sản xuất hàu giống đạt hiệu quả, cần trang bị phòng nuôi tảo, lưu giữ tảo, nhà nuôi tảo sinh khối để có nguồn thức ăn ổn định cho ấu trùng sinh trưởng, phát triển.

BTL


Làm gì để luôn có “hải sản sạch” xuất khẩu ?

Nguồn tin: BThuận, 14/08/2007
Ngày cập nhật: 15/8/2007

Thời gian gần đây tình trạng hàng hải sản xuất khẩu nhiễm dư lượng kháng sinh đang là vấn đề đau đầu của các nhà quản lý nhất là những doanh nghiệp thu mua, chế biến và xuất khẩu hải sản.

Thị trường Nhật Bản nơi chiếm gần 70% thị phần xuất khẩu hàng hải sản của tỉnh ta trước đây thì hiện nay như đang bỏ ngỏ do nhiều mặt hàng hải sản, nhất là mặt hàng mực xuất khẩu của Việt Nam nhiễm dư lượng kháng sinh bị phát hiện và trả lại; gây ra ấn tượng không tốt trong con mắt của người Nhật đối với hàng hải sản Việt Nam.

Không phải đến lúc này chúng ta mới nhận thức được tác hại của tình trạng hàng hải sản xuất khẩu nhiễm dư lượng kháng sinh, mà cách cách đây gần một năm, ngày 30/8/2006 UBND tỉnh Bình Thuận đã có chỉ thị 36 về tăng cường kiểm tra, xử lý việc sử dụng các loại hóa chất, thuốc kháng sinh trong lĩnh vực thu mua, chế biến thủy sản. Ngành Thủy sản đã mở hàng chục lớp tập huấn Luật thủy sản, Pháp lệnh thú y và các tiêu chuẩn về bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm đến 742 chủ cơ sở thu mua chế biến thủy sản và các chủ tàu có công suất từ 90 CV trở lên.. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2007 đã tổ chức ký 673 tờ cam kết không sử dụng hóa chất, kháng sinh cấm trong bảo quản nguyên liệu thủy sản; phát hành gần 420 tờ rơi tuyên truyền, 3.500 bản quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản đến ngư dân và các cơ sở kinh doanh chế biến thủy sản. Trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng thường xuyên có nhiều tin, bài, ảnh tuyên truyền cho công tác này…

Cùng với công tác tuyên truyền, tỉnh đã thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành tổ chức kiểm tra, thu mẫu, phân tích dư lượng Chloramphenicol trong nguyên liệu mực, cá trên các tàu cá, các cơ sở thu mua, chế biến thủy sản, kiểm tra việc sử dụng hóa chất, kháng sinh, chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản tại Tuy Phong, Phan Thiết, Hàm Thuận Nam, La Gi, Hàm Tân. Qua đó xác định nguyên nhân, đối tượng sử dụng, phạm vi và chủng loại thủy sản bị nhiễm dư lượng kháng sinh đề có biện pháp kiểm soát ngăn chặn và xử lý kịp thời. Qua kiểm tra tra đã phát hiện và xử phạt 3 cơ sở có mẫu bị nhiễm chất Chloramphenicol, 1 cơ sở có mẫu bị nhiễm vi khuẩn Ecoly; kiểm tra 28 mẩu mực lấy từ tàu cá không phát hiện dư lượng kháng sinh. Điều đó cho thấy lâu nay một số kiến thường đổ lỗi trách nhiệm cho ngư dân khai thác trên biển sử dụng hóa chất hoàn toàn chưa hẳn là vậy.

Tuy đã làm được một số việc, nhưng đến thời điểm này tình hình vẫn diễn biến phức tạp. Có nhiều nguyên nhân. Trước hết là khâu tuyên truyền vận động chưa làm chuyển biến được nhận thức của một bộ phận ngư dân và các cơ sở nuôi trồng, thu mua, chế biến thủy sản. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra kiểm soát chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ…

Một trong những khó khăn là chúng ta rất thiếu các thiết bị kiểm tra phát hiện chính xác dư lượng kháng sinh trong nguyên liệu thủy sản, gây khó khăn trong việc xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Để giải quyết vấn đề này, ngày 7/8/2007 UBND tỉnh đã có văn bản gửi Ban chỉ đạo chương trình hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO để hỗ trợ tỉnh thực hiện chương trình kiểm soát dư lượng hóa chất kháng sinh cấm trong hải sản xuất khẩu tại Bình Thuận với tổng kinh phí 3.000 triệu đồng.

Trong lúc chờ thực hiện chương trình này, được biết ngành thủy sản đã phối hợp với công ty TNHH thương mại Hiển Đạt (thành phố HCM) tiến hành thử nghiệm thiết bị phát hiện dư lượng Chloramphenicol trong nguyên liệu thủy sản (CAP-203). Đây là thiết bị áp dụng phương pháp xét nghiệm nhanh (GICA), dùng để định lượng Chloramphenicol trong mô thịt, cá, tôm… có thời gian xét nghiệm 20 phút, cho độ chính xác trên 95%. Thiết nghĩ, tỉnh nên sớm đề nghị cơ quan chức năng của Trung ương xem xét công nhận thiết bị này để phục vụ kịp thời cho công tác kiểm tra nguyên liệu thủy sản xuất khẩu của tỉnh trong thời điểm hiện nay.

Song song công tác tuyên truyền và biện pháp kiểm tra cần thực hiện giải pháp đẩy mạnh việc liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp với các chủ tàu trong việc cung cấp nguyên liệu sạch phục vụ chế biến hải sản. Nếu không thực hiện được những giải pháp trên sẽ không thể ngăn chặn được tình trạng nhiểm dư lương kháng sinh thì nguy cơ mất thị trường xuất khẩu thủy sản là rất cao.

HỒNG LÊ


An Giang: tập huấn “Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá Sặc rằn”

Nguồn tin: SKHCNAG, 14/8/2007
Ngày cập nhật: 14/8/2007

Thực hiện “Kế hoạch chuyển giao mô hình sản xuất giống và nuôi tăng sản cá Sặc rằn ở huyện An Phú tỉnh An Giang”, ngày 10/8/2007, Sở Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Trung tâm khuyến ngư và giống Thủy sản An Giang và Bộ môn kỹ thuật nuôi Thủy sản nước ngọt – Khoa Thủy sản – Trường Đại học Cần Thơ tổ chức lớp tập huấn “Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá Sặc rằn” tại Trung tâm khuyến ngư và giống Thủy sản An Giang trong 04 ngày (từ 10/8 đến 13/8/2007). Tham dự lớp tập huấn có 20 học viên là nông dân các huyện An Phú, Tân Châu và cán bộ kỹ thuật của Trung tâm khuyến ngư và giống Thủy sản An Giang. Mục tiêu của lớp tập huấn là phát triển vùng nuôi cá Sặc rằn thương phẩm cung cấp nguyên liệu cho xuất khẩu, đồng thời cũng để phát triển đối tượng nuôi thủy sản mới có giá trị kinh tế tại tỉnh.

Bà Võ Thị Thanh Vân, giảng viên Bộ môn kỹ thuật nuôi Thủy sản nước ngọt – Khoa Thủy sản – Trường Đại học Cần thơ sẽ tập huấn chuyển giao kỹ thuật nuôi cá Sặc rằn thâm canh trong ao đất, kỹ thuật sinh sản cá Sặc rằn, kỹ thuật ương cá giống, kỹ thuật nuôi cá thương phẩm, một số bệnh thường gặp và cách điều trị.

Các học viên tham gia học tập tích cực, phần thực hành được các học viên quan tâm và đặt nhiều câu hỏi liên quan đến cách chọn cá bố mẹ, kích thích cá sinh sản và kỹ thuật ương cá trong giai đoạn cá bột.

Sau tập huấn, sẽ triển khai 05 mô hình điểm nuôi cá Sặc rằn thương phẩm ở huyện An Phú. Dự kiến kế hoạch chuyển giao mô hình sản xuất giống và nuôi tăng sản cá Sặc rằn ở huyện An Phú tỉnh An Giang sẽ kết thúc vào tháng 8/2008.

Dương Quỳnh


Cá tra tăng trưởng nhanh: Chưa hẳn đã mừng, còn nhiều lo hơn

Nguồn tin: SNNAG, 12/8/2007
Ngày cập nhật: 14/8/2007

Điều dễ nhận thấy là sự gia tăng về diện tích đang diễn ra liên tục theo từng ngày. Nếu như thời điểm đầu năm, chỉ có 780ha thì 3 tháng sau đã lên 1.156 ha (+48,2%) và hiện nay, trên 1.200ha, tăng đến 44% so cùng kỳ. Sản lượng cũng có sự gia tăng đột biến. Nếu quý I, toàn tỉnh thu hoạch khoảng 39 ngàn tấn thì quý II là 46 ngàn tấn (+18%). Tính chung cả 7 tháng thì mức sản xuất đã bằng 75% so sản lượng cả năm 2006. Như vậy, chỉ riêng phần sản xuất trong tỉnh, các doanh nghiệp đã chế biến và xuất khẩu được 39 ngàn tấn cá phi lê, thu về gần 107 triệu USD, tăng 64,1% về lượng và tăng 77,4% về trị giá so cùng kỳ, mở ra triển vọng kim ngạch xuất khẩu thủy sản sẽ tiếp tục cao hơn xuất khẩu gạo trong 2 năm liên tục.

Sự phát triển nhảy vọt của ngành thủy sản mà đặc biệt là nghề nuôi cá tra trong những tháng đầu năm, ở nhiều góc độ, là rất khả quan. Trong đó nổi bật là thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ năm nay, chỉ tiêu Nghị quyết đề ra với mức phấn đấu rất cao: 13,20%. Nhiều nhà quản lý kinh tế đã nhận định: Với chỉ tiêu này, nếu từng ngành, từng lĩnh vực không có sự đột biến thì khó đạt được. Do vậy, từ kết quả tính toán sơ bộ 6 tháng đầu năm, ngành thủy sản với sự đóng góp chủ lực của sản phẩm cá tra đạt mức tăng trưởng 13,17% so với mức tăng 2,89% ở thời điểm cùng kỳ năm trước, thì quả thật đây là con số rất có ý nghĩa. Không chỉ tạo nên sự tin tưởng về khả năng hoàn thành kế hoạch năm nay mà còn tác động đáng kể vào mức tăng bình quân chung của cả thời kỳ 5 năm (2006-2010). Về mặt xã hội, sự lớn mạnh của sản xuất cá tra trong thời gian qua còn thu hút và giải quyết việc làm thêm cho gần 3 ngàn lao động tham gia vào các lĩnh vực nuôi trồng và chế biến, nâng số lao động trong lĩnh vực này lên khoảng 86 ngàn người, chiếm gần 8% số lao động trong toàn tỉnh. Mối lợi khác dễ dàng nhận thấy, khi giá đất lên "cơn sốt", từ vài chục triệu lên vài trăm triệu đồng chỉ cho một phần nhỏ diện tích bãi bồi ven sông, đã tạo thuận lợi cho nhiều hộ nghèo ít đất có điều kiện chuyển đổi ngành nghề, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Song, mặt trái sự phát triển nóng của nghề nuôi cá tra cũng đã tạo nên một chuổi nguy cơ, luôn đe dọa sự phát triển ổn định và bền vững. Bắt đầu từ việc sản xuất tự phát, vừa gây mất ổn định cung cầu, vừa phá vỡ quy hoạch, làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái dẫn đến chất lượng sản phẩm không đảm bảo. Thị trường xuất khẩu sẽ dần thu hẹp do các chính sách nghiêm ngặt trong vệ sinh an toàn thực phẩm. Không tiêu thụ được, giá cả vì thế sụt giảm, mất khả năng đầu tư để cuối cùng dẫn đến tính cảnh hàng chục ngàn hộ sản xuất, hàng trăm ngàn lao động chế biến sẽ đứng trước nguy cơ thua lỗ, mất việc làm, nợ nần chồng chất....

Đã có nhiều dự án, nhiều cuộc hội thảo kể cả các cuộc họp liên kết cấp Vùng, cấp Trung ương, cốt chỉ để bàn thực hiện mục tiêu: Phát triển ổn định, bền vững và hiệu quả. Nhưng xem ra những vấn đề trên khó có thể giải quyết trong một sớm, một chiều khi những người có trách nhiệm quản lý trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều "lúng túng..." theo như sự thừa nhận của người đứng đầu Bộ chủ quản chuyên ngành trong cuộc họp gần đây tại An Giang. Như vậy, xem ra việc tăng trưởng nhanh của con cá tra, chưa hẳn đã mừng, còn nhiều lo hơn.

Đỗ Xuân - Phòng Nông Nghiệp - Cục Thống kê An Giang


Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Ninh Thuận: Thử nghiệm đưa chế phẩm sinh học xử lý môi trường vào ao nuôi tôm

Nguồn tin: NT, 9/08/2007
Ngày cập nhật: 14/8/2007

Nhằm giúp người nuôi tôm phòng, chống hiệu quả dịch bệnh cho tôm, Trung tâm Khuyến ngư tỉnh đã phối hợp với Viện Nghiên cứu Thủy sản 3 đưa chế phẩm sinh học xử lý môi trường vào thử nghiệm tại diện tích 1,2ha ao nuôi tôm của ông Đỗ Văn Ngọ (Từ Thiện, Phước Dinh). Chế phẩm sinh học có tên P.MET do trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ (Công ty công trình đô thị thành phố Phan Rang - Tháp Chàm) sản xuất có tác dụng xử lý mùi hôi, môi trường nước nuôi thủy sản.

Sau 3 tháng thử nghiệm, qua so sánh với ao nuôi đối chứng cho thấy tôm thẻ tại 3 ao nuôi có dùng chế phẩm sinh học P.MET xử lý môi trường đã tăng trưởng hơn, tôm không bị đóng rong, không bị dịch bệnh, vỏ ngoài của tôm sạch bóng và môi trường nước trong ao được giữ sạch hơn. Hiện nay Viện Nghiên cứu Thủy sản 3 đang tiếp tục khảo nghiệm chế biến sinh học P.MET để đề nghị đưa vào danh mục các chất được dùng trong nuôi trồng thủy sản của Bộ Thủy sản.

Báo Ninh Thuận


Mồ hôi học trò trên bãi ngao

Nguồn tin: TN, 12/08/2007
Ngày cập nhật: 13/8/2007

Hè đến, những em học sinh vùng biển ở hai thôn Quang Lang và Tam Đồng (xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, Thái Bình) lại cùng mẹ ra bãi ngao lao động, để đầu năm học mới gia đình có thêm tiền cho các em tới trường.

4 giờ, trời còn tối mịt, nhưng Nguyễn Thùy Minh đã bắt đầu một ngày mới trên bãi ngao cùng mẹ: "Hôm nay, mọi người đi sớm như vậy cho kịp giờ con nước. Có hôm 7 - 8 giờ chúng em mới đi, nên nhịn luôn cả cơm trưa mãi đến 4 giờ chiều khi con nước lên mới về". Mới 12 tuổi nhưng Thùy Minh nói về thủy triều như một người đi biển có kinh nghiệm lâu năm. Cô học trò rủ rỉ với tôi: "Làng nghèo, lại chẳng có nghề gì khác ngoài đi biển. Đàn ông ra khơi đánh bắt cá bữa được bữa không, nên từ cụ già, con gái đến con nít đều bám lấy bãi ngao này để sống, đợi người lớn đi biển trở về. Cực lắm chú ạ!".

5 giờ, chúng tôi ra tới bãi ngao, trời cũng vừa tảng sáng nên nhìn rõ mặt người. Phần lớn người lao động ở đây là phụ nữ và trẻ con, thỉnh thoảng có một vài người con trai, họ mới gặp nạn ở biển, trở về với hai bàn tay trắng, cũng bon chen với chị em phụ nữ và con nít trên bãi bồi này, để nuôi hy vọng một ngày nào đó được quay trở lại biển.

Nguyễn Đức Trung, học sinh lớp 6, có một cảnh ngộ đáng thương. Căn bệnh xơ gan quái ác ập tới, cướp đi người cha của em đã 3 năm nay, từ đó em phải trở thành người lớn. "Khi đi học lúc nào trong cặp nó cũng thủ sẵn đồ nghề bắt ngao, tan học về là chạy luôn ra biển. Những ngày cuối tuần nó còn theo thuyền đi biển bắt sứa" - Thùy Minh cho tôi biết thêm về Trung. Hè là mùa ngao có nhiều nhất trong năm, nên Trung không phải theo thuyền ra khơi nữa, bù lại lúc nào em cũng có mặt trên bãi biển sớm nhất. Trung tâm sự: "Nhiều hôm ra đến bãi rồi nhưng còn thèm ngủ, em tìm cho mình một gò cát cao làm một giấc đợi trời sáng rồi mới dậy làm".

Hoàn cảnh của Minh và Trung cũng là cảnh ngộ chung của hàng trăm đứa trẻ ở vùng biển này. Ước mơ đi học luôn bị gói gọn trong biển: khi cha đi biển được mùa thì năm đó các em được học hành tử tế, còn không thì thất thường. Trung thú thật: "Trong năm học, có những hôm sứa về nhiều em bỏ luôn cả học đi vớt sứa". Trọng Đạt - học lớp 8 cho biết: "Trẻ con làng này không đứa nào là không biết bắt ngao, chỉ cần chăm chỉ là được". Dụng cụ chẳng có gì, chỉ cần một cái dầm bới cát, túi cước và bao tải là đủ, còn lớn hơn nữa thì dùng cào. Khi được hỏi mỗi ngày làm vất vả như vậy thì kiếm được bao nhiêu, một bé nhanh nhảu trả lời: "Chúng em không tính theo ngày. Mấy tháng hè góp lại em cũng có đủ tiền mua quần áo, sách vở cho năm học mới đấy"...

Nguyễn Quang Phong


Mưu sinh ở Cửa Lấp

Nguồn tin: BR-VT, 10/8/2007
Ngày cập nhật: 13/8/2007

Dọn bữa cơm sơ sài trên tấm chiếu manh trong mấy túp lều dựng tạm bằng bạt dưới gầm cầu Cửa Lấp (phường 12, TP. Vũng Tàu), những người dân làm nghề cào ngao ở khu vực bãi cạn Cửa Lấp lùa vội vài chén cơm cho bữa chiều rồi mang cào ra bãi để bắt đầu một ngày làm việc mới. Đây là nơi mưu sinh đã từ mấy năm nay của hàng chục hộ gia đình từ các tỉnh miền Tây đến nhập cư tại Bà Rịa – Vũng Tàu.

BỒNG BỀNH THEO CON NƯỚC

Khi chiều về, nhiều người thong thả đứng trên cầu Cửa Lấp buông chiếc cần câu xuống biển ung dung chờ cá đớp mồi thì dưới biển, nhiều người lao động lại đang ngâm mình cào từng mớ ngao nhỏ làm kế sinh nhai cho bản thân và gia đình, bất kể cái lạnh đến run người. Tại bãi cạn quanh khu vực cầu Cửa Lấp, có hàng chục hộ gia đình lấy cào ngao là nghề chính. Nhiều hộ dân đã bám trụ nơi đây gần chục năm nay.

6 giờ tối, nước rút dần. Đứng dưới chân cầu đã thoáng thấy bãi cạn Cửa Lấp trồi lên. Sau khi lùa vội mấy chén cơm, anh Hồ Văn Hiền, 45 tuổi ôm theo chiếc cào rồi lội bộ ra giữa dòng nước để bắt đầu cho một ngày làm việc mới. Mặc cho nước ngập đến cổ, anh Hiền vẫn cào tứng mớ ngao rồi bỏ vào chậu với những động tác quen thuộc như chẳng hề biết lạnh là gì. Thỉnh thoảng chậu đầy quá anh lại đổ vào chiếc bao tải rồi đẩy vào bờ để vợ và đứa con nhỏ đang chờ sẵn lại cặm cụi phân loại từng con. Anh Hiền nhẩm tính sơ sơ tại khu vực bãi cạn Cửa Lấp hiện có khoảng 30-40 hộ gia đình thường xuyên sống bằng nghề cào ngao, trong đó hơn phân nửa là cào bộ (không dùng ghe). “Cách nay chừng hơn một tháng đúng vào mùa ngao nên hàng trăm người ở Bà Tô, Lộc An kéo về đây cào ngao, nay đã hết mùa nên họ đi rồi. Nghề này bất chấp giờ giấc vì phụ thuộc vào con nước. Bất cứ khi nào nước cạn là chúng tôi phải lội xuống cào ngay. Có khi mới sớm tinh mơ, khi thì đang đêm cũng phải thức dậy. Từ khoảng 25 đến cuối tháng âm lịch nước rút sớm nên thường khoảng 12 giờ trưa đã có thể đi cào. Mâáy hôm rày phải đến 8-9 giờ tối nước mới cạn nên chúng tôi ra bãi cũng muộn hơn”- anh Hiền nói.

Chị Trần Thị Xoan, 35 tuổi cho biết, gia đình chị từ Bạc Liêu lên phường 12, TP. Vũng Tàu mướn phòng trọ làm nghề xẻ cá bò nhưng không đủ chi tiêu nên từ hơn hai năm nay cả vợ chồng chị và cậu con trai 12 tuổi (đang học lớp 4) cùng kéo nhau ra biển cào ngao theo những người hàng xóm. Vừa tiếp chuyện chúng tôi, chị vừa mang theo lỉnh kỉnh đồ nghề nào thau, rổ, bao tải… lội xuống nước để đón từng mớ ngao lẫn đất và cát chồng chị cào được rồi đem vào bờ phân loại. Trên khuôn mặt sạm đen của chị đã lộ rõ những vết nhăn. Chị tâm sự, tay và mắt không rời đống ngao: “Cào ngao bộ kiểu này tốn sức lắm. Cánh phụ nữ chúng tôi yếu nên chỉ xuống nước được vài tiếng rồi lại lên để làm nhiệm vụ phân loại ngao vì mệt và vì không chịu được lạnh”. Thoáng một lúc chị đã xử lý xong rổ ngao pha lẫn bùn đất ra riêng thành từng loại. Rồi chị lại lao xuống dòng nước đục ngầu, ngập đến nửa người và còng lưng cào tiếp cùng chồng.

Gia đình anh Đinh Văn Khiên ở ấp Phước Thọ, xã Phước Hưng, huyện Long Điền có vẻ khỏe hơn so với những người cào bộ vì anh chị đã sắm được chiếc ghe và việc cào ngào cũng không phải phụ thuộc vào con nước. Anh Khiên cho biết, đã theo nghề cào ngao được khoảng 6 năm nay. Hàng ngày cứ 6 giờ sáng vợ chồng anh cùng đứa con trai lớn (12 tuổi) và người cháu 16 tuổi lại đánh ghe đi cào. Được khoảng vài tiếng, xem chừng đã đủ, anh chị lại cập vào chân cầu Cửa Lấp đổ ngao xuống rồi cả nhà cùng nhau lựa ra từng loại để bán cho được giá. Trong khi nói chuyện với chúng tôi, đôi tay anh Khiên vẫn thoăn thoắt và kiên nhẫn lựa từng chú ngao: rổ này là ngao bằng cái nút áo, rổ kia ngao to bằng ngón chân cái, rổ khác là ngao nhớt… Vỏ ngao và tạp chất cũng được anh để riêng. Nhìn những con ngao trăng trắng, nhỏ xíu, chúng tôi không khỏi sốt ruột và nghĩ, không biết khi nào họ mới lựa xong.

Chị Mai Thị Tuyết, vợ anh Khiên vội nói: “Cô chú đừng coi thường những con ngao nhỏ này. Chúng càng nhỏ càng có giá đấy. Ngao trắng thì chị bỏ mối cho các chủ vựa để họ đem bán lại cho những hộ nuôi ngao ở các tỉnh bạn, giá từ 10.000 đồng (loại to bằng ngón chân) đến 45.000 đồng/kg (loại bằng cúc áo). Riêng ngao nhớt chị phải đem ra chợ bán sô với giá 4.000 đồng/kg”. Trung bình mỗi ngày gia đình anh chị cũng kiếm được 200.000 – 400.000 đồng sau khi đã trừ chi phí xăng dầu. Gặp mùa cũng có thể được nhiều hơn. Bé Đinh Văn Nam, con trai anh chị năm nay lên lớp 6 cho biết, em tranh thủ những ngày nghỉ hè theo ghe phụ ba mẹ nhặt ngao để có thêm tiền mua sách vở cho năm học mới. “Cháu là anh lớn trong nhà nên phải phụ giúp ba mẹ để làm gương cho các em”- Nam hồn nhiên nói.

ĂN, NGỦ CHỜ NGAO

Ngồi trên chiếc ghe nhìn những người “đồng nghiệp” đang làm việc say sưa, anh Đặng Văn Trường cho biết, gia đình anh rời Bạc Liêu đến Vũng Tàu sinh sống đã được gần chục năm nay. Anh đang ở trọ tại hẻm 97 đường Phước Thắng nhưng hầu hết thời gian anh đều ăn, ngủ ở Cửa Lấp. Anh than: “Mấy anh em cùng quê chúng tôi hùn nhau mua được chiếc ghe này để cào ngao. Ngày nào cào được nhiều cũng có thu nhập kha khá, nhưng có hôm chỉ được 300.000-400.000 đồng chia đều cho 17 người. Mấy hôm nay ghe hư nên chẳng cào được mớ nào”.

Phần lớn những người cào ngao tại khu vực này đều là dân nhập cư, chủ yếu là người dân từ các tỉnh miền Tây đến đây sinh sống. Anh Hồ Văn Hiền kể: “Ngày nào chúng tôi cũng ăn cơm hộp. Thỉnh thoảng mới chụm củi trên bãi cát nấu được nồi canh, nồi cơm rồi mấy gia đình cùng ăn. Có hôm không kịp nấu cơm thì làm ăn gói mì tôm rồi ra biển cho lẹ…”. Còn chị Trần Thị Xoan tiết lộ, mỗi ngày hai vợ chồng chị kiếm được khoảng 70.000 - 150.000 đồng. Mùa nhiều ngao cũng có ngày kiếm được 200.000 – 300.000 đồng. Chị đang mơ ước có được chiếc ghe để cào đỡ vất vả hơn nhưng với thu nhập hiện tại của gia đình chị, ước mơ ấy thật khó thành hiện thực.

Anh Trần Văn Khương, người có thâm niên gần chục năm trong nghề, kể lại, trước đây, vùng biển ở khu vực Cửa Lấp này có hàng trăm hộ gia đình làm nghề cào ngao, nhưng vài năm nay ngao đã ít dần nên nhiều gia đình đã phải đi nơi khác. Trong khi đó, một vài hộ lại cắm hàng rào khoanh vùng để cào khiến diện tích bãi ngao bị thu hẹp làm cho chúng tôi càng khó làm ăn hơn. “Chúng tôi đang thử nghiệm khoanh vùng để nuôi thử một số ngao xem ở vùng nước này chúng có thích nghi hay không. May chi…”, anh bỏ lửng câu nói với vẻ hi vọng.

Chúng tôi rời Cửa Lấp khi trời đã về khuya. Ánh sáng từ những bóng đèn cao áp trên cầu tỏa ra sáng rực. Nhiều thanh niên dựng xe máy ngay trên cầu vẫn đang thong thả buông câu với mục đích thư giãn. Ở bãi cạn dưới chân cầu, những người như anh Hiền, chị Xoan, anh Trường vẫn đang say sưa với cuộc mưu sinh.

Bài, ảnh: Minh Tâm – Nguyễn Đức


Dư lượng kháng sinh trong hàng thuỷ sản- chuyện không của riêng ai

Nguồn tin: VOV, 26/07/2007
Ngày cập nhật: 13/8/2007

Để bảo vệ mình khỏi nguy cơ phá sản, một số doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản tự đầu tư thiết bị đo định lượng kháng sinh tồn dư; rồi in ấn tài liệu tuyên truyền đến người dân về mối nguy hại dư lượng kháng sinh, hoá chất chứa trong thuỷ sản

Ngư dân miền Trung thường dùng nước đá để bảo quản hải sản

3 giờ sáng, cảng cá Thuận Phước, thành phố Đà Nẵng đã nhộn nhịp cảnh bán mua hải sản. Trên bến cảng, xe đông lạnh khắp nơi đến, xe thì tiến, xe thì lùi, rồi xếp thành từng dãy chờ ăn hàng. Dưới sông Hàn, những tàu thuyền đi nghề giã cào, lưới vây, câu mực, câu ngừ ngoài khơi tấp nập trở về cạp mạn vào cầu cảng, hối hả chuyển cá tôm lên bờ. Còn hàng chục tàu khác đang tất bật với công việc kiểm tra, tính toán lại lần cuối lượng xăng dầu cùng mọi loại vật tư để sáng sớm mai nhổ neo. Trong đủ mọi thứ chuẩn bị cho một chuyến khai thác xa bờ, có một thứ không thể thiếu, đó là nước đá. Ông Nguyễn Văn Sao, chủ tàu BĐ8119 TS, công suất 125CV, phường Trần Phú, thành phố Quy Nhơn cho biết: Thông thường mỗi tàu ra khơi khoảng 4 đến 5 ngày cần 4 đến 5 nước tấn đá để bảo quản tôm cá.

Đội tàu của ngư dân Quảng Ngãi và Đà Nẵng mỗi chuyến biển kéo dài từ 10 đến 15 ngày, muốn giữ cho tôm cá tươi sống, phải chở theo 700 đến 800 cây đá.

Chúng tôi hỏi chuyện nhiều chủ tàu trên cảng và tận mắt thấy nhiều tàu vào bờ vẫn còn từng tảng nước đá dưới hầm tàu. Tất cả ngư dân khẳng định họ không biết dùng kháng sinh để bảo quản thuỷ sản. Nhiều doanh nghiệp chế biến thuỷ sản ở thành phố Đà Nẵng đều đưa ra lời nhận xét, từ trước tới nay, ngư dân khu vực miền Trung chuyên dùng nước đá ướp lạnh giữ hải sản tươi sống lâu ngày chứ không có thói quen sử dụng hóa chất để bảo quản. Ông Trần Văn Lĩnh, Giám đốc Công ty Thuỷ sản và Thương mại Thuận Phước, thành phố Đà Nẵng cho biết Công ty ông chưa một lần phát hiện hải sản khu vực miền Trung có dư lượng kháng sinh. Thói quen chung của ngư dân là không sử dụng hoá chất hay kháng sinh để bảo quản thủy sản và sự công nhận của doanh nghiệp thu mua chế biến hải sản là một căn cứ đáng tin cậy.

Thế nhưng vào tháng 8 năm ngoái, Công ty Kinh doanh chế biến hàng xuất nhập khẩu Đà Nẵng phát hiện 7 tàu cá tỉnh Quảng Ngãi bán 20 tấn cá ngừ ướp phân đạm, urê. Quan sát thực tế thị trường mua bán hải sản, chẳng ai dám chắc chỉ có ngần ấy tàu sử dụng hoá chất bảo quản khi mà tại các cảng cá, không thấy bóng dáng của cán bộ y tế và ngành thuỷ sản tiến hành kiểm tra tàu đánh bắt xa bờ mang tôm cá từ ngoài khơi vào đất liền bán.

Đừng chỉ vì cái lợi trước mắt

Cũng như trong bảo quản thuỷ sản đánh bắt, người nuôi trồng thuỷ sản vùng ven biển miền Trung ít có thói quen sử dụng kháng sinh khi tôm nuôi bị bệnh. Ông Phan Thế Nhân, chủ cơ sở sản xuất tôm giống ở thôn 1, xã Điện Dương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam cho biết: Cơ sở của ông có 3 trại ươm tôm giống, mỗi năm sản xuất 20 đến 30 triệu con tôm giống bán khắp thị trường cả nước. Mười năm làm nghề, không ít lần, cơ sở phải tiêu huỷ hàng loạt lô tôm mắc bệnh cốt giữ lấy cái tiếng để làm ăn lâu dài. Trong quy trình nuôi tôm giống, các chế độ bảo vệ môi trường nuôi được thực hiện đầy đủ. Những năm gần đây, dịch bệnh tôm tràn lan, người nuôi tôm yêu cầu khắt khe hơn về con tôm giống sạch. Vì vậy, cả xã Điện Dương với hàng trăm cơ sở sản xuất tôm giống nhưng không mấy ai sử dụng kháng sinh điều trị cho tôm.

Ông Nguyễn Văn Tám, một chủ trang trại nuôi tôm sú ở thôn 6, xã Cẩm Thanh, thị xã Hội An bắt đầu nuôi tôm công nghiệp từ năm 1998. Ông nuôi hơn 14 héc ta, mỗi năm thu cả trăm tấn tôm nhưng rất ít bị dịch bệnh. Những năm trước, chuẩn bị thả nuôi, ông thường xử lý hồ bằng các loại hoá chất như Chlorin, iốt.. Còn bây giờ, trang trại ông cũng như người nuôi tôm quanh vùng đều dùng men sinh học xử lý lòng hồ. Khi tôm bị bệnh ông đành ngậm ngùi bán rẻ mà không dùng kháng sinh.

Đó là những hộ trường vốn, còn gia đình nuôi nhỏ lẻ vốn ít, chẳng may tôm mắc bệnh, đành liều cứu gia sản bằng cách mua kháng sinh chữa trị bệnh cho tôm. Mặt khác, ngay trong các giáo trình đào tạo kỹ sư, kỹ thuật viên nuôi trồng thuỷ sản của nước ta nhiều năm trước đều hướng dẫn cách điều trị bệnh tôm bằng kháng sinh. Trên thị trường thuốc chữa bệnh hiện nay, kháng sinh bày bán tràn lan, bất cứ ai cũng có thể mua hàng tá thuốc kháng sinh mà không cần đơn của bác sĩ. Đây là một yếu tố khiến cho kháng sinh càng dễ dàng xâm nhập vào thực phẩm. Thuỷ sản chứa dư lượng kháng sinh đã làm biết bao doanh nghiệp điêu đứng. Để bảo vệ mình khỏi nguy cơ phá sản, một số doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản đầu tư phương tiện thiết bị đo định lượng kháng sinh tồn dư trong nguyên liệu. Công ty Kinh doanh chế biến hàng xuất nhập khẩu Đà Nẵng chuyên chế biến các loại cá xuất khẩu sang thị trường Trung Đông mua máy quang phổ đo dư lượng hoá chất bảo quản thuỷ sản. Công ty Thuỷ sản và Thương mại Thuận Phước, Đà Nẵng bỏ ra 20 ngàn USD mua máy kiểm nghiệm theo phương pháp ELISA. Mặt khác, các doanh nghiệp tự liên kết với nhau in ấn tài liệu tuyên truyền đến tận người dân về mối nguy hại dư lượng kháng sinh, hoá chất chứa trong thuỷ sản.

Dư lượng kháng sinh trong thuỷ sản là nguy cơ lớn ảnh hưởng đến kinh tế và việc làm của người lao động, làm phương hại đến chất lượng và thương hiệu của hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới mà lâu nay chúng ta dày công gây dựng. Các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của nước ta chứa dư lượng kháng sinh có thể nhiễm phải từ nhiều khâu, nuôi trồng, đánh bắt, bảo quản, thức ăn chăn nuôi, con giống, thu mua, chế biến. Thực tế ở vùng duyên hải miền Trung hiện nay, các ngành y tế, thuỷ sản vẫn chưa thực sự có chương trình mạnh mẽ ngăn chặn dư lượng kháng sinh. Công tác tuyên truyền vận động người dân, công tác kiểm tra giám sát việc sử dụng kháng sinh thả nổi cho doanh nghiệp tự lo. Thế nhưng doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu thì không thể kiểm soát và cũng không có quyền kiểm soát kháng sinh nếu thiếu sự chung tay của các ngành và chính quyền các cấp. Việc ngăn chặn triệt để dư lượng kháng sinh trong hàng thuỷ sản xuất khẩu phải được cả xã hội tham gia chứ không phải chuyện của riêng ai./.

Thanh Hà- Đồng Mạnh Hùng


Vào rừng nuôi... cá sấu

Nguồn tin: ĐN, 20/7/2007
Ngày cập nhật: 13/8/2007

Ở ấp 4, xã Mã Đà (huyện Vĩnh Cửu) khi được hỏi về những người làm kinh tế giỏi thì bà con đều nghĩ ngay đến anh Đồng Văn Mua (Ba Mua). Bởi lẽ, chỉ sau 10 năm đến đây định cư, khởi nghiệp, anh Ba Mua đã tạo ra giá trị tài sản lên đến bạc tỉ nhờ vào việc trồng cây ăn trái, nuôi cá thương phẩm và cá sấu...

Thực ra con đường thoát khỏi đói nghèo, vươn lên làm giàu của Ba Mua không phải lúc nào cũng đầy ắp hoa hồng, mà trái lại còn nhiều chông gai, thử thách - mở đầu câu chuyện với chúng tôi, Ba Mua nói như vậy. Người đàn ông sắp bước vào cái tuổi ngũ tuần này vẫn chưa hết xốn xang khi nhắc lại chuyện cũ. Năm 1989, sau khi rời Siêm Riệp - Campuchia trở về Việt Nam, lúc ấy do cuộc sống còn quá nhiều khó khăn nên Ba Mua đưa gia đình lên xã La Ngà (huyện Định Quán) tìm kế sinh nhai. Sẵn có chút ít kinh nghiệm trong nghề nuôi cá bè thuở còn ở Campuchia nên Ba Mua gom góp hết vốn liếng đầu tư vào việc đóng bè nuôi cá. Làm ăn suông sẽ được vài vụ, không riêng gì Ba Mua mà nhiều bà con khác cùng nuôi cá ở khu vực La Ngà đã phải đối diện với sự thất bát triền miên do cá nuôi bị chết hàng loạt, hoặc không lớn vì nguồn nước bị ô nhiễm. Thấy khó có thể trụ lại ở La Ngà để tiếp tục nghề nuôi cá bè, năm 1997, Ba Mua lặn lội vào ấp 4, xã Mã Đà (huyện Vĩnh Cửu) hợp đồng thuê đất của lâm trường trồng cây ăn trái. Ban đầu, anh chỉ thuê 5 hécta để trồng các loại xoài đặc sản. Chỉ 4 năm sau, nhờ sự đầu tư chăm sóc đúng mức, vườn xoài của Ba Mua đã có những mùa thu hoạch bội thu. Cũng trong thời gian này, Ba Mua lại gom góp thêm vốn liếng để tiếp tục mở rộng thêm diện tích trang trại, đào thêm ao và tận dụng các diện tích mặt nước để nuôi các loại cá điêu hồng, cá lăng, đồng thời tận dụng diện tích bờ ao xây chuồng trại nuôi khoảng 1.000 con cá sấu. Theo Ba Mua, sở dĩ anh tập trung đầu tư mạnh vào việc nuôi cá sấu là vì cá sấu là loại dễ nuôi, ít bệnh tật nhưng mang lại hiệu quả kinh tế rất cao. 1 con cá sấu nuôi từ 2-4 năm tuổi là có thể đạt trọng lượng từ 30-40kg và xuất bán ra thị trường. Với thời giá hiện nay: từ 75-110 ngàn đồng/kg, mỗi con cá sấu cũng thu từ 3-5 triệu đồng. Ba Mua còn cho biết, hiện nay với gần 20 hécta trang trại của gia đình, mỗi năm anh bán ra thị trường trên 50 tấn xoài, hàng chục tấn cá điêu hồng, cá lăng, khoảng 3 tấn cá sấu, thu nhập bình quân cũng hơn 1 tỉ đồng/năm.

Vừa làm giàu cho bản thân và gia đình, song Ba Mua cũng không quên chuyện ơn nghĩa với địa phương và bà con xóm giềng. Bên cạnh việc chia sẻ kinh nghiệm về trồng trọt, chăn nuôi với bà con, anh còn đóng góp tiền của ủng hộ giúp đỡ người nghèo khó, cơ nhỡ mỗi khi có đợt vận động của chính quyền. Nói về kinh nghiệm làm giàu của mình, Ba Mua cho biết, cái cần nhất là phải có ý chí, nghị lực và không dao động, nản lòng trước những trắc trở, thất bại.

Đức Việt


BR- Vũng Tàu: Luân canh tôm - muối: không phải dễ ăn

Nguồn tin: BRVT, 11/8/2007
Ngày cập nhật: 13/8/2007

Nuôi tôm trên ruộng muối cũng cần trang bị kiến thức và phương tiện như nuôi tôm công nghiệp mới đạt được hiệu quả cao.

Nuôi tôm trên ruộng muối đã giúp nhiều hộ gia đình ở phường 12, TP. Vũng Tàu đổi đời. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có người phải trả giá đắt do thiếu kiến thức và lạm dụng mô hình luân canh tôm – muối.

“CON TÔM ÔM HẠT MUỐI”...

Ông Lê Quang Hùng, người nuôi tôm sú ở phường 12 cho biết: Nhiều năm qua, gia đình ông chỉ có nghề làm muối. Mấy năm muối rớt giá đời sống gia đình gặp nhiều khó khăn. Từ năm 2000, nhờ học được kinh nghiệm nuôi tôm sú trên ruộng muối qua mô hình của Trung tâm Khuyến ngư, ông bắt đầu làm quen với nghề nuôi tôm sú. Cũng trên 2.700m2 ruộng muối thay vì đến mùa mưa thì bỏ hoang, nay ông tận dụng để nuôi tôm. Năm đầu tiên nuôi, không ngờ ông thắng ngon ơ, bỏ túi gần 20 triệu đồng (tương đương số tiền thu lợi từ làm muối 4-5 năm). Tích lũy được một ít vốn và kiến thức, năm sau ông Hùng thuê thêm 1 ha ruộng muối và 2 nhân công mở rộng sản xuất. Mùa nắng làm muối, mùa mưa nuôi tôm, năm nào ông cũng có lãi, nhờ vậy, kinh tế gia đình ngày một khấm khá.

Địa bàn phường 12 có điều kiện tự nhiên phù hợp với nghề làm muối. Nhiều hộ gia đình thu nhập chủ yếu từ nghề muối. Bình quân mỗi ha ruộng mặn thu được từ 80 – 100 tấn muối/vụ. Thế nhưng, với giá bán bình quân từ 180.000 đồng – 300.000 đồng/tấn, trừ công cán người làm muối thu lợi nhuận rất thấp. Hơn nữa, nghề muối chỉ làm được vào mùa khô, các tháng còn lại bà con diêm dân phải bươn chải nhiều nghề khác nhau để đắp đổi qua ngày, trong khi đó ruộng muối thì bỏ không.

Trước thực trạng đó, năm 1999, Trung tâm Khuyến ngư xây dựng mô hình nuôi tôm sú công nghiệp tại phường 12 để bà con học thêm nghề mới. Năm đầu tiên, có khoảng 7 hộ áp dụng. Từ năm 2004, sau sự thành công của 5 mô hình trình diễn nuôi tôm trên ruộng muối do Trung tâm kết hợp với Hội Nông dân tỉnh xây dựng, nhiều hộ đã áp dụng và mở rộng sản xuất.

Hiện nay, phường 12 có hơn 80 hộ nuôi tôm sú với tổng diện tích khoảng 200 ha, trong đó, có khoảng 60 ha nuôi trên ruộng muối đạt năng suất bình quân 1 – 1,2 tấn/ha. Có người do ít vốn và kinh nghiệm còn hạn chế, nên có lúc cũng gặp rủi ro, song nhìn chung nhờ nuôi tôm thu nhập của họ khá hơn so với “độc canh” nghề muối. “Trước kia muốn có tiền mua 1 kg gạo chúng tôi phải gò lưng giữa cái nắng gay gắt cào 30 kg muối, nay chỉ cần thu 1kg tôm là có thể mua được 20 kg gạo. Nhờ nuôi tôm chúng tôi mới có cơ may đổi đời, chứ làm muối suốt đời chắc cũng không thoát được nghèo” – ông Hùng nói.

90% HỘ NUÔI TÔM TRÁI VỤ THẤT BẠI

Nhận thấy nuôi tôm sú trên ruộng muối vào mùa mưa đạt hiệu quả kinh tế cao, thời gian qua nhiều hộ chủ quan thả nuôi luôn vào mùa khô bất chấp thời tiết không thuận lợi. Lý do khiến người dân liều lĩnh là tôm trái vụ có giá cao. Tuy nhiên, họ đã trả giá đắt cho sự liều lĩnh đó, gần 90% hộ nuôi tôm trái vụ đều bị thất bại. Kỹ sư Đào Thị Thanh, cán bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến ngư cho biết, khu vực ruộng muối phường 12 vào mùa khô có độ mặn rất cao. Thả nuôi vào mùa khô tôm chậm lớn. Hơn nữa, mực nước trong ruộng muối thấp, chỉ từ 50 – 80cm, khiến cho môi trường nước trong ruộng dễ biến động, nhất là các yếu tố về nhiệt độ, độ mặn, trong khi mực nước thấp, quạt khí không thể sử dụng hết công suất, dẫn đến tôm thường bị sốc và chết do thiếu ôxy.

Chính vì những yếu tố bất lợi đó, Trung tâm Khuyến ngư khuyến cáo người dân chỉ nên tận dụng ruộng muối để nuôi tôm vào khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 11. Đây là thời điểm các yếu tố môi trường phù hợp cho tôm phát triển trên ruộng muối. Như vậy, bà con chỉ nên nuôi một vụ tôm trong năm, không nên thả thêm vụ 2 vào thời điểm giao mùa (từ tháng 10 đến tháng 2).

“Nuôi tôm trên ruộng muối là phương thức tốt nhằm đa dạng hóa ngành nghề cải thiện thu nhập, song người dân cần có những kiến thức nhất định để bảo đảm hiệu quả đầu tư. Không nên chạy theo lợi nhuận mà đầu tư nuôi trái vụ dẫn đến “lợi bất cập hại” – ông Thân Văn Minh, Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư khuyến cáo.

Bài, ảnh: Song An


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang