• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

“Cổ phiếu” cá tôm và lời khẩn thiết “thôi đừng… so cựa nữa”

Nguồn tin: SGGP, 11/04/2007
Ngày cập nhật: 12/4/2007

...Ông Tư làm công đoàn ngành ở Thốt Nốt (Cần Thơ) vừa lên thành phố, tình cờ ngồi chung bàn có lắm người bàn sôi nổi chuyện mua bán cổ phiếu, rồi đột ngột cất lời tỉnh bơ: “Vậy sao, ở miệt dưới tui, cứ vài tháng kiếm vài tỷ đồng là chuyện thường. Trên này các anh mới tập tành chơi cổ phiếu, chứ nông dân tôi chơi lâu rồi, hết cổ phiếu mía đường, rồi cổ phiếu tôm sú, giờ đang lên cơn cổ phiếu cá tra”.

Ngẫm ra, có nhiều phần đúng, ít ra cũng về khía cạnh tìm cơ hội, tranh thủ cơ hội và quyết liệt khai thác những cơ hội để kinh doanh, để làm giàu không phân biệt người đó là ai, nông dân cũng như dân thành thị. Dường như nông dân ở ĐBSCL, Đông Nam bộ, Tây Nguyên đã… chơi “cổ phiếu” cây trồng vật nuôi trên sàn… thị trường cạnh tranh trong ngoài nước, đã khá lâu lắm rồi. Ở đây, vấn đề có thể đặt ra thêm nữa là không khí đồng hè làm ăn, nỗi khao khát thoát nghèo, vươn lên làm giàu đã không lác đác chỉ diễn ra trong một bộ phận dân cư nào đó có điều kiện, mà đã nở rộ trong nhiều tầng lớp dân cư, từ vùng đô thị lớn đến cả nông thôn.

Điều đó lý giải vì sao nông dân ồ ạt tăng diện tích cây trồng, có nhiều loại cây trồng đứng vào những mặt hàng xuất khẩu hàng đầu thế giới, song cũng sẵn sàng chặt để lại chuyển qua trồng cây khác. Dám đầu tư tiền trăm triệu, tiền tỷ, sẵn sàng thế chấp đất đai nhà cửa vay vốn ngân hàng, và chấp nhận đối mặt trước rủi ro, nông dân hai nắng một sương có thua gì người lên sàn chứng khoán.

Đó cũng là thực trạng bao nhiêu vụ mía đường đã qua nhưng vẫn còn ngổn ngang bao điều thiệt hại. Hình như đến giờ, không ít nhà trồng điều và chế biến điều vẫn còn lo bận... miệt mài sân si nhau. Cà phê dù đã… nối mạng “lên sàn” London từ mấy năm trước, nhưng người trồng đâu đã hết những âu lo theo con giá tăng giảm đột ngột khi vào mùa thu hoạch, khi thời tiết thất thường. Trong nuôi tôm sú, có những vụ thu hoạch thắng lớn và cũng có những vụ thất bát vì giá giảm, vì dịch bệnh và ô nhiễm môi trường.

Ngay trong đầu tháng 4 này, không ít nông dân và cả chủ trang trại nuôi cá tra bắt đầu… trằn trọc không chỉ vì nắng hạn, bởi “Nếu như mai mốt đây nó rớt còn 13-14… chấm (tức còn 13-14 ngàn đồng/kg) thì kể như người nuôi vay nợ vốn ngân hàng phá sản ngay”. Một chủ trang trại có mấy hécta nuôi cá tra ở Cần Thơ đã trầm ngâm suy tính đầy sự căng thẳng. Đây là cái lo của số đông người là nông dân, là doanh nghiệp, là người đầu tư chuyên nghiệp hoặc còn tay ngang tập tành chơi chứng khoán, lại thường mù mịt về tình hình, thiếu hay rất thiếu những dữ liệu để toan tính cái gì sẽ diễn ra trên thị trường đầy biến động, nhưng thường lại thừa những toan tính hẹp hòi lợi ích cục bộ.

Trong biết bao điều đặt ra khi nền kinh tế hội nhập hệ thống thương mại toàn cầu, có điều nhất nhất cần bàn bạc và làm ngay là sự liên kết, hợp tác; là sự phối hợp trong chính “người mình”, để ít nhất cũng hài hòa lợi ích giữa các nhà nông, nhà công, nhà buôn, nhà băng, rồi vai trò của các hội và hiệp hội ngành nghề. Để trong thời gian ngắn tới sẽ không còn xảy ra những bất trắc không đáng có và kéo dài suốt những năm qua. Để tất cả hội và hiệp hội ngành nghề thực sự có ích. “Nông dân và doanh nghiệp hãy thôi đừng… so cựa nhau nữa về giá cả thu mua mỗi khi vào vụ thu hoạch” như lời gởi gắm của một chủ trang trại nuôi cá tra nọ ở Cần Thơ.

ĐĨNH CHI


Đồng Tháp: Giá đất tăng vọt vì nhiều người tìm mua để nuôi cá.

Nguồn tin: BCT, 12/4/2007
Ngày cập nhật: 12/4/2007

2 tháng qua ngày càng có nhiều người đến Đồng Tháp tìm mua hoặc thuê đất ven sông Hậu để đào ao nuôi cá tra, khiến giá đất tăng lên từng ngày.

Tại các xã thuộc vùng qui hoạch nuôi thủy sản của huyện Lai Vung như: Tân Thành, Tân Phước, Vĩnh Thới, Tân Hòa, Định Hòa giá đất đang biến động mạnh, gây khó khăn cho chính quyền địa phương trong công tác quản lý đất đai các địa phương. Trước đây 1.000m2 đất nông nghiệp giá chỉ 40 đến 60 triệu đồng, nay đã tăng lên trên 120 triệu đồng, có nơi người bán ra giá đến 170 triệu đồng. Ngoài ra tại các vùng chuyên sản xuất hoa màu, trồng lúa như dọc theo tuyến kinh Hồng Ngự - Vĩnh Hưng giá đất cũng đã tăng từ 40 lên 60 triệu đồng/1.000m2. Cùng với cơn sốt giá đất, hiện tượng người dân tự phát đào ao nuôi cá không xin phép cũng đang xảy ra tràn lan.

Tình trạng này đang đe dọa phá vỡ qui hoạch vùng nuôi thủy sản của tỉnh Đồng Tháp.

TRANG NHÃ


Thị trường cá tra nguyên liệu: Người giàu cũng sẽ... khóc?

Nguồn tin: BCT, 9/4/2007
Ngày cập nhật: 12/4/2007

Có thể dễ dàng nhận thấy thời gian gần đây, trong các loại hàng nông - thủy sản xuất khẩu của Việt Nam nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng, không có mặt hàng nào “nổi đình, nổi đám” như con cá tra. Lúc “thăng”, lúc thì “trầm”, lúc nóng không thua... thị trường chứng khoán. Con cá tra nguyên liệu tăng giá từ những tháng cuối năm ngoái, nhất là khi đạt mức trên 17.000 đồng/kg đã tạo nên một hấp lực cho những khát vọng làm tỉ phú. Nhưng những khát vọng này đang chứa đựng nhiều bất ổn và hệ quả của nó đến mức có nhiều dự báo rằng: “Tương lai không xa người giàu rồi cũng sẽ... khóc!”.

“Sau cơn mưa...”

Cuối năm 2006 và những tháng đầu năm 2007, con cá tra ĐBSCL làm cuộc “vượt vũ môn” để đạt mức giá kỷ lục trên 17.000 đồng/kg. Tuy nhiên, sau khi đứng ở mức giá kỷ lục không bao lâu, từ trung tuần tháng 3, giá cá tra nguyên liệu ở ĐBSCL bắt đầu sụt giảm. Sự sụt giảm này làm người ta liên tưởng đến việc giảm giá của con cá tra nguyên liệu những tháng giữa năm 2006. Khi ấy, ở ĐBSCL hầu như các nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu đều ngoảnh mặt với người nuôi cá dù đã có những hợp đồng ký kết tiêu thụ theo tinh thần Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Khi ấy, cá tra nuôi ở Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ... bị chết hàng loạt vì đến kỳ thu hoạch chưa thể bán và do không có chi phí để đầu tư tiếp tục. Hàng ngàn người nuôi cá tra xuất khẩu ở ĐBSCL dở khóc, dở cười. Mức thiệt hại được các ngành hữu quan ước tính lên đến hàng ngàn tỉ đồng.

Nhiều người đang đổ xô vào nuôi cá tra. Ảnh: KH. T

Giống như người ta dự đoán, “sau cơn mưa” thị trường con cá tra ở ĐBSCL đầu năm 2007 bỗng trở nên sáng sủa hơn với những đợt leo thang về giá. Từ ngán ngẩm, giờ đây phong trào nuôi cá tra ở ĐBSCL trở thành mốt. Tuy nhiên, không đợi đến thời điểm bây giờ, mà ngay cả khi con cá tra đồng bằng khổ sở nhất đã có nhiều cảnh báo về sự phát triển thiếu tính bền vững ở nhiều cuộc hội nghị, hội thảo của các ngành hữu quan, trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhưng tất cả đều đâu vào đấy. Thị trường con cá tra nguyên liệu nếu bị thả nổi.

Sẽ rơi vào cảnh cũ?

Ông Dương Tấn Lộc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thủy sản TP Cần Thơ, phân tích: “Trước đây, khi con cá tra ở ĐBSCL rớt giá, chỉ có những đại gia trong làng cá mới có thể trụ nổi để qua được cơn bĩ cực. Khi giá con cá tra đạt mức giá ngất ngưỡng thì tại ĐBSCL, ở đâu cũng vậy nuôi con cá tra luôn là chuyện thời sự. Hộ nuôi cũ tiếp tục đầu tư, người nuôi mới lao vào với giấc mộng làm tỉ phú... Nhưng phong trào nuôi cá tra ồ ạt như hiện nay thiếu cơ sở của tính bền vững”. Ông Lộc nói thêm, hơn năm trước, người nuôi cá tra ở ĐBSCL kỳ vọng giá cá nguyên liệu đạt ở mức từ 13.500 - 14.000 đồng/kg bởi giá thành lúc bấy giờ dao động trên dưới 10.000 đồng/kg.

Còn bây giờ? Nhu cầu và giá đất nuôi cá, con giống, thức ăn, thuốc thú y thủy sản... tăng vùn vụt. Cụ thể, so với trước đây, giá con giống đầu vụ tăng gấp 4 - 6 lần; giá đất nuôi cá tra ở ĐBSCL cũng tăng 2-3 lần; rồi tỷ lệ hao hụt từ trên dưới 15% đã lên đến trên dưới 30%... Chính những lý do này đẩy giá thành của con cá tra nguyên liệu vùng ĐBSCL hiện tại lên ngang tầm với mức giá kỳ vọng của những năm trước - tức 13.500 - 14.000 đồng/kg. Từ cuối năm ngoái và đầu năm 2007, tại ĐBSCL nhiều nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu bắt đầu khởi động, tạo nên sức tiêu thụ về sản lượng ngày càng tăng cho vùng này. Tuy nhiên, trong vòng ba tuần qua, giá con cá tra nguyên liệu đang trên đà sụt giảm. Giá cá tra thịt trắng chỉ còn 16.000 - 16.200 đồng/kg, cá tra nuôi thịt vàng: 15.000 - 15.300 đồng... Theo dự báo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, mức giá này sẽ tiếp tục giảm vì đây mới chỉ bắt đầu của vụ thu hoạch cá tra đông ken.

Hiện nay, người ta ví thị trường con cá tra nguyên liệu, cá tra giống và kể cả đất nuôi cá tra ở ĐBSCL “nóng” không thua gì... thị trường chứng khoán. Rõ ràng trong cái ví von này mọi người cũng đã tiên liệu được những rủi ro, bất trắc từ thị trường con cá tra trong tương lai. Làm gì thoát khỏi “mê hồn trận” chung quanh con cá tra trong khi những quy hoạch, những định hướng, những sự liên kết cùng phát triển... được đánh giá là luôn luôn mò mẫm đi sau diễn biến thực tế và luôn là những chuyện “biết rồi - nói mãi”?. Cũng cần nói thêm rằng, thị trường cá tra của ĐBSCL vẫn còn nhiều cơ hội để phát triển. Bởi theo ông Dương Tấn Lộc, sản phẩm xuất khẩu từ con cá tra, cá ba sa được chiếm ưu thế cạnh tranh về chất lượng và giá cả so với con cá hồi - một đối tượng mà từ lâu đã có chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Điều này được minh chứng ở năm 2006, sản lượng cá tra, cá ba sa ĐBSCL xuất khẩu đạt khoảng 800 ngàn tấn, giá trị trên 700 triệu USD - cao nhất từ trước đến nay. Trên cơ sở này, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam dự đoán trong năm 2007 sản lượng con cá tra, cá ba sa sẽ đạt 1 triệu tấn và kim ngạch xuất khẩu có thể vượt ngưỡng 1 tỉ USD.

Làm gì để đạt được con số lý tưởng trên trong năm 2007 và phát triển tiếp ở những năm sau? Hiệp Hội chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) từng cảnh báo: Cần phải tỉnh táo, thận trọng trước cơn sốt giá của con cá tra. Không nên phát triển nuôi ồ ạt, tự phát có thể dẫn đến những hệ quả không tốt. Uy tín sản phẩm cá tra Việt Nam tùy thuộc nhiều vào chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong quy trình nuôi... đó mới là yếu tố quan trọng để con cá tra đồng bằng phát triển bền vững chứ không phải là lợi nhuận nóng từ những cơn sốt giá.

“Nhà quản lý không nên buông lỏng mặt trận như hiện nay” - ông Dương Tấn Lộc nói. Bởi theo ông, trong bất kỳ tình huống nào (giải quyết bài toán về chất lượng môi trường, bài toán về chất lượng cá giống, chất lượng cá nguyên liệu cho chế biến hay những gắn kết giữ nhà sản xuất và chế biến...) người cầm trịch chỉ có thể là nhà quản lý. “Nếu nhà quản lý quan tâm chưa đúng mức sẽ trả giá cho con cá tra vùng ĐBSCL” - ông Dương Tấn Lộc khẳng định. Còn ông Ngô Phước Hậu, Chủ tịch Ủy ban Cá nước ngọt - Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, cho rằng: “Con cá ở ĐBSCL còn nhiều rủi ro tiềm ẩn, vẫn còn một cái vòng lẩn quẩn. Chẳng hạn như khi giá tăng người dân đổ xô vào nuôi, cơ quan chức năng không kiểm soát được, lại bị thị trường từ chối, cá rớt giá, người nuôi gặp khó khăn. Thực tế đòi hỏi chúng ta phải làm tốt quy trình nuôi, chất lượng, sản lượng, môi trường, chế biến và không ngừng mở rộng thị trường xuất khẩu”.

ĐÔNG TRIỀU


An Giang: Đua nhau nuôi cá tra, đất bãi bồi tăng giá

Nguồn tin: AG, 10/4/2007
Ngày cập nhật: 12/4/2007

Những vùng đất bãi bồi ven sông Tiền, sông Hậu ở tỉnh An Giang đang được nhiều doanh nghiệp và các đại gia nuôi cá tra “săn” mua ráo riết. Tình trạng này khiến giá đất tăng gấp 3-4 lần so với năm ngoái.

Cụ thể: giá đất vùng bãi bồi ở Hòa Lạc và Phú Bình (huyện Phú Tân) năm trước giá chỉ 25 triệu đồng/công (1.000m2) nay đã tăng lên 70-100 triệu đồng/công. Riêng các vùng đất bãi bồi thuộc dự án quy hoạch nuôi thủy sản của tỉnh và các địa phương thì các đại gia rất khó chen chân với các doanh nghiệp.

Theo tính toán của nhiều người nuôi cá tra, một chiếc bè nuôi được 100 tấn cá thịt cần vốn đầu tư tới 600 triệu đồng. Trong khi đó, chỉ cần bỏ ra 200 - 300 triệu đồng có thể mua được 2.500m2 đất bãi bồi để đào ao cũng nuôi được 100 tấn cá. Giá thành nuôi cá tra bè cao hơn nuôi ao hầm 1.000đ/kg nhưng giá bán lại thấp hơn 1.000đ/kg, chưa kể tình trạng dịch bệnh, hao hụt cá nuôi bè thường cao hơn nuôi ao hầm.

Hiện nay, giá cá tra nuôi ao hầm tại An Giang đứng ở mức cao: 16.500 - 17.000đ/kg, khiến nhiều người tiếp tục đổ xô mua đất đào ao nuôi cá.

HÒA BÌNH


Đồng bằng sông Cửu Long: Quá đà với cá tra

Nguồn tin: Lao Động, 12/04/2007
Ngày cập nhật: 12/4/2007

Đổ xô tranh mua đất bãi bồi, thậm chí còn bỏ cả núi tiền mua vườn cây ăn trái rồi chặt bỏ để đào hầm nuôi cá. Tất cả dường như không thể dừng lại được tham vọng "lên đời" với con cá sau những ngày tháng lận đận lại đang vươn lên đứng ở chót vót lợi nhuận. Liệu sự quá đà này có trượt theo vết xe đổ của làn sóng chạy theo con bò, con dê hay cây càphê, nhãn, xoài... trước đây: Tranh đua ở đầu vào rồi gục ngã thảm hại ở đầu ra?

Làm giàu tốc hành

Tháng 4, mùa vụ đang cận kề, nhưng nhiều người dân vùng cù lao như vẫn đang ở ngoài cuộc. Tại Mỹ Hoà Hưng (Long Xuyên), Hoà Bình (Chợ Mới - An Giang), Tân Lộc (Thốt Nốt - Cần Thơ), rồi Châu Thành, Cao Lãnh, Hồng Ngự, Thanh Bình (Đồng Tháp), đã thưa dần những cuộc bàn luận đồng áng. Thay vào đó là những thông tin nóng hổi về con đường làm giàu ngắn nhất như câu chuyện về sự kỳ diệu của đôi hài vạn dặm trong chuyện cổ tích.

Dù đã chuẩn bị khá đầy đủ thông tin trước lúc lên đường, nhưng tôi vẫn choáng ngợp với giá đất trong những ngày người người, nhà nhà tranh nhau đào hầm nuôi cá tra, đẩy giá đất cao ngất trời.

Tại cù lao Tân Lộc, giá đất có vị trí tốt đã vượt ngưỡng 200 triệu đồng/công (1.000m2), thậm chí có nơi lên đến 280 triệu đồng/công. Tương tự, các vùng bãi bồi ở An Giang giá đất cũng ngất ngưởng ở mức trên 250 triệu đồng/công.

Vì vậy thay vì phải chịu cảnh một nắng hai sương với lợi nhuận bấp bênh từ củ khoai hột lúa, nhiều người đã chọn lựa sự "đổi đời" chớp nhoáng từ việc chuyển quyền sở hữu mảnh ruộng, vườn của mình.

Thế là từ đầu nguồn An Giang, Đồng Tháp đến tận cuối nguồn Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang... đã rộ lên phong trào bán đất đào hầm. Chỉ tính riêng xã An Hiệp (Châu Thành - Đồng Tháp) diện tích đào hầm mới đã lên đến trên 50ha và đã thoả thuận xong giá khoảng 80ha.

Không chỉ có đất tốt, mà ngay cả vùng đất "chết", sạt lở đe doạ hàng năm giờ cũng được nhiều người tranh mua. Ông Phan Thanh Dư - Phó Chủ tịch UBND xã An Hiệp - tỏ rõ ngạc nhiên: "Lâu nay chúng tôi xem địa bàn ấp An Thạnh như vùng "đất chết", bởi mỗi năm sạt lở lấy đi 5-7ha, vậy mà bây giờ nhiều đại gia đến tranh mua với giá cả chục triệu đồng/công".

Trước tốc độ phát triển phi mã của việc đào hầm nuôi cá, nhiều địa phương đã ra quyết định hạn chế tình trạng chuyển đổi đất sai mục đích. Thậm chí ở An Giang, Đồng Tháp còn buộc khôi phục lại hiện trạng như trước khi đào bới.

Tuy nhiên, trên thực tế, việc đào hầm cứ như con ngựa bất kham. Dọc theo sông Tiền, sông Hậu, những bãi đất xanh màu cây trái ngày nào, giờ được thay bằng hình ảnh của đại công trường hầm nối hầm. Chỉ tính riêng tại hai tỉnh An Giang, Đồng Tháp, diện tích hầm cá mới đào đã lên đến 600ha và con số này sẽ còn tiếp tục tăng.

Còn tại An Giang, tuy áp dụng mức phạt lên đến hàng chục triệu đồng, nhưng trên thực tế việc đào hầm cũng vượt khỏi tầm kiểm soát của cơ quan chức năng.

Ông Dương Nghĩa Quốc - Phó GĐ Sở NNPTNT - thừa nhận: "Với mức giá trên dưới 17.000 đồng/kg, người nuôi lãi khoảng 6.000 đồng/kg, quả là cú hích mạnh. Vì vậy can thiệp bằng biện pháp hành chính lúc này không phải cách làm hiệu quả".

Trong khi đó, các cơ quan quản lý nhà nước cơ sở lại lúng túng với khâu xử lý. Ông Nguyễn Thanh Liêm - Phó Chủ tịch UBND xã Mỹ Hoà Hưng, một điểm nóng đào hầm của TP.Long Xuyên - bức xúc: Ban ngày, họ ém binh bất động để "né" lực lượng kiểm tra. Khi màn đêm xuống, mới tiến hành đào bới nên rất khó".

Còn tại Đồng Tháp, nhiều địa phương lại khá mâu thuẫn trong khâu xử lý, khi một mặt vừa lập biên bản vi phạm, một mặt lại đề xuất tỉnh mở rộng vùng quy hoạch để "hợp thức" trường hợp lỡ đào.

Ông Nguyễn Thành Sang - Phó Chủ tịch UBND huyện Châu Thành - bộc bạch: "Thấy dân đào nhiều hầm thì ra quyết định hạn chế, thì nhiều khi không phát huy hết tiềm năng của đất bãi bồi. Bởi đến nay, chúng ta vẫn chưa có căn cứ giới hạn cho từng vùng nuôi cụ thể để cơ quan chức năng làm cơ sở thuyết phục người dân chấp hành".

Đổ tiền tỉ vào vết xe đổ

TS Nguyễn Tri Khiêm - Trưởng khoa Kinh tế-Quản trị kinh doanh, ĐH An Giang - nhấn mạnh: "Đến nay, chúng ta vẫn chưa có khảo sát được nhu cầu tiêu dùng cá tra trên thị trường nước ngoài như thế nào, mà sự trồi sụt liên hồi của con cá tra trong thời gian qua là minh chứng. Vì vậy, việc đổ xô nhau nuôi tự phát càng làm gia tăng nguy cơ rủi ro".

Theo TS Khiêm, nếu không có biện pháp điều tiết hữu hiệu, nhiều khả năng con cá tra sẽ trượt theo vết xe đổ của cây càphê.

Ông Nguyễn Thành Sang - Phó Chủ tịch UBND huyện Châu Thành (Đồng Tháp) - âu lo: Khi trái ổi có giá, nhiều người đổ xô nhau phá đất lúa lên vườn trồng ổi. Sau đó, thấy nhãn có giá hơn lại ùn ùn chặt ổi trồng nhãn. Công sức, tiền của bao năm trời bỗng chốc trở thành con số không. Rồi bây giờ đến khi cá tra có giá, họ lại phá bỏ vườn nhãn để lên hầm nuôi cá".

Theo giới chuyên môn, nếu cứ sản xuất chạy theo đuôi kiểu này, chuyện vỡ nợ của người nuôi cá chỉ là vấn đề thời gian, bởi phần lớn đều là "lính mới".

GS-TS Võ Tòng Xuân - Hiệu trưởng ĐH An Giang - đau đáu: Đành rằng sau khi bán đất, nhiều nông dân trở thành triệu phú, nhưng chẳng chóng thì chày, họ sẽ chới với cái túi rỗng. Bởi với thực trạng hiện nay, rời bỏ đất là nông dân mất tất cả.

Lục Tùng


Phú Yên: Tôm hùm chết hàng loạt do sự cố tràn dầu

Nguồn tin: TN, 11/4/2007
Ngày cập nhật: 11/4/2007

Ngày 10/4, Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện Tuy An (Phú Yên) cho biết: Tại khu vực nuôi tôm trồng thủy sản đảo Lao Mái Nhà thuộc huyện này hiện còn hơn 1,5 tấn dầu đóng cục chưa được thu gom. Một lượng lớn dầu này trôi tấp vào các lồng nuôi tôm hùm của bà con xã An Hải đã làm cho hàng trăm con tôm hùm thịt từ 1 đến 1,5 tháng tuổi bị chết.

Hiện Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện và chính quyền xã An Hải đang huy động tàu thuyền và nhân lực đến khu vực nói trên để thu gom số dầu đóng cục trôi tấp vào đây, đồng thời giúp hộ nuôi tôm hùm di dời lồng tôm nuôi đến nơi an toàn. Dọc bờ biển Phú Yên hiện vẫn còn hàng chục tấn dầu chưa được thu gom. Nếu những ngày tới không giải quyết triệt để sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nuôi trồng thủy sản tại các huyện ven biển của tỉnh.

Trình Kế


Long An: Gần 2.000 ha tôm sú bị thiệt hại

Nguồn tin: BCT, 11/4/2007
Ngày cập nhật: 11/4/2007

Tính đến nay, tỉnh Long An đã thả nuôi hơn 4.300 ha tôm sú vụ I năm 2007, đạt hơn 75% kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, đã có gần 2.000 ha tôm sú bị thiệt hại vì bệnh thân đỏ và có đốm trắng. Huyện có diện tích thiệt hại nhiều nhất là Cần Đước (hơn 1.000 ha), Cần Giuộc (670 ha), Châu Thành (118 ha), Tân Trụ (90 ha). Nguyên nhân tôm chết do người dân tranh thủ thả tôm giống sớm để mong bán được giá cao nên đã thả tôm giống kém chất lượng, không được kiểm dịch. Để đảm bảo kế hoạch thả nuôi 9.250 ha tôm sú năm 2007, tỉnh Long An kiên quyết tiêu hủy các lô tôm giống kém chất lượng; xử lý chủ hoặc người điều khiển phương tiện vận chuyển tôm sú giống nhập tỉnh không có giấy chứng nhận kiểm dịch tại nơi xuất và không thực hiện kiểm dịch tôm sú giống nhập tỉnh.

MỸ PHƯỚC


Thừa Thiên - Huế: Tôm nuôi chết hàng loạt do bệnh đốm trắng

Nguồn tin: SGGP, 10/04/2007
Ngày cập nhật: 11/4/2007

Tin từ Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Thừa Thiên - Huế cho biết, dịch bệnh tôm đang xuất hiện đồng loạt tại khu vực ven đầm Cầu Hai lây lan ở 14 xã của 2 huyện Phú Vang, Phú Lộc. Tại huyện Phú Vang, dịch bệnh đốm trắng đã xảy ra trên 7 xã (Phú Đa, Vinh Hà, Phú Xuân, Phú Diên, Vinh Xuân, Vinh Thanh, Vinh An) với diện tích 9,55ha hồ nuôi, làm chết 265 vạn con tôm giống vừa thả nuôi từ 5 đến 20 ngày tuổi.

Tại huyện Phú Lộc dịch bệnh tôm đã xảy ra trên diện tích 11,5ha hồ nuôi ở các xã Lộc Bình, Lộc Điền, Vinh Hưng, Vinh Giang, Vinh Hiền. Trong đó chỉ có khoảng 2,5ha xác định được do bệnh đốm trắng số còn lại chưa xác định rõ nguyên nhân dịch bệnh.

PH.L. - NG.Q.


An Giang: Ngưng đào ao nuôi cá tra; giá cá tra ở ĐBSCL giảm mạnh

Nguồn tin: SGGP, 10/04/2007
Ngày cập nhật: 11/4/2007

Chiều 9- 4, trao đổi với phóng viên Báo SGGP, ông Huỳnh Thế Năng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang cho biết: UBND tỉnh vừa có văn bản chỉ đạo ngành thủy sản, các huyện, thị, thành phố… đình chỉ ngay việc đào ao nuôi cá tra tràn lan ngoài quy hoạch trên địa bàn tỉnh - nguy cơ dẫn đến phá hủy môi trường.

Theo đó, An Giang tiến hành kiểm tra lại các vùng nuôi cá trọng điểm hướng dẫn xử lý môi trường, nguồn nước. Tổ chức đăng ký bổ sung, buộc những hộ nuôi mới phải dành 1/4 diện tích xử lý môi trường. Không phát triển diện tích ào ạt, mà tập trung nâng chất lượng cá.

* Liên tục những ngày qua, giá cá tra ở ĐBSCL giảm mạnh. Chiều 9-4, cá tra nuôi hầm thịt trắng chỉ còn 15.500 - 15.800đ/kg, bình quân giảm 1.000 - 1.200đ/kg so với tháng trước. Theo các nhà máy chế biến thủy sản, hiện tại lượng cá đến lứa thu hoạch tăng lên, là một trong những nguyên nhân khiến cá giảm giá.

H.P.L


Giá nghêu rớt thê thảm; hàng chục ngàn ha tôm sú ở ĐBSCL khốn đốn

Nguồn tin: SGGP, 11/04/2007
Ngày cập nhật: 11/4/2007

Chiều 10-4, bà Trần Thị Thu Nga, Phó Giám đốc Sở Thủy sản Bến Tre, cho biết: “Sở đang phối hợp cùng các ngành liên quan tìm giải pháp hạn chế thiệt hại của đợt dầu loang mới đang xuất hiện ở vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu.

Theo đó, khuyến cáo các bãi nghêu khẩn trương thu hoạch nghêu thịt đến tuổi càng nhanh càng tốt. Đối với nghêu nhỏ di dời ngay đến nơi an toàn, tránh các cửa sông, bãi cạn…”. Cái khó hiện nay là giá nghêu sụt chỉ còn 8.000 - 9.000 đồng/kg, nhưng thương lái ít mua. Chỉ tính riêng bãi nghêu Rạng Đông (Bình Đại), những ngày qua trên 2.500 tấn nghêu bị chết, thiệt hại khoảng 30 tỷ đồng.

Hiện tại, hàng chục ngàn ha tôm sú ở ĐBSCL đang khốn đốn vì dầu loang, do nguồn nước bị ô nhiễm không lấy vào ao tôm được.

H.P.L. – N.T.


Sản xuất thành công giống cá vược nhân tạo

Nguồn tin: TT, 10/04/2007
Ngày cập nhật: 11/4/2007

Sau hơn 10 năm (1996 - 2007) nghiên cứu và thử nghiệm đề tài “Quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá vược”, nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Thuỷ sản đã tìm ra quy trình kỹ thuật sản xuất được giống cá vược nhân tạo.

Công trình này mở ra triển vọng phát triển mạnh mẽ công tác nghiên cứu ứng dụng để xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất giống các loài cá biển khác có giá trị kinh tế cao bằng con đường sinh sản nhân tạo.

Tiến sỹ Nguyễn Hữu Dũng, Trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: Nhóm đã hoàn thiện được quy trình kỹ thuật nuôi vỗ cá vược bố mẹ (còn được gọi là “cá chẽm” tại các tỉnh phía Nam) trong hệ thống lồng nuôi trên biển và bể xi măng nước chảy tuần hoàn với hệ thống lọc sinh học. Tỷ lệ cá có thể tham gia sinh sản đạt 100%.

Trong quá trình nghiên cứu, nhóm cũng đã hoàn thiện được các quy trình kỹ thuật như quy trình kỹ thuật nuôi thu sinh khối 3 loài vi tảo và luân trùng Brachionus plicatilis phù hợp điều kiện tự nhiên và trang thiết bị thô sơ của sản xuất nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam; quy trình kỹ thuật ấp nở trứng cá, ương nuôi cá bột cá vược thành cá giống quy mô sản xuất thương mại với tỷ lệ sống đạt 38% sử dụng chủ yếu các loại thức ăn sống. kích thích cá vược sinh sản tự nhiên trong hệ thống bể xi măng với hệ thống lọc sinh học bằng việc sử dụng kích dục tố (tỷ lệ đẻ trứng đạt 100%) hoặc kích thích bằng các yếu tố sinh thái (tỷ lệ đẻ trứng đạt 95%).

Trên cơ sở sản xuất thành công, nhóm triển khai thực nghiệm và quảng bá mô hình luân canh tôm sú - cá rô phi - cá vược trong hệ thống ao đìa nuôi tôm ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Mô hình này nhằm giải quyết có hiệu quả tác động tiêu cực của nghề nuôi tôm sú với môi trường do việc thải các chất hữu cơ sau mỗi vụ nuôi tôm. Trong mô hình này, cá rô phi có vai trò tiêu thụ chất hữu cơ tích tụ trong ao nuôi tôm và là nguồn thức ăn cho cá vược, loài cá có giá trị kinh tế cao gấp nhiều lần so với cá rô phi.

Từ năm 2004 đến nay, nhóm đã sản xuất được hơn 2 triệu cá giống có chiều dài từ 2- 3 cm, trong đó đã cung cấp miễn phí 300 nghìn con cho Trại thực nghiệm Nuôi trồng thuỷ sản thuộc Trường trung học thuỷ sản IV tại Quảng Ninh, Trung tâm khuyến ngư các tỉnh Thái Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bạc Liêu và Cà Mau. Số giống còn lại đã cung cấp cho người nuôi trồng ven biển từ quảng Ninh đến Kiên Giang.

Nhiều hộ nuôi ở Cam Ranh (Khánh Hoà) đạt lợi nhuận từ 70 đến 100 triệu đồng/ha sau 7 - 8 tháng nuôi thương phẩm theo mô hình luân canh với tôm sú và cá rô phi. Từ thành công này, nhiều địa phương khác trong cả nước tiếp tục đề nghị chuyển giao công nghệ sản xuất giống cá vược bằng con đường sinh sản nhân tạo để có thể tự sản giống tại địa phương đảm bảo chất lượng giống cung cấp cho người nuôi trồng thủy sản.

Hoàng Minh Nguyệt (TTXVN)


“Chết chìm” bè cá An Giang

Nguồn tin: TT, 07/04/2007
Ngày cập nhật: 11/4/2007

Ở miền Tây nói đến Châu Đốc - An Giang là người ta nhớ ngay đến nghề nuôi cá bè. ông Ba Danh (Phan văn Danh, chủ tịch Hiệp hội Nghề nuôi và chế biến thủy sản An Giang) nói hồi ông 6-7 tuổi đã thấy trên sông Hậu đoạn chảy qua Châu Đốc có bè nuôi cá.

Năm nay ông đã 66 tuổi, như vậy nghề nuôi cá bè của An Giang đã có tuổi đời trên 60 năm. Làng bè Châu Đốc còn được du khách quốc tế quan tâm đặc biệt vì coi đó là nét độc đáo của văn minh sông nước VN. Vậy mà chỉ trong ba năm gần đây làng bè An Giang “chết chìm” trên sông Hậu, chết một cách tức tưởi vô phương cứu vãn. “Thấy làng bè chết ngay trước mắt mà không làm cách gì cứu được, vậy mới đau!” - ông Ba Danh bùi ngùi nói.

Sông Hậu mùa này nước trong xanh chảy lững lờ. Đứng dưới hân tượng đài tôn vinh cá ba sa ở công viên đường Lê Lợi (thị xã Châu Đốc) nhìn về hướng làng bè vẫn thấy hàng trăm mái tôn nhấp nhô bắt nắng sáng loáng trên sông. Nhưng ông Hai Nghiệp, một người nuôi cá bè kỳ cựu trên sông Hậu nay đã giải nghệ, nói giọng buồn buồn: “Làng bè Châu Đốc - An Giang đã hết thời. Bè còn đó nhưng bảy phần mười đã bị ngân hàng quản lý để xiết nợ. Số còn lại cũng không mấy người dám liều mình tiếp tục nuôi cá”. “Cuốn phim” đầy những sự kiện buồn vui của làng bè đang chiếu chậm trong trí não ông Hai Nghiệp...

Hết thời oanh liệt

Ông Hai Nghiệp nói hồi thập niên 1970 của thế kỷ trước, lúc sông Hậu mới loe hoe vài chục chiếc bè thì dân làng bè chỉ nuôi rặt cá lóc bông. Sau đó họ chuyển sang nuôi cá mè vinh, cá he, cá hú... và sản phẩm chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa. Mãi đến đầu thập niên 1990 “quân số” làng bè Châu Đốc mới có 560 chiếc bè với sản lượng cá nuôi khoảng 2.300 tấn. Nhưng chỉ trong mười năm từ 1990-2000, làng bè Châu Đốc “bùng nổ” với số lượng hơn 4.200 chiếc lớn nhỏ, neo đậu chen kín bờ sông Hậu từ Tân Châu đến tận Long Xuyên.

Đó là thời vàng son của nghề nuôi cá bè, vì lúc đó cá ba sa xuất khẩu đang hút hàng nên mọi người đổ xô đóng bè nuôi cá. Những chủ bè có 1-2 chiếc thì gom vốn đóng thêm, người chưa từng nuôi cá cũng bằng mọi cách vay vốn ngân hàng, vay nợ lãi suất cao bên ngoài để đóng bè nuôi cá. Thời điểm đó giá đóng một chiếc bè là cả một gia tài: bè nhỏ nuôi khoảng 100 tấn cá giá không dưới 200 triệu đồng, bè lớn (150-200 tấn cá) giá 500-800 triệu đồng/chiếc bởi phải đóng bằng các loại danh mộc (sao, cà chất) và sử dụng đinh đặc biệt chống gỉ sét.

Ông Hai Nghiệp nói: “Hồi đó người ta nói An Giang là xứ giàu có nhờ lúa mà chưa thấy ai trồng lúa trở thành tỉ phú. Nhưng mấy ngàn ông chủ bè ở An Giang là mấy ngàn ông tỉ phú. Châu Đốc, An Phú lúc ấy là xứ của tỉ phú”. Người dân An Phú, Châu Đốc hiện nay vẫn còn nhớ như in cảnh những ông chủ bè cá xài tiền theo kiểu ngắt khúc không cần đếm, mua canô chạy xé nước sông Hậu để đi nhậu; sống bập bềnh trên nhà bè nhưng chồng một chiếc Dream Thái, vợ chiếc Spacy, nhà bè trang bị đầy đủ tiện nghi như một biệt thự cao cấp.

Nhưng thời vàng son oanh liệt mau chóng lụi tàn. Năm 1996 cả làng bè tồn đọng 8.000 tấn cá ba sa, các chủ bè đành chịu lỗ, bán 4.000-5.000 đồng/kg cá cho doanh nghiệp chế biến. Sau đó làng bè bỏ con cá ba sa, gượng dậy với nghề nuôi cá tra. Cuối năm 2000 đến lượt con cá tra điêu đứng, làng bè tồn đọng hơn 20.000 tấn cá tra phải bán đổ bán tháo.

Và từ năm 2000-2003 cá tra nuôi bè bắt đầu lép vế trước con cá tra nuôi hầm vì mỡ nhiều, tỉ lệ phi lê thấp, chi phí nuôi quá cao, thường bị bệnh chết ồ ạt và bị doanh nghiệp chế biến thu mua với giá thấp hơn giá thành sản xuất 20-30%. Nhiều năm liền trắng tay, làng bè Châu Đốc - An Giang thật sự suy sụp và những tỉ phú một thời oanh liệt lâm cảnh chồng chất nợ nần. Hàng loạt nhà bè bị các ngân hàng quản lý, phát mãi đề trừ nợ vay, hàng trăm tỉ phú như ông B., ông Út L. Ba Th., Tư Đ., Hai B... phải rời bỏ quê hương xứ sở dắt díu gia đình tha phương cầu thực với hai bàn tay trắng vì tiền bạc, tài sản đã đội nón ra đi theo con cá tra bè.

Ông Dương Bình Luận, chấp hành viên của Đội thi hành án huyện An Phú, cho biết trong quá trình điều tra kê biên nhà bè để thi hành án cho các ngân hàng, ông đã chứng kiến rất nhiều tỉ phú ngày xưa giờ phải làm đủ thứ nghề để kiếm cơm từng bữa nuôi vợ nuôi con, đói lên đói xuống. Theo thống kê của Sở Thủy sản An Giang, đến đầu tháng 3-2007 tổng số nhà bè trên địa bàn tỉnh chỉ còn 2.237 chiếc (1.600 chủ bè), giảm khoảng 2.000 chiếc so với hồi nghề nuôi cá bè đang thịnh, nhưng phần lớn đã bị các ngân hàng quản lý để thu hồi nợ và số bè còn thực nuôi cá cũng không nhiều.

Ông Trần Văn Ánh, trưởng phòng tổng hợp Ngân hàng Nhà nước VN (chi nhánh An Giang), cho biết tỉ lệ cho vay nuôi cá bè chỉ bằng 50% giá trị tài sản thế chấp, nhưng hiện nay số nợ của các chủ bè với các ngân hàng thương mại trong tỉnh là gần 100 tỉ đồng và khả năng thu hồi rất thấp do không phát mãi được bè cá vì... không ai thèm mua.

"Xẻ thịt" bè cá

Từ khi làng bè suy sụp, hết thời thì ở An Giang xuất hiện một nghề mới: nghề xẻ thịt bè cá. Ngoài bãi “xẻ thịt bè cá” bán phế liệu khá nổi tiếng của bà Tám Điểm ở ấp Phước Thọ, xã Đa Phước, huyện An Phú thì suốt dọc sông Hậu xuất hiện rất nhiều thợ rã bè. Minh, một thợ “xẻ thịt” bè cá khá nổi tiếng trên sông Châu Đốc cho biết không phải bè nào thợ cũng mua.

“Sau khi khảo sát kỹ, thấy chất lượng gỗ bè còn khỏang 70%-80% tụi tui mới chấp nhận mua. Nhưng giá thu mua chỉ bằng 10%-20% giá đóng bè vì đa số bè cá rả ra chỉ bán đồ phế liệu và gỗ... nghĩa địa (gỗ đã qua sử dụng)”. Mặc dù gỗ bè cá sau khi rả gần như còn mới nguyên nhưng tuyệt nhiên không có ai mua về cất nhà vì... kiêng cữ, gỗ bè chỉ bán đựơc cho những người sửa chửa ghe thuyền, làm sàn nước.

Minh nói, một chiếc bè cá từ khi xẻ thịt đến lúc bán xong mất... vài ba tháng bởi chỉ bán đựơc từng món một nên bè kêu bán thì nhiều nhưng thực tế người mua để xẻ thịt thì chẳng bao nhiêu. Ông Dương Bình Luận xác nhận: trong 100 vụ phát mãi bè cá để thi hành án thì chưa đầy 10 vụ bán đựơc bè nhưng với giá rất thấp, không đủ để chủ bè trả nợ nên phần lớn bè bán xong mà chủ bè vẫn còn nợ ngập đầu.

Khi làng bè An Giang, Châu Đốc “chết chìm” trên sông Hậu nhiều người mới giật mình: lâu nay làng bè là một trong những “đặc sản” của vùng Châu Đốc, Thất Sơn - Bảy Núi. “Làng bè ngòai vấn đề kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động còn là nét văn hóa đặc sắc của Châu Đốc, An Giang, là một góc văn minh sông nước miệt vườn.

Mất làng bè là An Giang mất một hình ảnh truyền thống hơn nữa thế kỷ tuổi đời”, ông Ba Danh ngậm ngùi nói. Không muốn mất làng bè nhưng làm gì để giữ được làng bè truyền thống vẫn là một bài toán khó đối với An Giang. Bà Phan thị Yến Nhi, phó giám đốc Sở Thủy sản An Giang, nói hiện nay đang là thời kỳ hòang kim của nghề nuôi cá tra hầm: cá tra hầm giá thành sản xuất thấp, tỉ lệ phi lê cá hầm cao hơn cá bè nên khôi phục nghề nuôi cá bè gần như là chuyện bất khả thi.

Bà nói: “Cố gắng giữ đựơc chừng nào hay chừng đó. Theo tôi muốn khôi phục nghề nuôi cá bè cần phải khôi phục nghề nuôi cá basa gắn với phục vụ du lịch, cụ thể là khuyến khích chủ bè vừa nuôi cá vừa chế biến các món ăn từ cá basa tại bè phục vụ du khách”.

Tuy nhiên muốn khôi phục nghề nuôi cá bè thì các chủ bè phải cần có vốn đầu tư trong khi hiện nay ngân hàng nghe nói tới chủ bè đều... chạy dài, chỉ chấp nhận cho vay vốn nuôi cá tra hầm. “Nếu nghề nuôi cá tra hầm không xuất hiện thì nghề nuôi cá tra bè vẫn tồn tại và phát triển. Không phải chúng tôi chê chủ bè không biết làm ăn nhưng nói thật xu thế hiện nay không cho phép chúng tôi đầu tư vào nghề nuôi cá bè vì tỉ lệ rủi ro quá cao. Hiện tại số nợ quá hạn của các chủ bè không thể thu hồi vẫn đang là gánh nặng đối với ngân hàng”, ông Trần văn Ánh nói.

Và trước sự quay lưng của ngân hàng, chuyện khôi phục làng bè và nghề nuôi cá bè ở An Giang, Châu Đốc ngày càng mờ mịt.

HÙNG ANH


Bán thủy sản VN tại hội chợ lớn nhất thế giới

Nguồn tin: VNN, 09/04/2007
Ngày cập nhật: 10/4/2007


Đồng bằng sông Cửu Long: Thủy sản chết vì dầu tràn

Nguồn tin: TN, 10/04/2007
Ngày cập nhật: 10/4/2007

Đã nửa tháng trôi qua kể từ lúc phát hiện dầu thô trôi dạt vào bãi biển Bạc Liêu, chính quyền địa phương đang lúng túng trong việc xử lý trong khi tác hại của dầu tràn lên môi trường và đời sống người dân ven biển đã đến mức báo động. Hai biện pháp chủ yếu được tỉnh Bạc Liêu đề ra là: tập trung thu gom dầu và bí nước để hạn chế dầu tràn vào hệ thống thủy nông nội đồng. Tuy nhiên, nhiều nơi thủy sản đã bắt đầu chết.

Tại Hợp tác xã (HTX) Long Hải, xã Long Điền Đông, huyện Đông Hải (Bạc Liêu), nghêu trồi lên mặt nước và đã chết rải rác. Ông Huỳnh Việt Khái, Phó phòng Tài nguyên - Môi trường (TN-MT) huyện Đông Hải cho biết, trên 1.000 ha bờ biển được quy hoạch nuôi nghêu, tình trạng này khiến hàng ngàn hộ dân nghèo ở đây sẽ gặp khó khăn. Các hộ dân ven biển chuyên đi đánh lưới ghẹ, cá, tôm cho biết lượng cá tôm đã ít dần đi. Hiện tượng dầu tràn được phát hiện tại huyện Đông Hải từ ngày 20.3, ở vùng ven biển các xã Long Điền Đông, Long Điền Tây, thị trấn Gành Hào. Chính quyền địa phương vận động bà con đi thu gom và cảnh báo các hộ dân nuôi tôm không nên lấy nước vào vuông vì sợ dầu theo vào.

Tại huyện Hòa Bình, huyện đã vận động người dân và các lực lượng đoàn thể thu gom được trên 5 tấn dầu thô, nhưng chỉ là một phần nhỏ vì khó thu gom được dầu tràn ăn sâu vào các dãy rừng phòng hộ ven biển. Ông Khưu Lễ, Phó giám đốc Sở TN-MT tỉnh Bạc Liêu cho biết: do dầu tràn, sợ nghêu chết nên người dân tại HTX Vĩnh Hậu phải đổ xô thu hoạch nghêu. Tuy nhiên do số lượng nghêu thu hoạch quá lớn nên giá nghêu từ 10.000 đồng/kg chỉ trong 1 ngày đã hạ xuống còn 3.000 đồng/kg. Tình cảnh này cũng xảy ra ở các hộ dân tại xã Lai Hòa, xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Tại Cà Mau, dầu đã lẫn vào tôm cá của các hộ dân đánh bắt ven biển, Sở Thủy sản tỉnh Cà Mau đã khuyến cáo người dân không nên bán tôm cá có lẫn dầu. Lượng dầu thô trôi dạt vào ven biển các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng chủ yếu theo con nước lớn và gió theo hướng Đông bắc. Các ngành chức năng khuyến cáo người dân ven biển nên "tăng cường quan sát", nếu phát hiện có dầu thô trôi dạt thì... báo cho chính quyền để tổ chức gom (!).

Sân nghêu Thới Thuận do HTX Rạng Đông quản lý là sân nghêu lớn nhất Bến Tre với 900 ha đang "lãnh đủ" hậu quả của dầu tràn. Ông Nguyễn Quốc Dũng, Chủ nhiệm HTX Rạng Đông cho biết, từ khi có dầu loang xuất hiện đã có hai đợt nghêu chết. Đợt đầu tiên (12 - 16.3) nghêu chết tập trung ở đầu doi Thới Bình, ước thiệt hại 100 tấn. Đợt hai từ rạng sáng 27.3 là nặng nhất khi nghêu chết trên diện tích rộng 600 ha, tập trung từ cửa sông Ba Lai đến đầu doi Thới Bình, ước thiệt hại lên đến 2.500 tấn nghêu, tương đương 20 tỉ đồng. Đến ngày 4.4, nghêu vẫn tiếp tục chết, tổng thiệt hại có thể lên đến 30 tỉ đồng. Được biết, HTX có đi thu gom nhưng chỉ được khoảng vài ký dầu vón cục còn đa phần dầu loang nên đành bó tay. Trong khi đó tại HTX Đồng Tâm, xã Thừa Đức, huyện Bình Đại (Bến Tre), nơi có sân nghêu rộng 800 ha nằm gần sông Cửa Đại, cách đây 10 ngày cũng có xuất hiện dầu vón cục dọc 4 km bờ biển, nhưng chưa thấy xuất hiện dầu loang nên nghêu tại HTX Đồng Tâm chết chỉ chiếm 1-2%.

Sở Thủy sản Bến Tre đã khuyến cáo các HTX, cơ sở nuôi nghêu nên tập trung thu hoạch nhanh những sân nghêu đạt kích cỡ thương phẩm, di dời những bãi nghêu có nguy cơ dầu loang sang các khu vực an toàn, nếu phát hiện dầu xuất hiện trên bãi phải thu gom làm sạch bãi nghêu, các hộ nuôi tôm gần cửa biển cần đóng cống, không nên lấy nước nuôi tôm vào thời điểm này. Trong thời điểm hiện tại, giá nghêu thì liên tục rớt giá, từ 16.000 đồng/kg (loại 40 con) đã rớt xuống còn 7.000-8.000 đồng/kg.

Tiến trình - Lữ Hoàng


An Giang: Việc đào ao nuôi cá không chỉ đơn thuần là phá vỡ quy hoạch thủy sản…

Nguồn tin: AnGiang, 9/4/2007
Ngày cập nhật: 10/4/2007

P.V: Thưa đồng chí, thời gian gần đây ở khu vực ĐBSCL, do giá cá tra, cá basa nguyên liệu đứng ở mức cao nên dẫn đến việc có nhiều tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự phát đào ao nuôi cá với quy mô lớn. Đối với tỉnh ta thực trạng này diễn ra như thế nào ?

Đồng chí Huỳnh Thế Năng (H.T.N): Cùng với một số tỉnh của ĐBSCL, An Giang cũng đã xảy ra tình trạng nhiều tổ chức, cá nhân và gia đình tự phát đào ao nuôi cá với quy mô lớn trên địa bàn tỉnh thời gian gần đây. Theo thống kê chưa đầy đủ, đến giữa tháng 3-2007 toàn tỉnh đã phát sinh đào ao nuôi cá mới trên 200 ha (thực tế còn nhiều hơn), trong đó khoảng 75% ha nuôi cá nằm ngoài quy hoạch. Nhiều diện tích ao nuôi cá mới thậm chí nằm trong vùng quy hoạch nuôi tôm dẫn đến sự xung đột lợi ích của những người nuôi trồng thủy sản khác; rất nhiều hộ nuôi cá không đảm bảo điều kiện về vệ sinh môi trường trong nuôi trồng thủy sản cũng như không đảm bảo các thủ tục về sử dụng đất đúng mục đích,... Việc xảy ra tình hình như nêu trên còn do sự quản lý rất yếu kém của các cấp chính quyền và các Sở, ngành cấp tỉnh.

P.V: Theo đồng chí, thực trạng trên sẽ dẫn đến nguy cơ và hậu quả như thế nào ?

Đ/c H.T.N: Thực trạng trên nếu tiếp tục xảy ra sẽ dẫn đến việc phát triển không bền vững đối với ngành Thủy sản trong tương lai gần, gây hậu quả khó lường. Việc đào ao nuôi cá tự phát không chỉ đơn thuần là phá vôõ quy hoạch phát triển thủy sản mà sâu xa hơn là việc không kiểm soát được ô nhiễm môi trường vùng nuôi và nguồn nước, dịch bệnh sẽ phát sinh, gây nguy cơ đổ vỡ hàng loạt, thiệt hại đến lợi ích xã hội và quan trọng hơn nữa là lòng tin của nhân dân đối với sự quản lý của chính quyền bị giảm sút, sự nghiêm minh của pháp luật sẽ bị thách thức.

P.V: Quan điểm và hướng xử lý của UBND tỉnh về vấn đề này như thế nào, thưa đồng chí ?

Đ/c H.T.N: Thủy sản được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trong thời gian tới nên việc phát triển nhanh thủy sản là điều mà tỉnh luôn quan tâm thúc đẩy. Tuy nhiên, việc phát triển thủy sản phải vừa tuân theo luật chơi của thị trường, đồng thời cũng phải đảm bảo những nguyên tắc về quản lý xã hội nhằm tạo sự phát triển bền vững. Khi thị trường tốt, diện tích đào ao nuôi cá sẽ tăng nhanh, nhưng việc tăng diện tích đó phải đảm bảo phù hợp quy hoạch, đảm bảo các quy định của luật pháp về điều kiện vệ sinh môi trường, về sử dụng đất, có đăng ký với chính quyền địa phương,...

Trên tinh thần đó và từ tình hình thực tế đang diễn ra, UBND tỉnh đã cương quyết cho tạm ngưng việc đào ao nuôi cá trên địa bàn toàn tỉnh từ ngày 1-4-2007 như công văn số 967/UBND-KT ngày 30-3-2007 đã nêu. Việc tạm ngưng đào ao nuôi cá mới này không có nghĩa là không cho phát triển mà trước mắt là ngăn chặn ngay các hành vi tự phát, không đảm bảo các điều kiện về nuôi trồng thủy sản do sự quản lý yếu kém của các cấp chính quyền để có giải pháp chấn chỉnh kịp thời, ngăn chặn hậu quả xấu có thể xảy ra làm đổ vỡ cả một ngành kinh tế.

P.V: Hướng giải quyết này đã thể hiện khá rõ tại Công văn số 967/UBND-KT ngày 30-3-2007 của UBND tỉnh về việc chấn chỉnh việc tự phát đào ao nuôi cá và xây dựng dự án vùng nguyên liệu thủy sản. Đây là chủ trương đúng, nhưng liệu công văn này ban hành có quá muộn không khi thực tế đã có những tổ chức, cá nhân và hộ gia đình đã hoặc đang “lỡ” đào ao nuôi cá, với số vốn đầu tư hàng trăm triệu, thậm chí cả tỷ đồng ? Vậy, hướng giải quyết của UBND tỉnh về những trường hợp này như thế nào, thưa đồng chí ?

Đ/c H.T.N: Như trên đã trình bày, việc các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự phát đào ao nuôi cá xuất phát từ nhu cầu nguyên liệu quá lớn của các nhà máy chế biến thủy sản. Để giải quyết vấn đề này, một mặt các cơ quan chức năng cùng chính quyền địa phương phải xem xét cụ thể các trường hợp đã lỡ đào ao nuôi cá để xử lý, nếu phù hợp quy hoạch (kế cả ngoài quy hoạch nếu xét thấy phù hợp thì bổ sung quy hoạch), đảm bảo các điều kiện vệ sinh môi trường, sử dụng đất,... thì tiếp tục cho thực hiện; nếu thiếu thủ tục, điều kiện thì phải hoàn tất việc bổ sung các thủ tục, đảm bảo các điều kiện mới được tiếp tục đào và nuôi cá; ngược lại thì phải cương quyết đình chỉ và xem xét xử lý. Nhà nước luôn khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân và hộ gia đình bỏ vốn làm ăn, tuân thủ theo quy định của pháp luật và sẽ kiên quyết xử lý các tổ chức, các nhân và hộ gia đình chỉ nghĩ đến lợi ích của mình, bất chấp pháp luật.

Mặt khác, để giải quyết nhu cầu về nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thủy sản, thúc đẩy phát triển nhanh thủy sản trong thời gian tới, UBND tỉnh cũng đã đồng ý cho lập dự án phát triển vùng nguyên liệu thủy sản để đáp ứng yâu cầu nguyên liệu của các nhà máy thủy sản với sự tham gia của các cơ quan chuyên môn, những doanh nghiệp chế biến thủy sản có nhu cầu và các hộ dân trong vùng dự án. Hy vọng dự án này sẽ giải quyết được nhu cầu nguyên liệu thủy sản cho nhà máy và lợi ích của những hộ dân bị ảnh hưởng của dự án, đảm bảo các điều kiện cho sự phát triển bền vững ngành Thủy sản trong tương lai.

P.V: Xin cảm ơn đồng chí !

THÀNH TÍN


An Giang: Mùa lũ năm 2007 huyện Thoại Sơn nuôi 848 ha tôm càng xanh

Nguồn tin: AnGiang, 9/4/2007
Ngày cập nhật: 10/4/2007

Mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa được nông dân xã Phú Hòa huyện Thọai Sơn nuôi thí điểm 3,5 ha năm 2000, tận dụng cua ốc, cá tạp đánh bắt trong thiên nhiên mùa lũ làm thức ăn cho tôm nuôi, trong 6 tháng nuôi trong mùa lũ, năng suất bình quân 700 kg/ha, lợi nhuân thu được 160 triệu đồng, lãi bình quân 45 triệu đồng/ha, cao gấp 4 lần trồng lúa. Đây là tín hiệu đáng mừng trong bước đột phá chọn mô hình hiệu quả kinh tế cao để chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi của huyện.

Năm 2002, để thúc đẩy phong trào chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo mô hình 1 vụ lúa đông xuân và 1 vụ tôm càng xanh trong mùa lũ, huyện và tỉnh lập qui hoạch vùng nuôi tôm càng xanh xã Phú Thuận và lập dự án đầu tư xây dựng 17 công trình thủy lợi bao gồm: đê bao, kênh mương, cống thoát nước với tổng vốn 2,9 tỷ đồng, đưa diện tích nuôi tôm năm 2006 lên 532 ha.

Để phát triển vùng chuyên canh tôm càng xanh của tỉnh, dự án nuôi tôm càng xanh xã Phú Thuận tiếp tục được Bộ thủy sản đầu tư mở rộng dự án với diện tích 3.445 ha, trong đó diện tích nuôi trồng thủy sản 1.500 ha thuộc 2 xã Phú Thuận và Vĩnh Chánh, với số vốn nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như: giao thông, cầu đường, đê bao, cống, hệ thống kinh mương và lưới điện hạ thế... 66 tỷ đồng, được đầu tư từ năm 2007 đến năm 2010 và nguồn vốn nhân dân đầu tư xây dựng vuông nuôi tôm, vật tư máy móc... 44 tỷ đồng.

Năm 2007 dự án nuôi tôm càng xanh xã Phú Thuận của Thọai Sơn được triển khai đầu tư 3 tỷ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật để mở rông diên tích nuôi tôm tăng gần 70% so năm 2006. Kỹ thuật nuôi và chăm sóc tôm của nông dân Thoại Sơn từng bước được nâng lên , thay thế dần thức ăn tự chế bằng thức ăn công nghiệp, tôm nuôi đạt năng xuất ngày càng cao, Năm 2006 nông dân nuôi đạt năng xuất bình quân 1,2 tấn/ha, tăng 0,4 tấn/ha so năm 2005. nhiều hộ nuôi giỏi đạt 1,8 - đến 2 tấn/ha, lãi 116 triệu đồng/ha (vụ nuôi tôm mùa lũ năm 2006 trên 530 ha, đạt lợi nhuận bình quân 50 triệu đồng/ha).Mùa lũ năm 2007 huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang sẽ mỡ rộng diện tích nuôi tôm càng xanh lên 848 ha , tăng 316 ha so năm 2006.

Tố Quyên


Hậu Giang - Ngưng việc “xẻ rừng” nuôi cá tra

Nguồn tin: SGGP, 09/04/2007
Ngày cập nhật: 10/4/2007

Sáng 9-4, ông Nguyễn Phong Quang, Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang cho biết: tỉnh đã yêu cầu ngưng ngay việc thi công mở rộng dự án nuôi cá tra ở khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng. Cấm mọi hình thức tác động đến rừng, để bảo vệ nguyên hiện trạng nguyên thủy của rừng.

Được biết, đã có 18 ao, diện tích 5.000m2/ao đã được đào xới tại khu vực Lâm trường Mùa Xuân, và 3 ao cá tra, mỗi ao 5.000m2 tại khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng. Tổng diện tích khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng hơn 2.800ha.

C.H.P


Giá cá tra nguyên liệu tiếp tục giảm

Nguồn tin: CT, 9/4/2007
Ngày cập nhật: 9/4/2007

Cần Thơ, giá cá tra nguyên liệu hiện đã giảm từ 17.200 đồng/kg (cách đây hơn 1 tháng), còn 16.500-16.700 đồng/kg. Theo nguồn tin từ Sở Thương mại tỉnh An Giang, tuần qua, giá cá tra nguyên liệu giảm 200-400 đồng/kg. Cụ thể: Cá tra trọng lượng 1-1,1 kg/con, loại thịt trắng giảm 300 đồng/kg so với tuần trước hiện còn 16.000 - 16.200 đồng/kg; loại thịt vàng nhạt giữ mức giá ổn định 15.000-15.300 đồng/kg; cá tra thịt hồng từ 15.800 -16.000 đồng/kg, giảm 200-400 đồng/kg so với tuần trước.

Ông Nguyễn Ngọc Hải, Chủ nhiệm HTX nuôi cá tra Thới An, huyện Ô Môn, TP Cần Thơ, cho biết: Do lo ngại cá tra tiếp tục sụt giá, nhiều người nuôi đã tự hạ giá bán, thậm chí chấp nhận bán cá non để ký hợp đồng bán cá với các doanh nghiệp. Trong khi đó, theo các doanh nghiệp chế biến thủy sản, nhu cầu cá tra nguyên liệu phục vụ cho chế biến còn rất lớn. Vì vậy, người nuôi cá tra ở ĐBSCL cần tỉnh táo nhận định tình hình, không nên bán tháo cá tra, gây hiện tượng thừa nguyên liệu giả tạo như hiện nay.

HÀ TRIỀU


Mới vào vụ, tôm sú đã dính bệnh

Nguồn tin: SGGP, 09/04/2007
Ngày cập nhật: 9/4/2007

ĐBSCL đang bước vào vụ nuôi tôm sú mới. Tuy nhiên, nông dân các tỉnh ven biển như Trà Vinh, Kiên Giang, Cà Mau, Bến Tre lại phải đối đầu với dịch bệnh.

Tại Cà Mau, nhiều loại bệnh như: đốm trắng, đen mang và thối đuôi xuất hiện rải rác trên tôm nuôi quảng canh cải tiến ở các huyện: Trần Văn Thời, Cái Nước, Phú Tân, Năm Căn và Đầm Dơi, chiếm khoảng 3,6% trên tổng diện tích tôm nuôi toàn tỉnh. Qua kiểm tra 4 mẫu tôm giống bằng phương pháp PCR, Cà Mau đã phát hiện 1 mẫu bị nhiễm MBV (bệnh còi, chậm lớn).

Môi trường nuôi tôm sú hiện bị ô nhiễm nghiêm trọng, cùng với con giống kém chất lượng là một trong những nguyên nhân dịch bệnh phát triển mạnh.

C.H.P.


Nuôi tôm trên cát theo quy trình mới

Nguồn tin: SGGP, 08/04/2007
Ngày cập nhật: 9/4/2007

5 năm qua, vùng nuôi tôm trên cát ở các tỉnh vùng duyên hải miền Trung tăng rất nhanh theo kiểu tự phát, dẫn đến hủy hoại môi trường, cạn kiệt nguồn nước ngầm.

Mới đây, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng tiến bộ KH-CN tỉnh Quảng Ngãi đã áp dụng thành công quy trình không thay nước (chỉ bổ sung lượng nước bay hơi và xả bẩn đáy ao) và kỹ thuật xử lý để sử dụng lại nước ao nuôi, kết hợp các chế phẩm sinh học ổn định hệ sinh thái ao nuôi. Thử nghiệm nuôi 300 ngàn tôm giống trong ao 2.500m², sau 3 tháng nuôi thu được khoảng 5 tấn tôm.

N.M.B.


Gian nan khôi phục nghề nuôi cá nước ngọt ở Đức Linh

Nguồn tin: Bình thuận, 05/04/2007
Ngày cập nhật: 9/4/2007

Mới rồi có dịp về Đức Linh tìm hiểu việc khôi phục nghề cá nước ngọt của người dân qua đợt lụt năm 2006. Thật bất ngờ nghe được câu chuyện: Nuôi cá rô phi đơn tính, cá chim, cá chép... dạng quảng canh và bán thâm canh, lại được các cấp từ tỉnh đến huyện quan tâm; nhưng nghề nuôi cá chình, cá bống tượng trên lồng bè dọc sông La Ngà đang đem lại nguồn thu nhập lớn, nhưng lại không được đầu tư đúng mức.

Giữa cái nắng hừng hực giao mùa xuân – hạ, tôi và Bùi Vũ Thọ, cán bộ Phòng Nông nghiệp và PTNT Đức Linh đã lặn lội đi tìm những hộ nuôi cá nước ngọt, để xem họ có còn mặn mòi theo tiếp nghề hay không. Bởi sau đợt lụt, ngập hồi tháng 8 – 9/2006, làm nhiều hộ mất trắng và… nợ nần. Con số 373,7 ha ao cá, tương đương 12,510 tỷ đồng, là thiệt hại mà người dân nuôi cá nước ngọt Đức Linh phải gánh chịu. Trong đó có 2 thị trấn và 3 xã bị thiệt hại nặng nề nhất là Nam Chính 90 ha/3,225 tỷ; Đức Tài 80 ha/2,49 tỷ; Sùng Nhơn 70 ha/2,1 tỷ; Vũ Hòa 48 ha/1,815 tỷ và Võ Xu 25 ha/812 triệu đồng. Ngay sau đợt lụt xảy ra, UBND tỉnh đã kịp thời hỗ trợ 2 đợt cá giống 410.000 con cho 93 hộ ở các xã bị thiệt hại. Giữa lúc người dân nuôi cá nước ngọt ở Đức Linh đang chới với, sự hỗ trợ cá giống – dù chưa nhiều và không phong phú chủng loại, nhưng dân Đức Linh rất hồ hởi. Bởi đây là cái phao cứu sinh giúp họ tái đầu tư, khi mà nguồn vốn hầu như đã trôi theo dòng nước ngập lụt. Tuy vậy, sau hơn nửa năm bị thiệt hại, chúng tôi trở lại vùng ngập lụt Đức Linh, thì “có quá nhiều chuyện vui buồn” trong khôi phục lại nghề cá nước ngọt, kể cả những chuyện… nghịch lý ở nghề này.

Con đường đất đỏ lắm bụi dẫn vào khu nuôi cá của ông Nguyễn Sĩ Thuyên – thôn 1, xã Vũ Hòa, làm tôi với Thọ tối mắt tối mũi vì bụi, áo quần lấm lem. Vậy mà phải 2 lần đi mới gặp được ông Thuyên, bởi Thọ cho biết quy mô nuôi cá nước ngọt của ông Thuyên lớn nhất, nhì huyện, nên đợt lụt ngập vừa qua ông cũng là người bị thiệt hại lớn nhất, nhì huyện. Dự án của ông Thuyên có 8 ha nuôi cá nước ngọt. Bước đầu ông đã nuôi được 4 ha, vốn đầu tư đến nay gần 3 tỷ đồng. Năm 2006 nước cuốn trôi cá của ông trị giá cả tỷ bạc. Ông Hồ Sĩ Thuyên buồn buồn, kể: “Ngập đợt đầu hồi tháng 8 bị mất trắng, tỉnh hỗ trợ 25.000 con cá giống, mới thả xuống hơn tháng lại bị ngập tiếp và mất trắng. Nợ ngân hàng chưa kịp trả, khó khăn lại chồng khó khăn. Ông đưa cho tôi xem phiếu thu của Ngân hàng NN & PTNT chi nhánh Võ Xu. Nợ quá hạn và tiền gốc trả trên 37 triệu đồng, và ông cũng vừa kịp trả ngày 19/3/2007. Dù đang điêu đứng thiếu vốn, nhưng ông Thuyên vẫn lạc quan tin tưởng cho vụ cá mới. Ông nói: “Bạn bè tin tưởng hỗ trợ vốn, tôi lại làm, nghề nuôi cá nước ngọt là niềm đam mê không thể bỏ, năm nay chắc chắn tôi sẽ thành công…”.

Rời Vũ Hòa, chúng tôi đi ngược lên phía Nam Chính. Đây là xã có diện tích ao hồ nuôi cá nước ngọt bị thiệt hại nặng nhất trong đợt lụt ngập năm 2006. Ông Lê Hồng Phong – Phó Chủ tịch UBND xã Nam Chính rất hồ hởi, khi đề cập đến việc khôi phục lại nghề nuôi cá nước ngọt ở xã: “Được sự hỗ trợ cá giống kịp thời của Trung tâm Khuyến ngư, nên đa phần bà con đã khôi phục lại diện tích nuôi, một số hộ đầu tư mới như đắp hồ cao hơn để tránh ngập…”. Tuy còn nhiều khó khăn, nhưng người dân Nam Chính đang phát huy lợi thế kinh nghiệm và nhất là bề dày về nuôi cá nước ngọt, để “lấy lại những gì đã mất” trong đợt lụt ngập vừa qua… Thọ lại dẫn tôi rong ruổi qua các con đường làng ngoằn ngoèo, đưa tôi đến nhà Bùi Ngọc Phúc ở thôn 5 – Đức Tài. Đây là hộ nuôi ba ba rất lớn và đầu tư khá bài bản, nhưng cũng không vượt qua được cảnh trắng tay vì ngập lụt năm 2006. 13.000 con ba ba (giá thời điểm 2006 là 150.000 đồng/kg) trọng lượng bình quân 0,7 - 0,9 kg/con, chuẩn bị xuất ao bỗng chốc nước ngập trắng, ba ba cứ thế tuồn đi không còn con nào. Khi phát hiện thì Phúc chỉ biết tuôn nước mắt theo dòng nước lụt trên cả 1 tỷ tiền vốn lẫn lãi. Kể lại chuyện này, nét mặt Phúc bơ phờ hẳn, trong đời anh chưa khi nào bị thiệt hại nặng như thế. Oái oăm thay, trong các đợt hỗ trợ cá giống của tỉnh, anh lại không được gì. Một chút an ủi là ngân hàng cho anh gia hạn nợ. Phúc chua xót: “Sau lụt em còn nợ tiền thức ăn cho ba ba khá lớn, muốn nuôi lại ba ba phải đi vay với lãi suất cao. Mọi thứ hầu như “tiến thoái lưỡng nan” đối với gia đình em….”. Nhưng rồi chẳng lẽ chịu thua, Phúc lại lao vào nuôi. Hiện tại các ao nuôi của Phúc đã có 7.000 con ba ba có trọng lượng từ 2 – 4 lạng/con. Niềm hy vọng trả được nợ, lấy lại vốn đang nhen nhóm trong suy nghĩ của Phúc, khi chính tay anh bắt những con ba ba đang lội tung tăng dưới nước cho chúng tôi xem. Lòng tôi cảm thấy thương cảm và kính phục con người này, vì sự quyết tâm vượt khó làm giàu của anh…

Nắng và nắng, đó là những gì mấy ngày liền ở Đức Linh, chúng tôi nhận lấy khi đi thực tế ở các hộ nuôi cá. Trước đó vài hôm Đức Linh có mưa, nhưng điều đó chẳng làm hạ nhiệt nổi cơn nắng tháng 3. Để có cái nhìn khách quan và tổng thể nghề nuôi cá nước ngọt ở Đức Linh, Thọ lại tiếp tục dẫn tôi xuống làng nuôi cá chình, cá bống tượng ở Võ Xu. So với nuôi cá bán thâm canh, quãng canh, việc nuôi cá chình và cá bống tượng trên sông La Ngà có vẻ “ngon ăn”! Đầu tiên là vấn đề nuôi cá lồng bè trên sông La Ngà không có thiệt hại gì lớn trong đợt lụt ngập 2006. Thứ hai các hộ nuôi cá lồng bè thu lãi rất cao so vốn đầu tư. Anh Nguyễn Văn Thanh – Chi hội trưởng Chi hội nuôi cá lồng bè thị trấn Võ Xu, là người nuôi bè cá bống tượng đầu tiên ở xã. Năm 1996 anh nuôi có lãi lớn, 2 năm sau thất bại do cá bị bệnh nhưng không biết chữa. Năm 2002 anh nuôi lại 3 bè cho đến nay, mỗi năm cho lãi trên 50 triệu đồng. Ông Phạm Thế Vinh – nuôi cá chình từ năm 2001 cũng ở dạng “tự mày mò” rồi liên tiếp thành công; năm 2006 mỗi bè ông lãi trên 40 triệu đồng. Từ những đột phá của những người đầu tiên nuôi cá lồng bè, đến nay nghề nuôi cá chình, cá bống tượng trong lồng bè đang được nhân rộng. Toàn xã Võ Xu đã có 47 hộ nuôi/125 lồng bè, trong đó có 35 lồng bè cá chình. Hiện nay các hộ ở Vũ Hòa, Đức Tín, Trà Tân cũng bắt tay vào nuôi cá bống tượng và cá chình lồng bè dọc sông La Ngà. Cái khó của nuôi cá lồng bè là vốn đầu tư ban đầu rất lớn, tiền đóng lồng bè, tiền cá giống phải từ vài chục triệu trở lên, nên chỉ có những hộ khá mới làm nổi. Tuy nhiên lãi suất từ nuôi cá chình và bống tượng rất lớn, nên ngày càng hấp dẫn người dân đầu tư. Anh Nguyễn Luyến – Trưởng Phòng NN & PTNT Đức Linh, kiến nghị: “Nghề nuôi cá chình, bống tượng có hiệu quả nhưng chưa được các cấp hỗ trợ đầu tư. Trung tâm Khuyến ngư, Sở Thủy sản cần xây dựng các mô hình để nhân rộng. Đồng thời cần có chính sách hỗ trợ vốn vay để phát triển nghề này”.

Thực tế nghề nuôi cá nước ngọt ở Đức Linh còn nhiều chuyện để bàn, người dân nuôi cá chình, cá bống tượng cần có sự trợ giúp nhất định từ các cấp. Chia tay Đức Linh tôi rất vui khi nghe anh Thanh liệt kê hàng loạt hộ khá lên nhờ nuôi cá chình, bống tượng. Trong đó tôi nhớ mãi 2 cái tên Đỗ Văn Hải, nuôi 4 bè chình, 2 bè bống tượng, Nguyễn Văn Phú 4 bè chình, 4 bè bống tượng; cả 2 ông mỗi năm đều thu lãi từ 80 triệu trở lên…”.

TRẦN THI


Mười năm chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản miền núi (1996-2006)

Nguồn tin: Fistenet, 5/4/2007
Ngày cập nhật: 9/4/2007

Các báo cáo tổng kết tình hình thực hiện chỉ tiêu kế hoạch kinh tế xã hội của Ngành Thuỷ sản, như thường thấy, hầu như chỉ tập trung xung quanh những con số thật hùng hồn mấy triệu tấn sản lượng, mấy trăm nghìn tỉ đồng giá trị, mấy tỉ đô la kim ngạch xuất khẩu, hàng thuỷ sản Việt Nam đã chinh phục được mấy trăm thị trường, v.v... Ðó thực sự là những thành quả rất đáng tự hào, là bằng chứng cho những đóng góp lớn lao của ngành đối với đất nước. Nhưng còn những con số khác, những khía cạnh cống hiến khác lại hầu như không được kể ra, hay chỉ được nói đến một cách vô cùng khiêm tốn, mờ nhạt. Trong khi đó, nhiều chuyên gia lại đánh giá, những góc khuất ấy, những khoảng mờ ấy, nếu được tiếp cận theo những phương diện khác về kinh tế an sinh xã hội chủ quyền quốc gia, lại có độ lớn như những phần chìm của tảng băng trôi. Một trong những phần chìm ấy là nghề cá nội địa, bao gồm các hoạt động khai thác nguồn lợi tự nhiên và nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nước nội địa, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, trung du, miền núi, nơi mà nghề cá - tuy rất nhỏ bé song lại chiếm giữ vị trí rất quan trọng trong đời sống của cộng đồng dân cư.

Tuy không có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản với quy mô lớn như các tỉnh ven biển và đồng bằng, song các tỉnh miền núi lại có lợi thế về nguồn nước trong sạch, có nhiều giống loài đặc sản quý hiếm như cá Anh vũ, cá Lăng, Ba ba gai, v.v và cũng là địa bàn có nhiều hồ chứa. Do điều kiện địa lý chủ yếu là vùng sâu, vùng xa, kinh tế chậm phát triển, nguồn sinh kế thay thế cho người nông dân hiếm hoi và nguồn lương thực, thực phẩm thiếu thốn, nên từ lâu đời, thuỷ sản đã có vị trí như một hoạt động kinh tế và nguồn bảo đảm dinh dưỡng tại chỗ quan trọng cho các hộ gia đình. Cũng từ nhận thức ấy, ngay từ những năm 70 của thế kỷ trước, những cơ sở đầu tiên để hình thành nghề nuôi trồng thuỷ sản ở các tỉnh miền núi đã được chuẩn bị, từ cán bộ kỹ thuật, cơ quan quản lý, cơ sở sản xuất giống, v.v Tuy nhiên, một thời gian sau đó, do những khó khăn trong nền kinh tế đất nước, những thay đổi trong cơ chế quản lý và cả trong nhận thức, nghề cá ở các tỉnh miền núi đã bị buông trôi. Cơ quan quản lý bị giải thể, sáp nhập vào ngành nông nghiệp, hầu như không còn cán bộ được đào tạo về thuỷ sản, cơ sở vật chất xuống cấp và chuyển đổi mục đích sử dụng, các công ty thuỷ sản bị thua lỗ, giải tán, v.v... Nghề cá các tỉnh miền núi lại trở về với nền kinh tế tự nhiên như nhiều chục năm trước đó.

Ðến những năm 1990, nhận thức được tầm quan trọng về an ninh quốc phòng của địa bàn các tỉnh miền núi và nhận rõ rằng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân chính là yếu tố cơ bản để giữ vững ổn định tình hình chính trị xã hội, các chương trình phát triển kinh tế miền núi trở lại nhận được sự quan tâm cao. Trong quá trình đó, vai trò của nghề cá đã được xác định như một lĩnh vực có đóng góp đặc biệt cho an ninh thực phẩm, xoá đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội. Bộ Thuỷ sản, được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế như UNDP, FAO, đã tiến hành hàng loạt hoạt động về đánh giá tiềm năng, vai trò của nghề cá ở các tỉnh miền núi, chuẩn bị nguồn nhân lực để khôi phục và từng bước phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản ở các địa bàn này. Và từ năm 1996, Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở các tỉnh miền núi (giai đoạn đầu là các tỉnh miền núi phía bắc) đã được khởi động với các mục tiêu chính : Xây dựng nguồn nhân lực kỹ thuật và quản lý; Phát triển hình thức sản xuất và cung cấp con giống; Phát triển công nghệ nuôi; Xây dựng các giải pháp bảo vệ và quản lý nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên.

Trải qua 10 năm triển khai Chương trình, hoạt động nuôi trồng thuỷ sản đã được khôi phục và phát triển ở địa bàn tất cả các tỉnh miền núi, từ vùng Ðông Bắc, Tây Bắc tới Tây Nguyên, Ðông Nam Bộ. Chương trình này đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của đồng bào các dân tộc và lãnh đạo địa phương các cấp tỉnh, huyện, xã. Hầu hết các tỉnh miền núi đã đưa nuôi trồng thuỷ sản vào kế hoạch kinh tế xã hội như một yếu tố có tính đột phá trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; Hầu hết các tỉnh đã xây dựng quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Cơ quan quản lý thuỷ sản được thành lập dưới dạng chi cục hoặc trung tâm thuỷ sản, trung tâm khuyến ngư. Ðặc biệt, nhiều địa phương đã xác định nuôi trồng thuỷ sản là nhân tố có tình quyết định trong định hướng nâng cao thu nhập từ đơn vị diện tích canh tác lên trên 40 triệu đồng trong một năm.

Nguồn nhân lực cũng được cải thiện rõ rệt. Từ các nguồn kinh phí trong và ngoài nước, đã đào tạo được 32 kỹ sư, 60 cán bộ kỹ thuật thú y thuỷ sản, hơn 500 cán bộ kỹ thuật ở huyện, xã. Hơn 100 nghìn lượt người được tham gia các lớp khuyến ngư tập huấn, hội thảo, tham quan phổ biến kiến thức, kinh nghiệm nuôi trồng thuỷ sản. Gần 5.000 hộ gia đình đã tham gia các mô hình khuyến ngư. Nhiều đối tượng thuỷ sản đã được giới thiệu để nuôi và đã thu được thành công như cá Rô phi đơn tính, nhóm cá Chép ấn Ðộ (Rôhu, Mrigan), cá Chép lai, tôm Càng xanh, Ba ba gai,Các đối tượng khác như cá Bỗng, cá Rầm xanh, cá Lăng, cá Anh vũ,... cũng được nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo để khôi phục nguồn lợi tự nhiên và nuôi. Ðến năm 2006, diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở các tỉnh miền núi đã lên tới 90.952 ha (khoảng 9% tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản cả nước), bằng khoảng 30% diện tích tiềm năng. Tổng số lồng bè đạt gần 12 nghìn chiếc. Sản lượng thuỷ sản của các tỉnh miền núi đạt 156 nghìn tấn, bao gồm 110 nghìn tấn sản phẩm nuôi và 46 nghìn tấn khai thác tự nhiên. Những con số này còn khá nhỏ so với tầm vóc chung của ngành thuỷ sản cả nước và với khả năng có thể phát triển, song thật sự đã đánh dấu một sự chuyển biến sâu sắc trong đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc miền núi.

Ðặc biệt, trong mấy năm gần đây, thông qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật quốc tế, một tiềm năng mới của nghề cá các tỉnh miền núi đã được phát hiện, tạo ra cơ hội biến hạn chế thành lợi thế, đó là khả năng phát triển nuôi những loài cá nước lạnh đầu bảng của thuỷ sản thế giới cá hồi vân, cá tầm. Nuôi trồng thuỷ sản miền núi không chỉ dừng lại ở quy mô kinh tế gia đình, đáp ứng nhu cầu thực phẩm tại chỗ, mà còn có triển vọng trở thành một ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu.

Dĩ nhiên, con đường phía trước còn dài, vạn sự khởi đầu nan, song trên cơ sở những kết quả đã đạt được trong giai đoạn 10 năm qua, chúng ta đã có quyền trông đợi ở những thành quả lớn hơn nhiều trong giai đoạn tới của Chương trình.

Thay cho lời kết, xin dẫn ra một câu chuyện nhỏ mới xảy ra năm trước. Một nhà báo lớn tuổi về thăm lại một làng nhỏ ở Tuyên Quang, nơi ông đã từng ở một thời gian khoảng hai mươi năm trước. Ông đã rất ngỡ ngàng trước những đổi thay của vùng quê miền núi, nơi có thể gọi là thâm sơn cùng cốc ấy. Song, theo lời ông kể lại, điều làm ông lạ nhất là trong cái chợ nhỏ cấp thôn mà ông ghé qua, bên cạnh ba người bán thịt (một trâu, hai lợn), lại có hai chị bán cá tươi Cá còn sống hẳn hoi, cá Trắm cỏ, Rô phi, Trôi ấn Và lạ hơn là khách hàng cũng mua cá một cách thật bình thường, vô tư ! Nghe ông nói, chẳng ai cho là lạ. Có gì đâu nhỉ, các bà nội trợ mua cá ăn là chuyện quá thường tình. Nhưng ông đã kịp bổ sung : Hai mươi năm trước, ở đó, muốn ăn cá tươi thì phải mất hàng ngày trời lần mò ở các khe suối. Chỉ những bữa ăn thịnh soạn ở những nhà khá giả, người ta mới mua được vài con cá mắm khô. Còn mua cá tươi ở chợ thì dường như chưa có trong từ điển thuật ngữ của dân địa phương.

Hoàng Thanh


Ðể nhân rộng các mô hình khuyến ngư

Nguồn tin: ND, 5/4/2007
Ngày cập nhật: 9/4/2007

Thời gian qua, công tác khuyến ngư mới chỉ tập trung xây dựng các mô hình nuôi trồng thủy sản. Mô hình khuyến ngư cho khai thác còn hạn chế. Vì vậy, thời gian tới, hoạt động khuyến ngư cần tập trung cho khai thác hải sản; thay đổi phương thức khuyến ngư đến với người dân có hiệu quả thiết thực hơn.

Hoạt động khuyến ngư góp phần đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật đến người sản xuất, kinh doanh thủy sản thông qua việc chuyển giao công nghệ, xây dựng các mô hình trình diễn, tập huấn kỹ thuật sản xuất thủy sản. Tuy nhiên, hoạt động khuyến ngư trong những năm qua còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng kịp thực tiễn sản xuất, nhiều mô hình khuyến ngư vẫn chưa có sức lan tỏa, khó nhân rộng.

Từ nhiều năm nay, anh Ðào Ðình Lưu, nông dân xã Hoa Thám (Ân Thi, Hưng Yên) nuôi cá rô phi đơn tính đạt hiệu quả kinh tế cao, bình quân lãi ròng 40 triệu đồng/ha. Anh đã tự tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm để có được thành công này.

Anh cho biết: "Ðược sự giúp đỡ của Trung tâm Khuyến nông tỉnh, tôi mạnh dạn nuôi cá rô phi với diện tích hơn năm nghìn m2. Ðây là đối tượng nuôi mới, đòi hỏi người nuôi phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật từ cải tạo ao, chọn và thả con giống, chăm sóc, thu hoạch cá". Ðây chỉ là một trong nhiều mô hình khuyến ngư được triển khai có hiệu quả trên cả nước. Năm 2006, các địa phương xây dựng 952 mô hình sản xuất thủy sản cho 11.811 hộ dân tham gia.

Nhiều mô hình khuyến ngư trở thành điểm sáng để nhân rộng như mô hình nuôi tôm càng xanh ở tỉnh Lào Cai đạt tỷ lệ sống 59%, năng suất đạt 1,59 tấn/ha. Mô hình nuôi cá tra miền núi đạt tỷ lệ sống hơn 83%, cỡ cá thu hoạch hơn 0,8 kg/con, năng suất đạt 16,6 tấn/ha. Mô hình nuôi các đối tượng cá biển như nuôi cá dò, cá song, tôm hùm, ốc hương, tu hài, điệp phát triển rất nhanh, tạo nhiều việc làm và nguồn hàng thủy sản xuất khẩu.

Nuôi cá nước ngọt không chỉ tạo nguồn thực phẩm tại chỗ mà còn tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần xóa nghèo, làm giàu cho người dân nông thôn, miền núi.

Thông qua các mô hình khuyến ngư, các lớp tập huấn dạy nghề, người dân đã biết nuôi thâm canh cá với năng suất 10 - 15 tấn/ha. Năm 2006, toàn quốc đã triển khai được 5.798 lớp tập huấn cho 267.412 lượt người; tổ chức 862 cuộc hội thảo với 49.401 lượt người, 285 đợt tham quan cho 9.141 người; thực hiện chín dự án nhập công nghệ sản xuất các giống cá tráp vàng, hồng biển, chim vây vàng, măng biển, cá tầm, cá hồi vân...

Trung tâm Khuyến ngư quốc gia phối hợp các viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1, 3, các trường đại học Nha Trang, Nông-Lâm TP Hồ Chí Minh tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao công nghệ sản xuất giống cua biển, giống cá chẽm, giống tôm rảo, giống tôm sú chất lượng cao dùng chế phẩm sinh học không dùng thuốc kháng sinh, giống cá lăng vàng, cá rô đồng và cá sặc rằn, một số loại giống động vật thân mềm hai mảnh vỏ như vẹm vỏ xanh, điệp, tu hài, trai ngọc, hầu.

Trung tâm Khuyến ngư quốc gia xây dựng ba mô hình nghề chụp mực bốn tăng gông đem lại hiệu quả thiết thực, được các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận nhân rộng. Các mô hình lưới rê trôi Quảng Trị, nghề lưới rê tầng đáy ở Hải Phòng, chụp mực ở Quảng Nam cũng phát huy hiệu quả...

Năm 2006, tỉnh Ninh Thuận xây dựng mô hình cải tiến hầm bảo quản bằng vật liệu composite; Bình Thuận cải tạo hầm bảo quản bằng vật liệu pô-ly-ê-ty-len; Bình Ðịnh xây dựng mô hình chế biến mực tẩm gia vị, mô hình bảo quản bằng kho lạnh và vận chuyển thủy sản sống phục vụ thị trường nội địa; Quảng Ngãi xây dựng mô hình bảo quản sản phẩm sau khai thác; Quảng Trị xây dựng mô hình bảo quản sản phẩm trên tàu; Hải Phòng triển khai mô hình sản xuất Agar; Quảng Ninh xây dựng mô hình giữ nhiệt trong sản xuất chượp.

Nguyên giám đốc Trung tâm Khuyến ngư quốc gia Trần Văn Quỳnh đánh giá: "Thành công lớn nhất của công tác khuyến ngư trong thời gian qua đã làm thay đổi nhận thức của người dân, giúp họ từng bước chuyển sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa.

Trong thời gian tới, công tác khuyến ngư giúp người dân sản xuất theo nhu cầu thị trường trong nước và trên thế giới để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm". Giáo sư Nguyễn Lân Hùng (Ðại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng: "Có điều kiện đi nhiều nơi, tôi thấy nhiều mô hình khuyến ngư được bà con đánh giá cao như mô hình nuôi cua biển; nuôi lươn, nuôi tôm càng xanh, nuôi ba ba gai, cá trình. Nhưng các mô hình này chỉ mang tính sản xuất nhỏ lẻ, chưa sản xuất đại trà. Trung tâm Khuyến ngư quốc gia cần rà soát các đối tượng nuôi thủy sản hiện nay để xác định đối tượng nuôi chủ lực trong thời gian tới".

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động khuyến ngư còn nhiều khó khăn và hạn chế cần khắc phục: Mạng lưới khuyến ngư cơ sở còn yếu, cán bộ khuyến ngư vừa thiếu, vừa hạn chế về chuyên môn. Mô hình khuyến ngư chưa tập trung cho việc phát triển nuôi biển, các vùng hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Mô hình chỉ thu hút sự tham gia của những hộ nông dân khá giả, do vậy khó nhân rộng. Một số mô hình không phù hợp điều kiện sinh thái, kinh tế - xã hội của địa phương.

Theo Thứ trưởng Thủy sản Nguyễn Việt Thắng, công tác khuyến ngư mới chỉ tập trung xây dựng các mô hình nuôi trồng thủy sản. Mô hình khuyến ngư cho khai thác còn hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới, hoạt động khuyến ngư cần tập trung cho khai thác hải sản; thay đổi phương thức khuyến ngư đến với người dân có hiệu quả thiết thực hơn; cần có sự tham gia tích cực của các viện nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng, trung cấp về thủy sản tham gia xây dựng, chuyển giao mô hình khuyến ngư.

Năm 2007, hoạt động khuyến ngư tập trung triển khai rộng rãi biện pháp thực hành quản lý tốt nhất (BMP), thực hành nuôi tốt (GAP), sử dụng các phương pháp và công nghệ thích hợp nhằm đẩy mạnh khuyến ngư chuyển dịch nghề cá ra biển, bao gồm cả nuôi trồng, khai thác và dịch vụ hậu cần; cải thiện cơ bản tình trạng kỹ thuật lạc hậu, quy mô nhỏ lẻ, áp dụng phương pháp khai thác tiên tiến kết hợp giữa khai thác và bảo vệ nguồn lợi. Ðồng thời, bảo đảm an toàn khi hành nghề trên biển; nhập và chuyển giao công nghệ mới về chế biến và bảo quản sản phẩm thủy sản.

Tạ Quang Dũng, Thanh Hòa


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang