• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Khởi đầu cho thương hiệu ngọc trai Việt Nam

Nguồn tin: VNN, 21/02/2007
Ngày cập nhật: 22/2/2007

Với một thế mạnh to lớn về biển, chúng ta không thiếu tiềm năng và cơ hội để xây dựng một thương hiệu ngọc trai Việt Nam. Những người tiên phong đang bước những bước khó khăn đầu tiên trên hành trình xây dựng ngành ngọc trai và khẳng định thương hiệu ngọc trai Việt Nam. Nhưng với một nghề biển nhiều rủi ro, điều cần nhất lúc này là một sự liên kết và chính sách phát triển của Nhà nước như một chỗ dựa trước những sóng gió biển cả và thương trường.

Việt Nam ghi danh trên bản đồ ngọc trai thế giới

Phải nói rằng, ngọc trai đã được nhắc đến nhiều trong lịch sử như một biểu hiện của "biển bạc" Việt Nam. Nhưng cho đến hơn 10 năm về trước, ngọc trai Việt Nam vẫn dừng lại ở dạng tiềm năng và trong những câu chuyện kể về sự thần kỳ của biển. Người ta chỉ biết đến ngọc trai Việt Nam dưới dạng khai thác tự nhiên hay cơ sở nuôi theo kiểu gia truyền và nhỏ lẻ hiếm hoi. Thời điểm ấy nói về ngành ngọc trai hay một thương hiệu ngọc trai Việt Nam quả là một chuyện xa vời. Bởi vì, ngay vào giữa những năm 90 của thế kỷ trước, cơ quan đầu ngành về kinh tế biển - Bộ Thuỷ sản với sự hỗ trợ của các chuyên gia Nhật Bản mới bắt đầu những công việc thí điểm đầu tiên. Có những doanh nghiệp (DN) lâu năm trong nghề ngọc trai của Nhật Bản bước vào lĩnh vực này ở Việt Nam đã gặp phải thất bại... Bước khởi động cho ngành ngọc trai Việt Nam đã gặp ngay những khó khăn.

Nhưng từ thất bại đầu tiên trên hành trình đi tìm ngọc biển lại cho chúng ta "viên ngọc quý" đầu tiên của ngành ngọc trai, đó là những người Việt Nam đầu tiên được đào tạo bài bản và say mê với nghề nuôi trai lấy ngọc. Anh Lê Nam Trung là một trong những chuyên gia đầu tiên được đào tạo bằng chính cả những kiến thức khoa học trong ngành công nghiệp ngọc trai Nhật Bản và thực tế vùng biển Việt Nam. 10 năm sau Lê Nam Trung đã trở thành giám đốc một trong những liên doanh nuôi trồng gia công ngọc trai lớn nhất Việt Nam và đang ấp ủ những dự định phát triển thương hiệu riêng cho ngành ngọc trai Việt Nam.

Anh Trung kể lại, cuối những năm 1990, khi anh vừa hoàn thành khoá học về nuôi trồng ngọc trai ở Nhật Bản về nước thì những DN nuôi trồng trên vùng biển Việt Nam đang đối mặt với với thất bại do gặp nhiều khó khăn trong kỹ thuật, quản lý cũng như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Không lâu sau, các liên doanh quyết định kết thúc hoạt động tại Việt Nam.

Bước vào nghề, có kinh nghiệm lăn lộn trên vùng biển Việt Nam, có kiến thức đào tạo từ những quốc gia hàng đầu thế giới về ngọc trai, anh Trung biết rằng, với tiềm năng của mình, ngọc trai Việt Nam chắc chắn có tương lai, thất bại như là thử thách tất yếu ban đầu nếu muốn có những mùa thu hoạch ngọc quý. Với suy nghĩ đó, trên nền tảng của DN cũ, Trung bắt đầu tìm kiếm nhà đầu tư mới để có thể khởi động lại dự án nuôi trồng ngọc trai và cũng là khởi động cho ngành nuôi trồng và chế tác ngọc trai công nghiệp ở Việt Nam.

Năm 1999, sau khi có được nhà đầu tư mới, một liên doanh sản xuất ngọc trai, Công ty Taiheiyo Shinju Việt Nam đã ra đời với cơ sở nuôi trồng chính ở vịnh Bái Tử Long - Quảng Ninh. Vượt qua những ngày đầu khó khăn về nguồn vốn, kỹ thuật, nhân lực... Công ty đã dần đi vào ổn định, những mùa thu hoạch đều đặn hàng năm ngày càng cho khối lớn và chất lượng tốt. Điều này, cho thấy, bước đầu Việt Nam đã thành công trong việc phát triển nghề nuôi trồng ngọc trai với quy mô công nghiệp. Và điều đáng quý là số các DN tham gia nuôi trồng trên Vịnh Bái Tử Long ngày càng mở rộng quy mô và đông thêm về số lượng. Trong các DN đã có một đội ngũ nhân lực thành thạo nghề... đây chính là yếu tố quyết định sự phát triển lâu dài của nghề nuôi trồng ngọc trai ở Việt Nam.

Những mùa thu hoạch vui đã đến, năm 2004, sản lượng ngọc trai nuôi của Taiheiyo Shinju thực hiện xuất khẩu đạt 171 kg, doanh thu đạt trên 3 tỷ đồng. Năm 2005, Công ty thực hiện xuất khẩu 300kg, doanh thu đạt trên 5 tỷ đồng và đến năm 2006 này khả năng thực xuất của công ty là 400 kg ngọc chất lượng cao tại thị trường Nhật Bản, doanh thu đạt trên 10 tỷ đồng. Hiện nay, công ty đang triển khai xây dựng dự án khu chế tác và trung tâm giới thiệu, bán sản phẩm ngọc trai trên tổng diện tích 6.500m2 tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Đồng thời, Công ty thực hiện đầu tư mở rộng dự án nuôi trồng. Mới đây, UBND tỉnh Quảng Ninh đã phê duyệt và giao đất cho Công ty thực hiện dự án nuôi trai cấy ngọc tại huyện Cô Tô với tổng số vốn đầu tư giai đoạn đầu là 1 triệu USD.

Kinh nghiệm hơn 10 năm lăn lộn trên biển đảo Quảng Ninh, với nghề ngọc trai, anh Trung cho biết, ngọc trai biển được con người nuôi cấy là kết quả kỳ diệu của sự hợp tác giữa thiên nhiên và con người. Tuy nhiên, để có thể nuôi ngọc trai đòi hỏi những vùng biển sạch, lặng gió, ít ô nhiềm... Vân Đồn, Vịnh Bái Tử Long là một địa điểm lý tưởng để phát triển nghề nuôi trai ngọc, với một tiềm năng biển của đất nước ta có rất nhiều vùng có thể phát triển nghề nuôi ngọc trai, phát triển nghề thành một nghề biển thịnh vượng làm giàu cho ngư dân và đất nước. 10 năm trước, Taiheiyo Shinju đến Việt Nam dưới một sự thăm dò và bỏ những đồng vốn mạo hiểm đầu tiên. 10 năm sau, Việt Nam đã trở thành một trong những điểm sản xuất lớn của Công ty trong hệ thống nuôi trồng có mặt trên khắp thế giới. Đây chính là yếu tố quyết định khiến chủ đầu tư tăng vốn đầu tư lên gấp đôi đối với cơ sở sản xuất ở Việt Nam. Với điều này, Việt Nam thực sự đã ghi danh trên bản đồ của ngành sản xuất ngọc trai thế giới.

Ước mơ về một thương hiệu ngọc trai Việt Nam

Theo anh Trung, hiện nay, một quy trình nuôi trai cấy ngọc khép kín từ công đoạn đầu là sinh sản trai nguyên liệu cho đến chế tác sản phẩm đã được thiết lập tại Việt Nam. Đây là thành công lớn mà không phải doanh nghiệp nào trong ngành cũng có thể thực hiện được, kể cả những doanh nghiệp nuôi cấy ngọc trai hàng đầu tại Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc… Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong số ít những cơ sở sản xuất của Taiheiyo Shinju mà người bản địa có thể đảm nhận hầu hết các khâu trong sản xuất và quản lý của ngành nuôi trồng ngọc trai. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, làm chủ kỹ thuật “từ A đến Z” và nhất là đội ngũ nhân lực ngày càng phát triển, Việt Nam hoàn toàn có thể tính đến việc phát triển ngành ngọc trai lớn mạnh và cùng nhau xây dựng thương hiệu ngọc trai Việt Nam.

Thực tế, hầu hết sản phẩm làm ra hiện nay đều xuất khẩu thô sang Nhật Bản, một thị trường ngọc trai lớn của thế giới. Tuy nhiên qua khảo sát cho thấy, nhu cầu trang sức ngọc trai trên thị trường Việt Nam ngày càng lớn. Những phương án kinh doanh thử nghiệm đầu tiên đã bán được những sản phẩn đắt tiền từ vài trăm đến hàng ngàn USD cho khách hàng trong nước và khách du lịch quốc tế. Một thị trường đã bắt đầu mở và bên cạnh việc nuôi trồng phục vụ xuất khẩu, chúng đã phải tính đến việc phát triển ngành chế tác và buôn bán trang sức ngọc trai ở thị trường trong nước.

Cuối năm 2006, những sản phẩm ngọc trai được nuôi trồng và chế tác từ Việt Nam đã được giới thiệu tại một một cơ sở đầu tiên ở Hà Nội với thương hiệu Spica. Đây có thể là lần đầu tiên, người tiêu dùng được chứng kiến những trang sức phong phú như nhẫn, vòng, trâm cài... từ con trai nuôi trên vùng biển Việt Nam và do chính người Việt Nam chế tác. Vẻ đẹp của ngọc trai Việt Nam lưu giữ trong từng lời kể và sách vở đã bừng sáng trên thực tế. Ngọc trai Việt Nam với quy trình nuôi trồng khoa học, độ chế tác tinh xảo đã thể hiện một đẳng cấp về sự sang trọng, lộng lẫy không hề thua kém so với bất cứ loài ngọc trai nào nổi tiếng trên thế giới. Thị trường Việt Nam từ trước đến nay chủ yếu sử dụng ngọc trai ngoại nhập với đa số không rõ nguồn gốc và sự đảm bảo về chất lượng thì nay đã có thể đặt niềm tin và chính những trang sức cao cấp, được sản xuất ngay trên vùng biển nước mình. Sau chặng đường dài phát triển để khẳng định khả năng nuôi trồng và phát triển của nghề nuôi trai lấy ngọc ở Việt Nam, đã đến lúc ngọc trai Việt Nam bước vào hành trình mới, khẳng định chính mình trên thị trường với thương hiệu Việt Nam.

Với kinh nghiệm của mình, Anh Trung khẳng định, Việt Nam không thiếu cơ hội và điều kiện để phát triển một ngành nuôi trai lấy ngọc và xây dựng một thương hiệu ngọc trai Việt Nam. Tuy nhiên, cái khó hiện nay là hầu hết các cơ sở sản xuất còn manh mún, không có sự hợp tác, nuôi trồng ngọc trai chưa có được sự khảo sát, kế hoạch hỗ trợ phát triển từ Nhà nước để đưa nó lên thành một mũi nhọn kinh tế biển xứng với tiềm năng của nó.

Lịch sử Việt Nam đã ghi lại, hàng trăm năm trước, ngọc trai Việt Nam đã rất nổi tiếng, ngay trên vùng biển đảo Bái Tử Long đã những huyền thoại về ngọc trai mà niềm tự hào còn lưu giữ đến bây giờ với rất nhiều hòn đảo mang tên ngọc như Minh Châu (ngọc sáng), Ngọc Vừng (ngọc phát sáng)... Đây thực sự là niềm kiêu hãnh của người dân nơi đây. Hiện nay, chúng ta đang có những bước thành công đầu tiên để nối lại và nâng cao thêm niềm tự hào về một báu vật quý hiếm của biển quê hương. Hành trình của ngành nuôi trồng và chế tác ngọc trai Việt Nam đang bắt đầu. Những người trong cuộc như Trung đang nuôi một niềm tin lớn về sự phát triển thịnh vượng của những vùng nuôi trồng ngọc trai rộng lớn, những thương hiệu ngọc trai Việt Nam nổi tiếng thế giới và biết đâu từ đây, Việt Nam sẽ trở thành một trung tâm ngọc trai thế giới, một sàn giao dịch ngọc trai quốc tế tại Việt Nam cho mọi khách hàng tìm đến.

Phước Hà


ĐBSCL: giá cá tra tiếp tục tăng cao tới mức kỷ lục

Nguồn tin: TT, 21/02/2007
Ngày cập nhật: 21/2/2007


Quảng Ngãi : Người đồng tôm đón tết

Nguồn tin: TT, 16/02/2007
Ngày cập nhật: 17/2/2007

Ngày giáp tết Đinh Hợi, giá hải sản tươi sống tăng vọt khiến nhiều hộ dân nuôi tôm thẻ chân trắng ở vùng cát ven biển Đức Phổ, Mộ Đức (Quảng Ngãi) phấn khởi thu hoạch tôm lo tết.

Tôm bà con nuôi hiện là tôm thẻ chân trắng, sau nhiều năm nuôi tôm sú bị dịch bệnh thua lỗ, nợ nần... Chiều 27 tháng chạp năm Bính Tuất, con đường về biển Đức Phong, huyện Mộ Đức khá tấp nập xe chở tôm chạy xuống chạy lên. Vợ chồng anh Nguyễn Văn Giáo sau khi cân tôm vui vẻ nói: "Cách đây một tuần, tôm chỉ 50.000 đồng/ kg, nhưng bây giờ vọt lên 70.000 đồng, với 3500 mét vuông mặt hồ thả nuôi thu được khoảng 8 tấn thì kiếm được tiền cũng khá".

Còn ở ngôi nhà sát tuyến đường Ngã ba Thạch Trụ - Mỹ Á này, gia đình vợ chồng anh Phạm Xuân Hồng ở xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ và 2 đứa con người lo bài trí nhà cửa, ngừoi lên ngã ba Thạch trụ mua sắm tết.

Mấy năm trước về vùng nuôi tôm thuộc huyện Đức Phổ, Mộ Đức , nghe bà con than: "Nuôi tôm ôm cục nợ". Có hộ trắng tay, phải bỏ hồ gửi con cho ông bà nội, ngoại rồi vào Nam làm đủ mọi nghề sinh sống. Cũng từ trong thất bại, nhiều hộ đã suy nghĩ, bỏ công đi tìm giống mới và đã thay việc nuôi con tôm sú bằng con tôm thẻ chân trắng để nuôi .

Ông Nguyễn Điểm chủ hồ tôm ở xã Phổ Quang nói: "Hai năm nuôi tôm thắng đậm, bà con dể thở và đón cái tết này có lẽ vui hơn".

Giám đốc Sở thủy sản Quảng Ngãi Nguyễn Minh Tuấn cho biết: Năm 2006 vừa qua, toàn tỉnh thả nuôi 167 ha tôm thẻ chân trắng với 2 hoặc 3 vụ/ năm; đạt năng suất bình quân từ 10 đến 12 tấn/ ha trong một vụ, cao hơn khoảng 10 tấn/ ha so với nuôi tôm sú. Tỉnh đã có quy hoạch chung về vùng nuôi tôm nhưng quy hoạch chi tiết ở từng vùng chưa được thực hiện nên sẽ tập trung triển khai trong năm Đinh Hợi.

Về làng biển ngày giáp tết thấy bà con đông vui mà mừng thầm. Vừa đón tết, bà con vừa bàn nhau chuyện sau tết Đinh Hợi là bắt tay vào vụ nuôi tôm đầu năm 2007...

VÕ QUÝ CẦU


Có thể làm giàu từ hắc trân châu

Nguồn tin: VNN, 15/02/2007
Ngày cập nhật: 17/2/2007

Xuân Đinh Hợi này ông tròn 90 tuổi, cái tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng trông ông vẫn uyên bác, nhanh nhẹn và luôn trong tư thế sẵn sàng. Hễ có ai nói đến cụm từ “ngọc trai đen” là đôi mắt ông như sáng lên, rực rỡ hơn và ông lên đường. Dù tận Cà Mau, Côn Đảo hay Cần Giờ… ông vẫn đi, đi để san sẻ tri thức, nhân rộng kỹ thuật nuôi trai lấy ngọc và thực hiện ước mơ giúp nông dân đổi đời.

Ông là Trần Doãn Thiện, người đầu tiên tại VN tìm ra bí quyết nuôi tạo ngọc trai đen (hắc trân châu).

VN xuất khẩu hắc trân châu, tại sao không?

So với các quốc gia, vùng lãnh thổ lân cận như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan... thì công nghệ sản xuất, kinh doanh ngọc trai trắng tại VN khó mà theo kịp vì họ đã tham gia thị trường này từ lâu, có trong tay hàng tỉ con trai ngậm ngọc. Song chính vì đang thắng lợi từ ngọc trai trắng (không đủ hàng xuất khẩu) nên các quốc gia, vùng lãnh thổ trên chưa nghiên cứu, mày mò tìm đến hắc trân châu.

Trằn trọc mãi với giấc mơ tạo ngọc trai đen, một lần, ông tình cờ nhìn vào hàm răng đen tuyền, lấp lánh rất có duyên của vợ (phụ nữ Bắc). Ông chợt nghĩ răng cũng được cấu tạo bằng canxi, hạt ngọc trai cũng có thành phần tương tự, màu răng thay đổi được thì phải có cách thay màu cho hạt ngọc, viên ngọc đẹp nhờ vào áo trai làm tế bào ngọc, lớp áo tạo nên những tinh thể thuần nhất.

Ngoài yếu tố gen và môi trường sống, bí quyết tạo màu cho trai còn phụ thuộc vào thức ăn nuôi trai. Ông đã nghiên cứu ra thức ăn làm từ một loại lá của cây sồi (loại lá người xưa dùng để nhuộm vải, lụa đen) và vảy cá đen lóng lánh như cá diếc, cá chép...

Ngoài ngọc trai đen ông Thiện còn tạo ngọc màu như hồng đậm, nhạt... Thời gian từ lúc cấy nhân cho đến khi trai cho ngọc là hai năm, một viên ngọc đen khoảng từ 13-14 mm có giá 1.000 - 2.000USD.

Còn với ông Thiện, sau nhiều năm lăn lộn với việc nghiên cứu phương pháp nuôi, cấy ngọc trai ông đã nhận ra rằng VN muốn phát triển nghề này ra thế giới phải làm cái mà chưa ai làm. Hàng hiếm và quý đối với giới chơi ngọc chính là hắc trân châu, thế là ông bắt tay vào nghiên cứu, tìm tòi kỹ thuật nuôi, tạo ngọc trai đen. Sau 10 năm ròng rã trôi qua ông đã nắm trong tay bí quyết độc đáo này.

Các chuyên gia, nhà kinh doanh ngọc trai Nhật, Pháp, Trung Quốc... hay tin VN tạo được ngọc trai đen đã đến tìm ông, mời hợp tác làm ăn và mời làm chuyên gia cho họ với điều kiện chỉ làm việc cho họ, không tuyên truyền bí quyết này ra ngoài. “Dĩ nhiên là tôi không đồng ý, tôi nói tôi phải hướng dẫn kỹ thuật này cho bà con nông dân VN, không bán bí quyết cho ai “độc quyền” cả” - ông Thiện cho biết.

Cũng theo ông Thiện, hiện chưa quốc gia nào sản xuất ngọc trai đen, tại sao VN không làm và giữ bí quyết cho nước mình? “Nếu đưa công thức cho họ, chỉ cần sau 6 tháng họ có thể tạo được hắc trân châu với số lượng lớn ngay vì trong tay họ đã có sẵn hàng tỉ tỉ con trai ngậm ngọc” - ông Thiện nói.

Để thực hiện ước mong phổ biến kỹ thuật nuôi, tạo ngọc trai, dù tuổi đã 90 (SN 1917 - 2007) ông vẫn sẵn sàng đi đây đó, đến những vùng mà bà con nông dân cần để hướng dẫn tận tình, miễn phí. “Hễ có người nhờ và đưa xe đến rước là tôi đi” - ông cười và nói rất vô tư.

Có lẽ, chỉ có đi ông mới thoả mãn được mong ước mà trong lúc phấn chấn ông đã “xuất khẩu thành thơ” thế này: “Hắc trân châu đen huyền, hồng đậm, lắm sắc màu... Ngọc nhiều xuất khẩu khắp 5 châu; Tổ quốc tăng thêm nguồn ngoại tệ; Muôn đời con cháu ắt sang giàu”.

Tính đến thời điểm hiện nay, đã có hàng trăm bài báo nói về việc người dân VN có thể làm giàu từ nghề nuôi trai lấy ngọc, nhưng thực tế chưa có nhiều nông dân mặn mà gắn bó với nghề hoặc có thể giàu to nhờ nghề, thậm chí, có những người thất bại. Hiện nghề nuôi, tạo ngọc trai tại VN còn diễn ra manh mún, lẻ tẻ theo kiểu mạnh ai nấy làm. Theo ông Thiện, nguyên nhân là vì “mỏ vàng” này chưa được nông dân và chính quyền VN khai thác đúng cách.

Ông Thiện cho rằng nuôi trai là nghề ít rủi ro, lợi nhuận cao vì con trai rất dễ nuôi, có thể nuôi kết hợp trong ao nuôi cá (trai lọc nước giúp cá lớn nhanh còn phân cá thì có thể làm thức ăn cho trai). Vốn liếng để mua giống con trai cũng không nhiều (5.000 đ/kg trai giống), trai sinh sản nhanh. Chỉ nuôi trai để lấy thịt và vỏ không thôi thì cũng đủ có lời, đó là chưa kể có thể nuôi và cấy ghép ngọc trai.

Trên con đường chuyển giao công nghệ nuôi trai đi khắp mọi miền hiện ông Thiện vẫn đơn độc một mình. Theo ông, để phát triển nghề nuôi trai lấy ngọc thì một cá nhân khó có thể làm được mà cần phải có tổ chức, chính quyền địa phương, cụ thể là các Trung tâm khuyến nông.

Ông Thiện cho rằng Trung tâm khuyến nông của các tỉnh, thành trong cả nước nên có kế hoạch và cử cán bộ khoa học học tập để nắm vững kiến thức, kỹ thuật nuôi trai lấy ngọc nhằm phổ biến rộng rãi cho bà con nông dân, đồng thời theo dõi, hướng dẫn nông dân làm ăn cho có hiệu quả.

Trước khi chia tay tôi, vị đại tá công an (nay đã về hưu) có hơn 60 năm tuổi Đảng này tâm sự rất chân tình: “Trước khi đi theo Bác Hồ tôi có tâm nguyện rằng mọi ao hồ, sông nước VN, nước ngọt cũng như nước mặn đều thu hoạch được hắc trân châu”.

Nguyễn Sa


Nuôi tôm bền vững - một mô hình lý tưởng cho nông dân Cà Mau

Nguồn tin: CM, 13/02/2007
Ngày cập nhật: 16/2/2007

Năm 2006, Sở Khoa học và Công nghệ cơ bản hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch trên giao trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng, đã tổ chức xét duyệt đề cương thuyết minh cho 18 đề tài, dự án do Hội đồng khoa học - kỹ thuật tỉnh thông qua và được UBND tỉnh phê duyệt cho triển khai thực hiện.

Trong số các đề tài dự án hoàn thành đã báo cáo xong năm 2006, có đề tài "Nghiên cứu xây dựng mô hình nuôi tôm sú công nghiệp sử dụng các đối tượng sinh học để xử lý nguồn nước trong các ao nuôi và sau khi nuôi, góp phần bảo vệ môi trường" được hội đồng nghiệm thu đánh giá cao, xếp vào loại khá và đang đề nghị UBND tỉnh xem xét khen thưởng.

Yếu tố độc đáo mang tính đột phá và sáng tạo mới của đề tài nêu trên là dùng các loài sinh vật sống bản địa (động, thực vật phù du, nhuyễn thể, vi sinh vật...) để cải thiện chất lượng môi trường nước ao nuôi, hay tham gia xử lý nước ô nhiễm để cung cấp tuần hoàn cho ao nuôi tôm công nghiệp theo một chu trình khép kín. Kết quả đạt được khá thành công và bất ngờ, mở ra cho người nuôi tôm công nghiệp ở Cà Mau thêm một hướng đi mới đầy triển vọng.

Tác giả đã dùng sò huyết sống chứa trong những rổ nhựa, hằng ngày treo ngầm vào ao nuôi (đêm đến mang lên bờ nhằm tránh cạnh tranh ô-xy với tôm), kết hợp với các chế phẩm vi sinh vật để lọc nước trực tiếp ngay trong ao nuôi tôm công nghiệp giúp làm chậm lại quá trình nhiễm bẩn; rồi khi đến kỳ thay nước ao nuôi, nước bị ô nhiễm được bơm vào chứa trong ao lắng và tại đây sò huyết cũng được dùng thả xuống đáy ao (loại 1.000-2.000 con/kg, mật độ thả khoảng 80 con/m2), kết hợp với các chế phẩm vi sinh vật, cá phi và một số loài động, thực vật phù du tự nhiên khác để xử lý, thanh lọc cho đến khi chất lượng nước tốt bình thường trở lại thì đưa nó trở về ao nuôi theo chu trình khép kín mà không cần dùng đến những hóa chất xử lý nước hay phải xả ra môi trường như các quy trình nuôi trước đây. Từ đó hạn chế được việc gây ô nhiễm môi trường chung quanh vùng nuôi. Đề tài này được thực hiện thành công qua hai vụ nuôi với mật độ thả tôm khá cao liên tiếp tại hộ ông Đào Văn Non, ấp Tân Long A, xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi. Kết quả thu được là vừa có tôm chất lượng cao, sản lượng đạt 6-7 tấn/ha, vừa có sản phẩm phụ là sò huyết với số lượng lớn.

Do trong quá trình nuôi không dùng hóa chất, chất kháng sinh để xử lý môi trường nước hay phòng trị bệnh tôm, từ đó nguy cơ nhiễm kháng sinh, hóa chất độc hại trong sản phẩm xem như cũng được loại trừ trong khâu nuôi và chăm sóc. So với trình độ kỹ thuật nuôi, nhận thức về bảo vệ môi trường và những vấn đề khác có liên quan đến nuôi tôm trong điều kiện địa phương thì mô hình nuôi này có nhiều ưu điểm, tạo ra dòng sản phẩm sạch, an toàn, đáp ứng thị truờng khó tính, phù hợp xu thế hội nhập.

Bên cạnh đó, mô hình này không gây ô nhiễm môi trường bởi nước thải từ ao nuôi không bơm xả ra môi trường, nước ngoài môi trường kinh rạch cũng không lấy trực tiếp vào ao nuôi, nếu trong vùng có xảy ra tình trạng tôm chết thì nguồn nước ô nhiễm cũng khó ảnh hưởng đến tôm nuôi theo quy trình khép kín này.

Ngoài ra, mô hình còn có lợi là có thêm sản phẩm phụ có giá trị. Ngoài sản phẩm chính là tôm thương phẩm có năng suất và chất lượng cao (vì mật độ thả dầy), người nuôi còn thu thêm các sản phẩm phụ rất có giá trị với số lượng khá lớn là sò huyết, cá phi... Với nguồn thu từ hai nguồn sản phẩm trong một chu kỳ nuôi trên một đơn vị diện tích chắc chắn lợi nhuận sẽ nhiều, hiệu quả kinh tế càng lớn hơn.

Điều quan trọng nhất là mô hình có tính bền vững cao, mang lại hiệu quả nhiều mặt: người nuôi tiết kiệm được nhiều khoản chi từ việc không dùng hóa chất độc hại hay kháng sinh trong quá trình nuôi nên sẽ có lãi và phát triển ổn định nhờ sản phẩm sạch "được mùa được giá", từ đó càng có điều kiện phát triển và tích lũy kinh tế.

Tác giả của đề tài khoa học này chính là thạc sĩ Lê Thị Siêng, Trung tâm nghiên cứu môi trường và xử lý nước thuộc Viện khoa học thủy lợi miền Nam.

Từ Báo Cà Mau


Đồng Nai: Cá nuôi bè để bán Tết lại chết hàng loạt

Nguồn tin: NLĐ, 15/2/2007
Ngày cập nhật: 16/2/2007

Cá bè chết do ô nhiễm môi trường, ngày càng phổ biến... Trong ảnh: Cá điêu hồng bị chết trong vụ cá bè chết do nước sông ô nhiễm ở Tiền Giang và An Giang vào tháng 1/2006.

Trong các ngày 13 và 14/2, cá nuôi bè của dân trên sông Đồng Nai, đoạn chảy qua phường Thống Nhất, Biên Hòa (Đồng Nai) bị chết hàng loạt... Số cá bị chết chủ yếu là cá chép, cá điêu hồng thương phẩm đang trong thời kỳ thu hoạch bán trong dịp Tết Đinh Hợi.

Khu vực này có 26 hộ dân nuôi cá bè.

Sự việc bắt đầu từ sáng sớm 13/2,người dân phát hiện mùi hôi thối nồng nặc từ nước sông bốc lên, cá trong bè chết hàng loạt.

Ông Nguyễn Đình Thắng, chủ 4 bè cá tại đây nhận xét: Mùi hôi thường xuất hiện ở khu vực cống xả nước thải từ Nhà máy giấy Tân Mai ra sông Đồng Nai. Hiện tượng cá chết trùng hợp với việc Nhà máy đang vệ sinh cuối năm, nên rất có thể do nguồn nước bị ô nhiễm do Nhà máy giấy xả nước thải.

Ước tính ban đầu, trong 2 ngày qua, đã có hơn 30 tấn cá nuôi trong 43 bè của 26 hộ ở phường Thống Nhất bị chết, tổng thiệt hại khoảng nửa tỷ đồng.

Do số lượng cá chết quá nhiều và muốn để truy tìm nguyên nhân gây ra, các hộ vẫn để nguyên số cá chết tại bè để chờ các cơ quan chức năng đến kết luận, xử lý.

Trước đó, ngày 9/1/2006, tại khu vực nuôi cá bè trên sông Đồng Nai, đoạn chảy qua phường Tân Mai, giáp ranh với phường Thống Nhất - nơi có nhiều nhà máy, xí nghiệp xả nước thải ra sông cũng đã làm hàng chục tấn cá nuôi trong bè chết hàng loạt.

Theo TTXVN


ĐBSCL: Giá cá tra, ba sa gần đạt ngưỡng 17.000đ/kg

Nguồn tin: SGGP, 14/02/2007
Ngày cập nhật: 15/2/2007


ĐBSCL thiếu cá tra nguyên liệu: Người nuôi cá thắng lớn, doanh nghiệp lao đao

Nguồn tin: BCT, 14/2/2007
Ngày cập nhật: 15/2/2007

Mặc dù đã hạ kích cỡ cá nhưng ông Đỗ Văn Nghiệp (ảnh), một người chuyên thu mua cá tại An Giang vẫn không gom đủ cá nguyên liệu cung cấp cho các doanh nghiệp.

Trong những ngày qua, người nuôi cá tra tại ĐBSCL thắng lớn vì giá cá tra nguyên liệu liên tục tăng trong khi các doanh nghiệp chế biến lao đao vì thiếu nguyên liệu. Vậy là cái vòng lẩn quẩn thiếu - thừa cá nguyên liệu lại tái diễn đúng như dự đoán, nhưng lần này trầm trọng hơn trước đây. Mức giá thu mua được các doanh nghiệp liên tục đẩy lên nhưng vẫn không có hàng. Một số doanh nghiệp đã phải đóng cửa “ăn Tết sớm”...

NGƯỜI NUÔI VUI

“Thắng lớn!”. Đó là câu nói cửa miệng của người nuôi cá tra tại ĐBSCL. Chưa bao giờ giá cá nguyên liệu lại lên cao đến vậy. Anh Võ Văn Hô, một người nuôi cá tại Châu Phú - An Giang cho biết: “Tháng trước, khi các doanh nghiệp mua cá với giá 15.600 đồng/kg, người nuôi cá đã rất phấn khởi, nhưng không ngờ giá cá lại lên cao như bây giờ”. Mặc dù đã đẩy mức giá lên đến 16.000 đồng/kg nhưng doanh nghiệp vẫn không ra cá để mua, buộc phải đưa ra mức giá chưa từng có tại thị trường ĐBSCL là 16.700 đồng/kg cho cá tra nuôi hầm, thịt trắng. Anh Hô cho biết thêm: “Chỉ trong tháng đầu năm các hội viên của chi hội nuôi cá Hòa Bình - Châu Phú đã xuất bán hơn 1.000 tấn, trong đó có số lượng lớn cá chưa đủ cỡ vẫn được doanh nghiệp chấp nhận mua, nên giờ không còn cá để bán”. Còn anh Nguyễn Phước Hựu, một người nuôi cá tại Khánh Hòa, Châu Phú, cho biết: “Do đợt thả cá trong năm hao hụt quá nhiều nên đến lứa xuất bán, sản lượng đã giảm đáng kể. Đến giờ, khi giá được các doanh nghiệp đẩy lên cao, hạ cỡ cá thu mua xuống còn 0,8-0,9kg/con nhưng nhiều hộ đã không còn cá để bán”.

Với mức giá như hiện nay, theo tính toán nếu nuôi cá bằng thức ăn công nghiệp thì bình quân một kg cá thu lãi 5.000-5.500 đồng/kg, còn nuôi bằng thức ăn tự chế thì lãi trên 6.000 đồng/kg. Anh Võ Văn Hô cho biết thêm: Vụ nuôi vừa rồi, chỉ 1.500m2 mặt nước nuôi cá, gia đình anh thu hoạch được 65 tấn cá, thu lãi khoảng 390 triệu đồng. Các “đại gia” nuôi cá với diện tích từ 1 ha trở lên thì thu lãi 3-4 tỉ đồng, thậm chí hàng chục tỉ đồng là chuyện bình thường”.

Sau thời gian dài thăng trầm với con cá tra, thậm chí có người đứng bên bờ vực phá sản, vụ này bà con nuôi cá tra đã thắng lớn. Nhưng, trên thực tế người nuôi cá sẽ thắng lớn hơn nếu có thể giữ cá đủ kích cỡ và còn cá để bán trong thời điểm giá cao như hiện nay. Ông Đỗ Văn Nghiệp, một người chuyên đi thu mua cá nguyên liệu giao lại cho các doanh nghiệp, tỏ ra tiếc rẻ: “Trước đây, một ngày tôi thu mua 250-300 tấn cá, còn hiện nay phải săn tìm dữ lắm cũng chỉ gom được chừng 70 tấn. Trong khi đó nhu cầu của các doanh nghiệp tại An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng ngày một cao nên không thể đáp ứng kịp”.

DOANH NGHIỆP LO

Việc khan hiếm cá nguyên liệu đã làm nhiều doanh nghiệp đau đầu. Tuy đã cận Tết, rất cần đẩy mạnh sản xuất, nhưng rất nhiều doanh nghiệp gần như “bất lực” trong cơn “khát” cá nguyên liệu. Ông Tô Xuân Thái, Trưởng phòng Tổ chức Công ty Thuận An (An Giang), cho biết: Hiện nay công ty chỉ sản xuất 50% công suất. Do không tìm đủ cá nguyên liệu nên công ty chủ yếu làm cầm chừng để lo đời sống cho công nhân. Tình hình này chắc phải đóng cửa “ăn Tết sớm”. Với đội ngũ công nhân khoảng 700 người, chỉ trong tháng 12-2006 công ty đã xuất 130 triệu đồng hỗ trợ 40% lương cho công nhân. Ông Thái cho biết thêm: “Có thể công ty sẽ tiếp tục hỗ trợ lương tháng 1 để công nhân yên tâm ăn Tết. Nhưng nếu tình hình còn kéo dài cũng chưa biết giải quyết ra sao vì công ty không thể gánh hết”.

Tình cảnh thiếu cá nguyên liệu như hiệu ứng dây chuyền tại các doanh nghiệp chế biến của An Giang. Ông Lưu Bách Thảo, Giám đốc Công ty TNHH Việt An, cho biết: “Tự thân các doanh nghiệp đang phải “săn” nguyên liệu để lo đời sống cho công nhân, chứ không còn chú trọng mục tiêu thương mại như trước”. Tại Công ty Việt An, công suất chế biến của nhà máy là 150 tấn/ngày, nhưng vì không đủ nguyên liệu nên chỉ hoạt động từ 40-50% công suất. Không chỉ các doanh nghiệp nhỏ gặp tình trạng này mà các “đại gia” cũng không ngoại lệ. Với công suất 1.500 tấn/ngày, lãnh đạo Công ty Nam Việt cũng đang “đứng ngồi không yên” vì thiếu nguyên liệu. Ông Doãn Tới, Giám đốc công ty, xác nhận: “Mọi năm công ty nghỉ vào 27 tết nhưng năm nay buộc phải nghỉ vào 24 Tết vì không tìm đâu ra nguyên liệu để chế biến”. Còn ông Cao Lương Tri, Phó Giám đốc Công ty Afasco, nói: “Nhiều doanh nghiệp buộc phải hạ cỡ cá xuống còn 0,8-0,9kg/con, nhưng vẫn phải tranh nhau mới có nguyên liệu nên các doanh nghiệp sẽ rất khó khăn trong thời gian tới”.

ĐÂU LÀ CĂN NGUYÊN?

Tình trạng thiếu cá tra nguyên liệu không nằm ngoài dự đoán của nhiều người, song lời giải cho bài toán này vẫn còn bỏ ngỏ trong thời gian qua. Ông Đỗ Văn Nghiệp, một người chuyên đi thu mua cá giao lại cho các doanh nghiệp, nói: “Do năm 2005, người nuôi cá lỗ nặng nên bà con dè dặt khi đầu tư nuôi mới. Trong khi đó, vụ này giống thả xuống bị hao hụt trên 30% làm cho sản lượng giảm, cộng thêm nhiều doanh nghiệp đồng loạt tăng công suất hoạt động, nên tình trạng thiếu cá nguyên liệu trở nên trầm trọng”.

Đi sâu vào thực tế mới thấy tình hình thiếu cá nguyên liệu năm nay có vẻ hơi bất thường khi mà diện tích nuôi không ngừng tăng lên. Trả lời cho câu hỏi này, anh Võ Văn Hô, người nuôi cá tại huyện Châu Phú, cho biết: “Do chất lượng cá giống thấp làm cho lượng cá hao hụt khi thả đầu vụ quá lớn so với mọi năm, làm sản lượng thu hoạch giảm nghiêm trọng. Mặt khác, nhiều hộ muốn thả nuôi lại hoặc muốn bắt đầu nuôi cá cũng không thể tìm ra cá giống, buộc phải treo hầm”. Ông Lê Chí Bình, Phó Chủ tịch Hội nghề nuôi và chế biến thủy sản An Giang, nhận định: “Nhiều doanh nghiệp đã ký hợp đồng xuất trong năm, giờ đến hạn giao hàng buộc phải mua cá để sản xuất, nên phải tăng giá. Thị trường xuất khẩu đã được các doanh nghiệp quan tâm mở rộng nên nhu cầu nguồn nguyên liệu ngày một tăng. Nhiều nhà máy chế biến cá tra tăng công suất hoạt động cộng với một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong xuất khẩu tôm đã chuyển qua làm cá cũng góp phần đẩy nhu cầu cá nguyên liệu tăng lên. Đặc biệt, việc hạ cỡ cá từ trên 1kg xuống còn 0,8-0,9kg/con đã làm cho sản lượng thu mua giảm từ 10-20%. Hiện nay, hiệp hội đã khuyến cáo bà con không nên kềm giá mà cần bán cá tới lứa”.

Chuyện thiếu - thừa cá nguyên liệu tại ĐBSCL thời gian qua như là một quy luật có tính chu kỳ. Nhưng theo nhiều người, trong lần lặp lại này, tình trạng thiếu cá nguyên liệu như một “cơn bão”. Nó kéo ngư dân trong cơn say chiến thắng sẽ dẫn đến việc phát sinh diện tích nuôi thêm trong vụ tới và nhiều khả năng sẽ có khủng hoảng thừa. Còn với các doanh nghiệp, “cơn bão” như là một lời cảnh tỉnh cho việc chuẩn bị nguồn nguyên liệu trong đầu tư phát triển sản xuất. Nếu không có sự chuẩn bị tốt vùng nguyên liệu, việc phát triển sản xuất như con dao hai lưỡi, hậu quả rất khó lường. Trong danh sách doanh nghiệp thiếu cá nguyên liệu không thấy bóng dáng của Công ty Agifish, bởi vì công ty đã có một “hậu phương” vững chắc là 31 hội viên nằm trong CLB sản xuất cá sạch của đơn vị. Đặc biệt là sự liên kết giữa công ty và người nuôi cá, không có trình trạng bẻ kèo mà chủ yếu bảo đảm đôi bên cùng có lợi. Nhờ đó, công ty luôn có nguồn nguyên liệu ổn định trong giai đoạn khó khăn này.

Căn nguyên của “cơn bão” thiếu cá nguyên liệu bắt nguồn từ việc phát triển sản xuất thiếu bền vững, hầu như tất cả các doanh nghiệp đều chưa chuẩn bị cho mình một vùng nguyên liệu ổn định. Việc phát triển sản xuất trên nền tảng chất lượng con giống cũng chưa được chú ý. Theo dự báo của giới chuyên môn, mức giá cá nguyên liệu cao kỷ lục hiện nay sẽ còn ổn định đến hết tháng 6 năm nay. Nhiều nhà máy sẽ khó trụ vững trong một thời gian dài nữa.

BÌNH NGUYÊN


Khó khăn trong đánh giá chất lượng cá thương phẩm: Ai sẽ giúp ngư dân?

Nguồn tin: AG, 13/2/2007
Ngày cập nhật: 14/2/2007

Nhiều năm qua, ngư dân nuôi cá tra, basa thường gặp khó khăn trong việc đánh giá chất lượng cá thương phẩm. Người nuôi cùng cho rằng: Khi mức cung thấp hơn cầu, tức là lúc mà sản lượng cá ít nhưng nhu cầu thị trường cao thì việc mua bán thường diễn ra suôn sẻ, thuận lợi. Ngược lại, những khi dội chợ, “ế hàng” người nuôi cá cũng lao đao vì bị đơn vị mua tiến hành công việc kiểm tra hết sức chặt chẽ, vừa phải chờ đợi mất nhiều thời gian mà đôi khi bị “phán” không đạt yêu cầu về chất lượng. Lắm chủ nuôi ấm ức: Cũng loại cá này, phương thức nuôi không thay đổi, nhưng khi hút hàng thì bán đắt như tôm tươi, giờ gặp lúc dội hàng, thì lại viện lý do này khác để khỏi phải mua. Mà nói sao thì chúng tôi chịu vậy, chứ đâu biết gì về kết quả kiểm tra của họ.

Các công ty thì cho rằng, việc kiểm tra chất lượng cá thương phẩm là dựa trên những cơ sở khoa học, với các tiêu chuẩn đã được đăng ký rõ ràng, nên không có việc “muốn nói sao thì nói” như ngư dân suy nghĩ. Vậy thì ai đúng, ai sai ?

Nhiều năm qua, nghề nuôi thủy sản ở ĐBSCL phất lên rất mạnh, sản lượng nuôi, công suất chế biến và kim ngạch xuất khẩu tăng lên từng năm. Đến nay, sản lượng toàn vùng đã tăng lên gần 1 triệu tấn, và còn đang có những dự báo sẽ tăng tốc trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, tính chất của sự phát triển này là không ổn định và bền vững. Bởi nhiều người nuôi có thể làm giàu thì cũng có người nuôi phải trắng tay. Đó là điều làm đau đầu những nhà quản lý, nhưng nhìn chung, không ai có thể “đẽo chân cho vừa giày” khi bảo người dân đừng nuôi mới. Nhất là trong hướng tới, thị trường tiêu thụ cá tra, basa có triển vọng còn mở rộng hơn từ sự kiện gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO với những điều luật công bằng hơn.

Với những thông tin được phổ biến rộng khắp, ngày nay, hầu hết những ai có hoạt động sản xuất, kinh doanh đều nhận thức được rằng thuận lợi từ việc mở rộng thị trường sẽ đi kèm với thách thức, đó là các rào cản phi thuế quan mà trong đó quan trọng nhất là chất lượng sản phẩm liên quan đến yếu tố môi trường và dư lượng các hóa chất cấm. Ai sẽ giúp nông ngư dân chúng ta về phương diện này, để đảm bảo những sản phẩm của mình làm ra không bị thị trường ngoảnh mặt, để có thể làm giàu từ con cá đặc sản của quê hương, đất nước và để nền kinh tế không chỉ tăng trưởng một cách ổn định mà còn bộc phá vươn lên với những ưu thế vượt trội của mình ?

Trên thực tế, các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng cá tra, basa phi lê xuất khẩu đã đầu tư vùng nuôi với quy mô lớn, đủ sức cung ứng cho nhà máy để đảm bảo hoạt động liên tục và ít bị động về nguồn nguyên liệu. Và, để đảm bảo cho công việc kinh doanh của mình được thuận lợi, họ đã tiến hành thuê các tổ chức chuyên môn tư vấn thực hiện phương pháp nuôi an toàn cũng như khảo sát, đánh giá và cấp giấy chứng nhận để có được giấy “thông hành” tự do trên thương trường quốc tế. Và, hiện chỉ còn lại những ngư dân đơn thuần nuôi cá để bán cho những nhà máy chế biến với hy vọng mong manh được mùa, được giá !

Ngày nay, nhiều tổ chức quốc tế đã nhìn thấy vấn đề này và đã cùng phối hợp với các tổ chức của ngành Thủy sản Việt Nam để vào cuộc. Qua đó, An Giang đã tổ chức được một số mô hình nuôi cá sạch dựa trên các tiêu chuẩn SQF, Eurep-Gap, nuôi cá tra sinh thái… và Sở Thủy sản cũng đang vận động nông ngư dân thực hiện các biện pháp nuôi an toàn trong toàn tỉnh. Mặc dù chưa thể tạo được những chuyển biến toàn diện trong một sớm, một chiều, nhưng công việc này đang tạo được mối quan tâm cho toàn thể những người nuôi và đang hướng nghề nuôi cá của An Giang và ĐBSCL theo hướng ngày càng được nâng chất để thích nghi tốt hơn với yêu cầu thị trường.

Vấn đề có lẽ sẽ trở nên đơn giản hơn, khi các tổ chức quản lý về mặt Nhà nước và các Hiệp hội Thủy sản cùng chung sức để xây dựng được một tổ chức khoa học chịu trách nhiệm về vấn đề này. Đó là một tổ chức khách quan, sẽ đứng trung gian giữa người nuôi và nhà chế biến, xuất khẩu. Họ có nhiệm vụ tư vấn, hướng dẫn nông ngư dân thực hiện quy trình nuôi an toàn cũng như thường xuyên lấy mẫu xét nghiệm, phân tích đánh giá và ghi nhận theo từng mốc thời điểm cần thiết. Khi phát hiện có vấn đề nào đó gây trở ngại, lập tức cùng người nuôi khắc phục ngay. Có như vậy, thì khi đến kỳ thu hoạch, vấn đề về chất lượng sẽ bớt gay go hơn, và người nuôi sẽ không phải nơm nớp lo bị đánh rớt khỏi những hợp đồng đã được ký kết với doanh nghiệp.

Khi chúng ta đã tính đến những bài toán lớn cho nền kinh tế để hội nhập một cách an toàn, thì việc đi tìm một tổ chức khoa học đủ tư cách pháp nhân và trình độ, năng lực để hỗ trợ nông dân trong việc khẳng định chất lượng, xây dựng thương hiệu cá tra, basa Việt Nam hiện là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách.

P.V


An Giang: Xuất khẩu cá tra, basa tăng mạnh

Nguồn tin: TTXVN, 12/02/2007
Ngày cập nhật: 14/2/2007


Phú Yên: Lao đao với tôm hùm

Nguồn tin: PY, 12/2/2007
Ngày cập nhật: 14/2/2007

Gần một thập kỷ qua, con tôm hùm mang lại nguồn thu lớn, làm đổi đời cho bao hộ dân nghèo ở vùng biển Nhất Tự Sơn (xã Xuân Thọ 1, huyện Sông Cầu, Phú Yên). Vậy mà, mùa này tôm hùm bỗng dưng “trở chứng” bỏ ăn, trắng bụng rồi lăn đùng ra chết hàng loạt. Người dân hoang mang, lo lắng, cũng chẳng biết chữa trị bằng cách nào, nên đành bất lực, buông tay, chịu thiệt hại hàng tỷ đồng.

Tôm bệnh chết vẫn chưa xác định chính xác nguyên nhân

TÔM CHẾT TRẮNG BÈ

Bình minh lên, mặt biển như dãn ra, cũng là lúc cánh đàn ông ở các thôn Mỹ Thành, Phước Hậu… dùng sõng, thúng chai lao nhanh về phía những bè gỗ nổi, ken dày trên mặt biển Nhất Tự Sơn. Họ buồn rầu, lặng lẽ, làm cái việc mà họ chưa bao giờ làm là lặn vớt… tôm hùm chết “rớt” trắng dưới đáy lồng. Hơn một giờ sau, họ tay xách nách mang từ vài con đến cả giỏ tôm chết đem về làng bán cho các đầu nậu với giá rẻ mạt. Nhiều người hoang mang, mất ăn mất ngủ, vì tôm liên tục “rụng” với số lượng lớn và họ có nguy cơ trắng tay. Ở đầu làng thôn Mỹ Thành, chúng tôi bắt gặp lão ngư Trần Thọ (64 tuổi) với gương mặt phờ phạc, ngồi thẫn thờ dõi trông bè tôm của mình. Ông Thọ kêu trời: “Gần 10 tháng nuôi tôm hùm được từ 0,5 – 0,7kg/con thì lũ lượt lăn đùng ra chết. Vụ này, cũng giống như hàng trăm hộ khác, mấy cha con tui dốc hết vốn và vay thêm ngân hàng gần 200 triệu đồng thả nuôi 2.500 con tôm hùm. Bây giờ tôm “đi”, chỉ còn lại khoảng 1.500 con. Nếu tính bình quân mỗi con tôm được 0,6kg, bán theo giá thị trường 700.000 đồng/kg, thì tui mất đứt 420 triệu đồng. Bao nhiêu tiền của, công sức nhọc nhằn với sóng gió để nuôi tôm có nguy cơ bị mất trắng!”.

Để “cứu” những bè tôm, nhiều hộ dân ở đây đã chạy nháo nhào, bán tháo tôm non hàng loạt, mặc dù giá tôm thịt bị “ép” xuống thấp, lỗ nặng (cứ bán 100 con tôm non lỗ vốn 5 triệu đồng, chưa tính tiền công chăm sóc gần 10 tháng – PV). Anh Trần Văn Cơ ở thôn Mỹ Thành, tâm sự: Tôi nuôi 1.000 con, bị chết hết phân nửa, nên đành phải lần lượt bán tôm hùm non để “gỡ” lại một phần vốn vay…”. Mấy ngày nay, người dân “kêu” dữ quá, nên cán bộ chính quyền địa phương về vùng tôm Nhất Tự Sơn để nắm tình hình báo cáo cấp trên. Phó Chủ tịch UBND xã Xuân Thọ 1 Nguyễn Văn Danh thông báo cho chúng tôi biết, hiện tỷ lệ tôm hùm chết khá cao từ 30 – 60% số lượng. Tính sơ bộ, 117 hộ dân ở các thôn Mỹ Thành, Phước Hậu, Phú Vĩnh có khoảng 13.628 con tôm hùm chết thiệt hại lên đến 5,72 tỷ đồng!

VÌ SAO TÔM CHẾT HÀNG LOẠT?

Chiều, nhiều người dân xúm xít tại nhà ông Đinh Văn Thọ (người chuyên mua gom vỏ tôm hùm lột làm hàng thủ công mỹ nghệ, nay chuyển sang mua tôm chết bán cho nhà hàng), bàn tán tìm nguyên nhân tôm bệnh bằng… mắt thường. Ông Dương Văn Thương cầm con tôm hùm chết đã bốc mùi hôi, nói với chúng tôi: Đa số tôm bệnh ở đây có biểu hiện hở khớp đầu, bụng có nhiều dịch trắng đục lan rộng, sau chuyển sang màu hồng rồi - chết. Hiện nay, nhiều người nuôi tôm rất hoang mang, lo lắng và cho rằng Công ty TNHH nuôi trồng thủy sản Đài Loan – Việt Nam nuôi cá mú (cách khu nuôi tôm hùm Nhất Tự Sơn khoảng vài trăm mét) đã sử dụng nhiều hóa chất phun hàng tuần để chống hàu vào lưới là nguyên nhân gây ra tình trạng tôm hùm chết hàng loạt. Đến nay, các ngành chức năng vẫn chưa kiểm tra và xác định chính xác công ty có dùng hóa chất làm ảnh hưởng đến tôm hùm hay không để thông báo cho bà con yên tâm. Song, theo ông Nguyễn Văn Tân, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Xuân Thọ 1, điều dễ nhận thấy là người dân thả nuôi khoảng 30 vạn con tôm trên 500 bè lớn nằm ken dày ở vùng eo biển Nhất Tự Sơn. Lượng chất thải từ thức ăn tôm tích tụ hàng năm rất lớn, làm cho môi trường nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đây cũng có thể là nguyên nhân làm tôm hùm chết hàng loạt.

Khi trở về UBND xã Xuân Thọ 1, chúng tôi nhận được thông tin, Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Phú Yên đã lấy mẫu tôm hùm bị bệnh chết ở ven biển thôn Phú Vĩnh (nằm gần vùng nuôi Nhất Tự Sơn), gửi xét nghiệm bệnh tại Phòng Nghiên cứu bệnh thủy sản (NCBTS) và dự báo (thuộc Viện Nghiên cứu thủy sản 3 - Nha Trang). Theo ông Võ Văn Nha, Trưởng phòng NCBTS và dự báo, vi khuẩn Vibrio fluvialis trên gan tụy tôm khá cao (80x102 CFU/gam gan tụy), ký sinh trùng vi bào tử trùng (Microsporidians) trong cơ và trong dịch màu trắng đục của tôm ở mức (+ +) là nguyên nhân gây cho tôm hùm bệnh và chết. Các chuyên gia của Viện đã lấy dịch huyết thanh của mẫu tôm hùm chết tiêm cho 3 con tôm hùm mạnh thì hiện nay 2 con đã chết. Tuy nhiên, đây chưa phải là mẫu tôm bệnh chết của vùng nuôi Nhất Tự Sơn, nên vẫn chưa xác định một cách chính xác nguyên nhân tôm bệnh ở đây, nhằm hướng dẫn cho hộ nuôi các biện pháp phòng ngừa tổng hợp để hạn chế tôm hùm bị bệnh lây lan trên diện rộng.

NGUY CƠ BÙNG PHÁT THÀNH DỊCH, NẾU...

Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Phú Yên Nguyễn Văn Do cho biết, chi cục đang phối hợp với Chi nhánh Quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (ATVS&TYTS) vùng 3 Nha Trang (thuộc Cục Quản lý chất lượng ATVS&TYTS) và Viện Nghiên cứu thủy sản 3 - Nha Trang, tiến hành kiểm tra, khảo sát các yếu tố có khả năng gây bệnh cho tôm hùm, đồng thời lấy mẫu phân tích đánh giá mức độ vi khuẩn, ký sinh trùng gây bệnh. Trên cơ sở đó chi cục sẽ đưa các biện pháp triển khai khống chế bệnh tôm hùm.

Mỗi ngày đi qua, chỉ tính riêng ở Nhất Tự Sơn, tôm hùm “rụng” từ vài chục đến vài trăm con. Trong khi đó, hiện nay người dân vẫn chưa nắm bắt được các giải pháp “cứu” tôm, nên vô cùng lo lắng. “Còn nước còn tát” – nhiều người đã phải chạy mua đủ các loại thuốc phòng trị bệnh của tôm sú để chữa trị cho tôm hùm! Ông Dương Văn Thương cho biết, bà con thường sử dụng các loại thuốc chữa bệnh tôm sú như Anti – Vibrio f/S2, Vitamin C 10%… ngâm trộn vào thức ăn cho tôm hùm, nhưng không có kết quả.

Thêm một thực tế nữa là, do ai cũng xót của, nên khi vớt tôm hùm chết lên không chịu tiêu hủy mà đem bán cho các đầu nậu đi tiêu thụ ở các quán ăn trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Điều này vừa gây nguy hiểm cho người tiêu dùng, vừa dễ làm mầm bệnh phán tán và lây lan ra các vùng nuôi xung quanh. Khi viết bài này, chúng tôi nhận thêm thông tin bệnh tôm đã lan rộng ra các vùng nuôi ở xã Xuân Phương, Xuân Thịnh, thị trấn Sông Cầu (huyện Sông Cầu). Vậy là vùng nuôi tôm hùm lớn nhất của tỉnh Phú Yên vốn làm giàu cho hàng ngàn hộ dân ven biển, đang phải đối mặt với nguy cơ bùng phát thành dịch, nếu không tìm ra các biện pháp cấp bách ngăn chặn, phòng trừ hữu hiệu!

LƯU PHONG


Bến Tre: HTX Thủy sản Rạng Đông khai thác nghêu giúp xã viên đón Tết

Nguồn tin: Bến Tre, 13/02/2007
Ngày cập nhật: 14/2/2007

Trong 4 ngày (từ 5 – 8/2/2007), BQL Hợp tác xã thủy sản Rạng Đông, xã Thới Thuận, huyện Bình Đại, đã tổ chức khai thác 60 tấn nghêu thịt, doanh thu hơn 800 triệu đồng để chia tiền cho xã viên đón Tết. Bình quân mỗi hộ xã viên được chia khoảng 450 ngàn đồng (chưa kể tiền công lao động bắt nghêu). Đây là đợt khai thác lần 2 trong năm 2007. Từ sau cơn bão số 9 đến nay, HTX đã khai thác 3 lần với doanh thu hơn 2,6 tỉ đồng để giải quyết khó khăn cho xã viên.

Đức Chính


Nhà máy chế biến cá tra, ba sa "đói" nguyên liệu

Nguồn tin: LĐ, 12/02/2007
Ngày cập nhật: 14/2/2007


Cá hồi nuôi ở Tp. Đà Lạt: tỷ lệ sống đạt 87%

Nguồn tin: Vasep, 9/2/2007
Ngày cập nhật: 13/2/2007

Cá hồi xứ lạnh do Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I nhập khẩu từ Hà Lan do Trạm nghiên cứu thực nghiệm giống thuộc Viện nghiên cứu III nuôi 4 tháng qua tại vùng sông hồ xã Đạ Chay huyện Lạc Dương đã bắt đầu cung ứng thử cho một số nhà hàng đặc sản như Hoàng Anh Resort, Dinh II, Dinh III ở Tp. Đà Lạt chế biến phục vụ thực khách nhân dịp Tết. Số lượng nuôi đầu tiên là 20.000 con, tỷ lệ sống đạt 87%, mỗi con lúc thu hoạch nặng từ 700 - 750g, tính ra có giá thành từ 150.000 - 165.000 đ/kg. Tỷ lệ nuôi sống ở vùng cao Lâm Đồng cao hơn đợt nuôi thử nghiệm đầu tiên ở Sapa.


Vì sao khu nuôi tôm công nghiệp đầu tiên của Bà Rịa-Vũng Tàu thi công chậm?

Nguồn tin: ND, 12/2/2007
Ngày cập nhật: 13/2/2007


146 vùng nuôi nhuyễn thể hai mảnh vỏ đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang EU

Nguồn tin: ND, 10/3/2007
Ngày cập nhật: 12/2/2007


Cà Mau thiếu nguyên liệu tôm trầm trọng

Nguồn tin: ND, 11/2/2007
Ngày cập nhật: 12/2/2007

Cà Mau hiện có gần ba mươi xí nghiệp, nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu. Tuy nhiên, do thiếu tôm nguyên liệu, hiện nay hầu hết các nhà máy hoạt động không tới 50% công suất.

Giá tôm các loại tăng liên tục, bình quân gần 25 nghìn/kg so với cùng thời điểm này năm trước. Việc thiếu hụt nguồn tôm nguyên liệu do hầu hết người nuôi đã thu hoạch ở thời điểm trước Tết Nguyên đán, đồng thời tình trạng tôm chết vẫn chưa được khắc phục.

Theo ngành thủy sản, hiện nay, có từ 6 đến 10% tổng diện tích tôm nuôi tại các huyện Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, Năm Căn, Trần Văn Thời và Cái Nước tôm nuôi bị chết.

PV


Tân Phú: Nuôi cá bằng hồ nổi

Nguồn tin: ĐN, 10/02/2007
Ngày cập nhật: 12/2/2007

Tại xã Phú Lâm (huyện Tân Phú), gần đây đã xuất hiện một mô hình nuôi cá trong hồ nổi trên mặt đất khá mới. Kiểu nuôi này phù hợp cho vùng đất cao, đất đá không đào hồ bình thường được.

Mô hình nuôi cá bằng hồ nổi trên mặt đất này bắt đầu từ hai anh Bùi Quang Hòa, ấp Phương Lâm 2 và anh Đặng Văn Quý, ấp Phương Mai 2. Vào giữa năm 2006, khi đọc bài báo giới thiệu về mô hình nuôi lươn bằng bạt nên rủ nhau đi tìm hiểu. Trở về, anh Hòa làm hồ triển khai nuôi thử nghiệm lươn. Nhưng rồi đợt nuôi đó không thành công do lươn giống yếu. Sau đó, hai anh bàn với nhau cải tiến lại chiếc hồ của mình để chuyển sang nuôi cá. Khi chiếc hồ hoàn tất, anh Hòa đã mua cá rô đồng về thả và anh Quý cũng về làm một chiếc hồ tương tự để nuôi cá trê lai. Anh Hòa nói: "Chúng tôi bàn nhau phải nuôi 2 loại cá để so sánh. Vì đây là loại hồ làm bằng bạt ni-lông nên có thể loại cá này phù hợp nhưng loại cá kia thì không". Kết quả cho thấy, kiểu hồ này nuôi cá rô đồng cũng không đạt, nhưng lại thích hợp với nuôi cá trê lai.

Sở dĩ gọi bằng hồ nổi trên mặt đất là do hồ được làm phần lớn chứa nước ở trên mặt đất. Hồ rất đơn giản, chỉ cần có một khoảng đất trống và đào xuống 30cm, sau đó mua tấm bạt bằng ni-lông trải xuống. Quanh bờ hồ đóng những cọc tre hoặc bằng gỗ cao khoảng 1m rồi buộc các mép bạt vào đó. Trong lòng hồ cho một lớp bùn dày 10cm và đổ nước ngập từ 60 - 80cm. Bên trên thả lục bình để làm giảm độ nóng của nước và làm sạch nước trong hồ. Anh Quý cho biết, nhiều nơi có quá nhiều đất đá không đào xuống được thì chỉ cần san bằng mặt đất rồi kiếm đá xếp thành ô vuông, rộng hẹp tùy mình. Đá cũng xếp cao lên khoảng 30cm rồi cũng đóng cọc xung quanh và trải bạt, không nhất thiết là phải đào xuống đất. Cái hồ của anh Quý rộng hơn 20m2 mặt nước, chi phí làm hồ chỉ tốn 120 ngàn đồng. Đến nay đã hơn 8 tháng, anh Quý nuôi được 3 lứa cá trê lai. Mỗi lứa cá sau 2 tháng nuôi anh lãi được 500 ngàn đồng.

Mô hình "hồ cạn" để nuôi cá này đã được nhiều người dân ở huyện Tân Phú đến học tập. Ở ấp Thạnh Thọ 2, ông Trần Viết Hòa sau khi đến tham quan mô hình này thấy khá hay ông về chuyển dãy chuồng heo của mình sang làm hồ nuôi cá. Ông Thọ cho biết, nuôi cá như vậy vừa đơn giản, nếu tính ra cũng có lãi khá cao và tận dụng được mọi địa hình.

Khắc Giới


Pha nước biển nhân tạo để sản xuất tôm sú giống có tỷ lệ nuôi sống cao hơn

Nguồn tin: BCT10/2/2007
Ngày cập nhật: 11/2/2007

Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ vừa thử nghiệm thành công trong việc pha nước biển nhân tạo để sản xuất tôm sú giống qua hệ thống lọc sinh học tuần hoàn, có tỷ lệ nuôi sống cao hơn nuôi trong nước biển tự nhiên.

Các tác giả đã tạo ra nước biển bằng cách pha chế các hóa chất và muối tự nhiên vào nước ngọt. Sau đó, dùng nước biển nhân tạo pha với nước biển tự nhiên theo tỷ lệ 75% nước biển nhân tạo, 25% nước biển tự nhiên, tạo thành dung dịch thích hợp để ươm tôm giống. Theo các nhà khoa học ở đây cho biết: môi trường này tốt hơn nước biển tự nhiên.

Kết quả cho thấy tỷ lệ tôm giống sống từ 85 - 90%, chất lượng lại cao vì sạch bệnh. Phương pháp này đã được đưa vào ứng dụng sản xuất tôm giống đại trà. Ngoài ra, các nhà khoa học còn thử nghiệm nuôi tôm sú bố mẹ theo phương pháp trên, bước đầu đạt kết quả khả quan.

THẾ ĐẠT (TTXVN)


ĐBSCL: ICOMEX - Doanh nghiệp đầu tiên đầu tư, bao tiêu xuất khẩu cá thác lác

Nguồn tin: SGGP, 09/02/2007
Ngày cập nhật: 10/2/2007

Nông dân Hậu Giang thu hoạch cá thác lác

Đó là Công ty Cổ phần Thủy sản và Xuất nhập khẩu Côn Đảo (ICOMEX) đã đầu tư hơn 1 tỷ đồng sản xuất cá giống thác lác ở xã Thạnh Hòa, Phụng Hiệp – Hậu Giang. Trong thời gian qua, cơ sở đã cung cấp hơn 1,2 tỷ con cá cho ĐBSCL và Đồng Nai.

Năm 2006, ICOMEX đã xuất khẩu đạt doanh số gần 10 triệu USD từ mặt hàng chả cá (chủ yếu là chả cá biển). Sáng 9-2, Giám đốc Công ty ICOMEX, Lê Văn Kháng cho biết: Doanh nghiệp đã trực tiếp ký kết hợp đồng bao tiêu với những hộ dân nuôi cá ở Phụng Hiệp.

Giá bao tiêu thấp nhất là 25.000đ/kg; nếu giá ngoài thị trường cao hơn nông dân có quyền bán cho ai cũng được. Năm 2007, chả cá thác lác Hậu Giang sẽ là mặt hàng chiến lược xuất khẩu của công ty sang thị trường Pháp, Italia, Tây Ban Nha và Nga.

Tin, ảnh: C.H.P


Sóc Trăng: Khởi động vụ tôm sú năm 2007 có nhiều thuận lợi

Nguồn tin: QĐND, 08/02/2007
Ngày cập nhật: 10/2/2007

Vụ tôm chính vụ 2007, tỉnh Sóc Trăng dự kiến thả nuôi 46.000ha tôm sú, trong đó có 25.000ha nuôi theo mô hình thâm canh và bán thâm canh. Đến thời điểm đầu tháng 2, mặc dù chưa vào chính vụ thả nuôi nhưng Sóc Trăng đã có vài trăm héc-ta tôm được thả giống. Diện tích còn lại chủ yếu là tập trung cải tạo ao vuông và chờ yếu tố môi trường thời tiết thuận lợi là xuống giống.

Điểm nổi bật trong công tác chuẩn bị kỹ thuật cho mùa vụ nuôi tôm 2007 là Sóc Trăng tập trung tuyên truyền sản xuất an toàn, nhất là trong giai đoạn hoạt động xuất khẩu đang gặp bất lợi về vấn đề dư lượng hóa chất, kháng sinh cấm. Ở vùng nuôi huyện Vĩnh Châu, Long Phú vấn đề nuôi tôm sạch được nông hộ nắm bắt chắc chắn hơn. Còn đối với vùng tôm lúa Mỹ Xuyên, do quy mô đầu tư ở cấp độ nông hộ chưa cao, phương pháp nuôi quảng canh cải tiến là chủ yếu nên người nuôi chưa thực sự quan tâm đến vấn đề chất lượng tôm nguyên liệu. Tỉnh ưu tiên khuyến cáo dành cho khu vực này là bảo vệ môi trường tốt, chăm sóc tôm kỹ lưỡng để phòng bệnh từ xa. Khi tôm nuôi ở mật độ thấp, kiểm soát bệnh tốt thì người nuôi sẽ hạn chế dùng thuốc để xử lý, qua đó sẽ giảm được nguy cơ thất mùa và dư lượng kháng sinh ảnh hưởng đến việc xuất khẩu…

Nhờ vụ tôm sú năm 2006 thắng lợi (với hơn 83% hộ nuôi có lãi) nên vụ tôm 2007 này, người nuôi tôm Sóc Trăng rất chú trọng đến khâu cải tạo ao vuông, chuẩn bị điều kiện tốt nhất để hy vọng tiếp tục có một vụ tôm sú thắng lợi…

TRUNG HIẾU


Nuôi trồng thủy sản miền núi chậm phát triển

Nguồn tin: VOV, 08/02/2007
Ngày cập nhật: 10/2/2007

Các tỉnh miền núi vẫn chưa xây dựng được vùng nuôi tập trung; đối tượng nuôi vẫn là các loài cá truyền thống nên sản lượng thấp, giá trị kinh tế không cao, chưa thể xuất khẩu.

Sản lượng thủy sản (khai thác nội địa và nuôi của các tỉnh miền núi) năm 2000 là 64.523 tấn và năm 2006 là 156.088 tấn (trong đó sản lượng khai thác đạt 46.733 tấn), chiếm 4,22% tổng sản lượng thủy sản cả nước, bình quân tăng 23,7%/năm.

Báo cáo của Vụ nuôi trồng thủy sản (Bộ Thủy sản) tại Hội nghị tổng kết chương trình phát triển thủy sản miền núi giai đoạn 1996-2006 diễn ra trong hai ngày 6-7/2 tại Phú Thọ nêu rõ: Trong 7 năm (từ 2000-2006), ngân sách trung ương đã cấp 463,6 tỷ đồng cho các địa phương để xây dựng hạ tầng nuôi trồng thủy sản. Trong số này, đầu tư cho các tỉnh miền núi phía Bắc 129,5 tỷ đồng. Riêng năm 2006, nhà nước đã cấp 111 tỷ đồng để xây dựng Trung tâm giống thủy sản cấp I (Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Bắc Giang, Nghệ An), xây dựng các trung tâm giống tỉnh các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, các dự án chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản.

Phát triển nuôi thủy sản không đều và chậm ở nhiều tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Ở hai khu vực này mặc dù có tiềm năng lớn về mặt nước hồ tự nhiên và hồ chứa có thể sử dụng để nuôi cá lồng tập trung với số lượng lớn hoặc tổ chức quản lý và khai thác nghề cá hồ chứa nhưng cho đến nay vẫn chưa có phương án sử dụng hiệu quả tiềm năng này. Bên cạnh đó, các tỉnh miền núi vẫn chưa xây dựng được vùng nuôi tập trung; đối tượng nuôi vẫn là các loài cá truyền thống nên sản lượng thấp, giá trị kinh tế không cao, chưa thể xuất khẩu; hầu như chưa thực hiện việc quản lý môi trường; nhân lực kỹ thuật cho nuôi thủy sản còn thiếu và yếu...

Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Thủy sản Nguyễn Việt Thắng cho rằng, thời gian tới cần phát triển nuôi trồng thủy sản miền núi theo hướng bền vững, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái; bảo đảm sản xuất, ổn định đời sống nhân dân; tạo sản phẩm hàng hóa cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và tham gia xuất khẩu; tạo công ăn, việc làm, xóa đói, giảm nghèo... Ngành thủy sản cũng sẽ quan tâm đào tạo nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng, trung tâm sản xuất giống lớn; Qui hoạch và đưa diện tích mặt nước vào khai thác; Nghiên cứu đưa các giống cá nước lạnh vào sản xuất./.

Trần Đình Luân


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang