• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Giải pháp nào để ngành thủy sản vượt qua thách thức?

Nguồn tin: ND, 23/11/2006
Ngày cập nhật: 23/11/2006


Xuất khẩu thủy sản đã hoàn thành kế hoạch năm

Nguồn tin: VNECONOMY, 23/11/2006
Ngày cập nhật: 23/11/2006

 


Khánh Hòa: hiện tượng tôm hùm bị hở cổ

Nguồn tin: TT, 22/11/2006
Ngày cập nhật: 23/11/2006

Mặc dù đang vào mùa thu hoạch nhưng nhiều ngư dân nuôi tôm hùm tại huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa) không bán được tôm do tôm nuôi bị bệnh hở cổ và thân ống.

Thương lái từ chối mua tôm có khoảng hở ngay cổ và thân, phần thân thịt bị xốp. Đây là hiện tượng tôm hùm bệnh vẫn sống bình thường lần đầu tiên xuất hiện tại Khánh Hòa nhưng chưa tìm ra nguyên nhân.

K.V.T.

 


Sản xuất giống thủy sản sạch – bước khởi động để sản xuất bền vững

Nguồn tin: AG, 22/11/2006
Ngày cập nhật: 23/11/2006

Thủy sản đối với An Giang đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn với kim ngạch xuất khẩu ngày càng vượt kim ngạch gạo. Có thể thấy, 10 tháng của năm 2006, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đã đạt mức trên 174 triệu USD, trong khi đó kim ngạch gạo 134,4 triệu USD – là tín hiệu đáng mừng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất và kinh doanh. Tuy nhiên, một thực tế không thể phủ nhận được là dù sản lượng xuất khẩu tăng nhưng giá trị xuất khẩu lại giảm, mà thấy rõ nhất là giá xuất bình quân năm 2000 đạt mức 4,25 USD/kg cá tra, basa thì đến năm 2005 chỉ còn 2,21 USD và năm 2006 này vẫn bình quân hơn 2,7 USD/kg. Tình trạng này có nhiều nguyên nhân, trong đó có tình trạng chất lượng sản phẩm chưa thật ổn định để đáp ứng yêu cầu thị trường. Do đó, việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, mà đầu tiên tất yếu phải bắt đầu từ khâu sản xuất cá giống sạch.

Sản xuất thủy sản sạch là hướng đi mà ngành thủy sản cả nước nói chung và An Giang nói riêng phải vươn tới để vượt qua những rào cản kỹ thuật ở thị trường nước ngoài. Với hướng đi này, tỉnh An Giang đã và đang hình thành mô hình liên kết 5 nhà (nhà sản xuất giống, nhà cung cấp thức ăn, nhà cung cấp thuốc thú y thủy sản, nhà doanh nghiệp và ngư dân). Đóng vai trò quan trọng trong mô hình này, Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang đã có nhiều nỗ lực để sản xuất con giống chất lượng cao – bước khởi động của toàn bộ quy trình sản xuất cá sạch. Bà Nguyễn Thị Ngọc Trinh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang cho biết: “Để có được một sản phẩm cá sạch đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, người sản xuất phải thực hiện tốt nhiều khâu từ con giống, thức ăn, phương pháp phòng trị bệnh cho cá đến công nghệ chế biến… và trong các chuỗi cấu thành sản phẩm đó thì con giống có ý nghĩa đặc biệt quan trọng (tuy chiếm khoảng 10% trong cơ cấu giá thành) nhưng có ảnh hưởng lớn đến năng suất, sản lượng nuôi. Chọn con giống tốt là biện pháp loại từ đầu một trong những rủi ro của quá trình nuôi, là điều kiện bắt buộc để bảo đảm hiệu quả sản xuất”. Từ đó, Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang đã mạnh dạn xây dựng và đến tháng 3-2006 vừa qua, đón nhận một sự kiện quan trọng, đó là các trại và vệ tinh sản xuất cá tra, ba sa trực thuộc trung tâm đã được công nhận đạt tiêu chuẩn SQF 1000 (có nghĩa an toàn chất lượng thực phẩm). Đây là đơn vị đầu tiên trong ngành sản xuất giống cá tra, ba sa ở ĐBSCL được chứng nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế về quy trình sản xuất, để từ đó đánh dấu quá trình phát triển của ngành sản xuất giống thủy sản An Giang, góp phần tạo nên hiệu quả kinh tế-xã hội cho các Liên hợp sản xuất cá sạch trong tỉnh.

Hiện nay, cá giống của trung tâm đang được các trại giống và vệ tinh sản xuất theo quy trình sản xuất giống cá sạch, chất lượng con giống bảo đảm có tính năng vượt trội về tốc độ tăng trưởng, không mang mầm bệnh cũng như không nhiễm hóa chất và kháng sinh cấm, có thể truy xuất nguồn gốc bố mẹ dễ dàng. Đồng thời, để vận hành tốt hệ thống quản lý chất lượng, định kỳ Ban Giám đốc trung tâm cùng các cán bộ trong hệ thống kiểm tra tình hình thực hiện và cứ 6 tháng 1 lần triển khai đánh giá chất lượng nội bộ. Từ đó, bổ sung và khắc phục kịp thời những lỗi kỹ thuật (nếu có xảy ra) để bảo đảm con giống thật sự có chất lượng cao theo yêu cầu sản xuất. Với khả năng hiện có, trong năm 2006 này, Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang đủ năng lực cung cấp cho các Liên hợp sản xuất cá sạch trong và ngoài tỉnh từ 100 – 200 triệu con cá bột và 20 –35 triệu cá tra giống chất lượng cao !

Hiện nay, Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang đang xây dựng và thực hiện Dự án “Nâng cao chất lượng con giống cá tra” và xây dựng ngành công nghệ sản xuất giống thủy sản hiệu quả”. Trong các hoạt động này, việc xây dựng ngành công nghệ sản xuất giống ca tra hiệu quả và bền vững sẽ được trung tâm thực hiện kết hợp 2 phương pháp chọn giống hàng loạt và gia đình trong chương trình tuyển chọn đàn giống bố mẹ hậu bị có chất lượng cao cho ngành sản xuất giống. Đồng thời, đa dạng hóa nguồn gen trong di truyền thông qua tiếp nhận cá giống đã được tuyển chọn (thế hệ F1) từ Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II về nuôi thử nghiệm cùng với cá giống tuyển chọn của trung tâm để so sánh, đối chiếu các chỉ tiêu sinh học, tuyển chọn bổ sung làm đàn cá bố mẹ hậu bị. Bên cạnh đó, trung tâm cũng chú trọng huấn luyện kiến thức và kỹ năng sản xuất giống cho các cán bộ kỹ thuật và ngư dân ở các trại sản xuất cá bột và các cơ sở ương giống - là các vệ tinh trực thuộc với thống nhất quản lý sản xuất giống theo tiêu chuẩn SQF 1000. Dự kiến đến năm 2009, trung tâm sẽ bảo đảm chất lượng con giống theo hướng tăng tốc độ tăng trưởng, đạt tiêu chuẩn sạch bệnh và đáp ứng khoảng 70% nhu cầu cá sạch trong tỉnh !

Sản xuất theo quy hoạch và tiêu chuẩn chất lượng từ đầu vào đến đầu ra là con đường duy nhất để thủy sản An Giang phát triển bền vững .

BÍCH VÂN

 


Bình Dương: Nuôi cá bè trên sông Đồng Nai vẫn phát triển mạnh

Nguồn tin: Lao Động, 22/11/2006
Ngày cập nhật: 23/11/2006

(LĐ) - Ông Cao Minh Huệ - GĐ Sở TNMT tỉnh - cho biết: Việc cấm nuôi cá bè trên sông Đồng Nai gặp nhiều khó khăn vì ngăn bên này (Bình Dương) các hộ dân lại chạy qua bên kia (Đồng Nai).

Cho đến nay, thực trạng nuôi cá bè trên sông Đồng Nai (thuộc sự quản lý của Bình Dương) vẫn tiếp tục tăng mạnh, khiến cho tình hình ô nhiễm môi trường trên lưu vực sông này đang ở mức báo động.

Nếu như tháng 2.2005 chỉ có 160 hộ nuôi cá bè thì đến nay (20.11) đã có 254 hộ (tăng 94 hộ) với hơn 1.000 lồng cá, trong đó có nhiều hộ thả nuôi với quy mô lớn.

Quốc Minh

 


Hà Giang: 9 tỉ đồng nghiên cứu nuôi cá hồi vân nước lạnh

Nguồn tin: Lao Động, 22/11/2006
Ngày cập nhật: 23/11/2006

(LĐ) - Nguồn tin Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản VN ngày 21.11 cho hay, một dự án nghiên cứu cá hồi vân nước lạnh đang được triển khai tại tỉnh Hà Giang với tổng vốn đầu tư 9 tỉ đồng.

Việc nuôi thử nghiệm sẽ kéo dài đến hết năm 2009. Dự án được Cty TNHH Đại Bình thực hiện trên diện tích 8ha tại xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ.

C.Văn

 


Sóc Trăng: Người nuôi cá tra cho... thuê ao

Nguồn tin: SGGP, 21/11/2006
Ngày cập nhật: 22/11/2006

Mặc dù giá cá tra thương phẩm đang ở mức cao nhưng nông dân ở huyện Kế Sách và Long Phú (Sóc Trăng) không tiến hành thả nuôi ồ ạt như những năm trước vì không có vốn. Theo uớc tính sơ bộ của Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT tỉnh Sóc Trăng, trên 10 tỷ đồng mà hệ thống ngân hàng nông nghiệp đầu tư cho các hộ nuôi cá tra ở huyện Kế Sách hiện có đến 2 tỷ đồng là nợ khó đòi vì những năm trước người nuôi thua lỗ quá nặng. Chính vì vậy mà những hộ có ao nuôi cá tra nằm dọc theo tuyến sông Hậu đã cho nhiều “đại gia” đến từ các tỉnh trong khu vực ĐBSCL thuê ao với giá từ 70 – 120 triệu đồng/ha mặt nước.

H.D.

 


Làm giàu từ nuôi hào ven biển

Nguồn tin: SGGP, 21/11/2006
Ngày cập nhật: 22/11/2006

Sáng 21-11, ông Diệp Thanh Hải, Phó Giám đốc Sở Thủy sản Cà Mau, thông tin nhanh với Báo SGGP 12giờ: ngành thủy sản vừa thử nghiệm thành công mô hình nuôi hào ven biển. Theo đó, hào giống được đưa vào lồng, thả nuôi ở vùng biển Đất Mũi. Sau 8 tháng chăm sóc, bình quân mỗi lồng thu lãi từ 30- 35 triệu đồng sau khi trừ chi phí. Điều đáng mừng là hào luôn được giá rất cao, cung không đủ cầu.

Hiện tại, ngoài Cà Mau thì Kiên Giang, Bến Tre… cũng đang nuôi hào ven biển. Nghề nuôi hào hứa hẹn giúp nông dân vùng biển ĐBSCL làm giàu.

H.P.L.

 


Cá tra giống “sốt” giá

Nguồn tin: VNECONOMY, 21/11/2006
Ngày cập nhật: 22/11/2006

Hiện nay, do cầu vượt cung nên giá cá tra giống các tỉnh An Giang, Đồng Tháp tăng lên từng ngày. Đầu vụ loại cá loại 2 phân giá 350 đ/con, nay có giá 1.100 đ/con, giới kinh doanh mặt hàng này dự báo sẽ còn tăng giá nữa. Vụ cá năm nay hầu hết người nuôi cá tra giống đều lãi cao. Bà con ngư dân nuôi cá tra giống ở ĐBSCL đang trúng đậm.

Muốn nuôi cá tra thịt đạt thắng lợi, đối với ngư dân khâu chọn mua cá giống rất quan trọng, họ rất cần có con giống tốt, sạch bệnh... để cho ra cá thương phẩm đạt chất lượng cao. Trong khi nghề nuôi cá tra thương phẩm rất được xã hội quan tâm và chia sẻ, những khi giá cá trên thị trường sụt giảm. Hàng chục năm qua, đối với nghề nuôi cá tra giống ít ai biết đến những buồn vui của nghề này.

Cầu vượt cung, giá cá giống tăng mạnh

Hiện nay tại ĐBSCL, giá cá tra thương phẩm bán cho các nhà máy chế biến xuất khẩu đang ổn định ở giá cao, suốt nhiều tuần qua giá cá dao động từ 13.500đ- 14.200 đồng/kg, ngư dân có lãi nhiều nên đã bán cá ra đồng thời tìm mua cá giống thả nuôi lại, cộng thêm những ao trước đây nghỉ nuôi do giá cá thịt không ổn định, cảm thấy ngán ngại nay cũng quay lại tìm mua cá giống thả nuôi.

Từ hai tháng qua giá cá tra giống trên thị trường đã khởi sắc, do giá cá tra thương phẩm luôn ở mức giá rất tốt nên bà con ngư dân trong vùng rủ nhau mua cá giống thả nuôi rất đông. Nhu cầu về con giống ngày càng tăng, trong khi lượng cá tra giống hiện có trong dân không nhiều, các lái cá tranh mua để giao cho các ao, hầm nuôi cá thịt, đẩy giá cá giống tăng lên từng ngày.

Theo bà con ngư dân ở xã Long Kháng, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp “cái nôi” của nghề nuôi cá tra giống cho biết, sự khan hiếm cá giống hôm nay do nhiều nguyên nhân. Để có được con cá giống bán cho các ao, hầm chuyên nuôi cá thịt, giới nuôi cá giống tới mua cá bột (cá con ép ra từ cá bố mẹ sau 24 giờ) từ những người chuyên nuôi cá bố mẹ.

Mấy tháng trước, khi cá bột mới mua về thả xuống ao gặp trời mưa bão liên tục, làm cá con trở bệnh chết hàng loạt, có những ao cá chết nổi lên trắng mặt nước ao, làm cho số lượng cá giống trong vùng giảm đáng kể.

Cộng với tâm lý người nuôi cá giống thấy có lãi thì bán ngay, sợ giữ lâu cá tuột giá nên tranh thủ bán nhanh thu hồi vốn, chỉ để lại số ít những con còn nhỏ chưa đúng kích cỡ nuôi tiếp. Nguyên nhân thứ ba, giá cá bột trước đây bán ra chỉ có 0,8đ/con, thì hiện nay có giá là 9-10 đồng/con, giá cá bột tăng lên gấp 10 lần khiến cho người nuôi cá giống thấy ngán ngại không dám mua thả nuôi nhiều vì nghề nuôi cá giống có độ rủi ro rất cao.

Anh Lâm Quốc Khánh, ngư dân ở xã Long khánh, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp cho biết, gia đình anh có 4 hầm nuôi cá tra giống. Một tháng trước thấy giá cá nhích lên anh cho cá ăn thúc để đạt size 2 phân, bán nhanh ra vì sợ cá giá tuột trở lại, anh bán 80.000 con với giá 530 đồng/con, giá nầy cũng khá cao so với trước đó chỉ 350 đồng/con, tính ra cũng lãi được kha khá, tưởng như thế là thành công.

Không ngờ hôm nay cũng cá cùng size đó thì giá đã vọt lên 1.100 đồng/con, cao hơn gấp đôi giá lúc anh bán, anh nói với chúng tôi một cách nuối tiếc: “Phải chi tôi không cần cho ăn thúc, nuôi từ từ đến hôm nay bán cũng kiếm được thêm 45 triệu đồng như không!”.

Thiếu thông tin thị trường, ngư dân thiệt

Có sự thiếu hụt cá giống trầm trọng như hiện nay là do những năm trước đây khi đến lúc giao mùa, thời tiết trở lạnh đột ngột cá giống thường bị chết nhiều, người nuôi cá giống “canh” bán trước đợt gió cho an toàn, nếu có để cá lại giá cũng tăng lên không nhiều, cho nên đa số ngư dân đều bán cá ra, sửa chữa gia cố ao hầm chuẩn bị cho vụ mùa nuôi tiếp theo.

Nhưng năm nay do nhu cầu con giống tăng cao, làm cho người nuôi cá giống không ngờ tới, đó là do hầu hết ngư dân nuôi cá đều thiếu thông tin. Chính họ lại muốn thả ngay cá bột mới ươm vào nuôi sớm nhất, tranh thủ có đợt cá giống mới đầu tiên cung ứng cho thị trường. Nhưng đây chỉ là suy luận chứ bà con không nắm bắt bất cứ thông tin nào từ các Hiệp hội nghề cá trong cũng như ngoài tỉnh.

Người nuôi cá giống tranh mua cá bột thả nuôi, khiến giá cá bột tăng giá đột biến. Cá giống tăng gấp hai thì cá bột tăng gấp mười nhưng vẫn không có đủ hàng vì lúc nầy đã cuối mùa, cá bố mẹ còn mang trứng rất ít. Anh Nguyễn văn Uôn, ở xã Long Khánh chuyên nghề ép cá tra bột bán cho người nuôi cá giống nói: “Giá cá bột năm nay tăng giá quá bất ngờ, nếu biết trước tôi không cho cá đẻ ồ ạt hôm đầu vụ, chừa lại một số giờ nầy ép thì giàu to”.

Trước đây chừng một tháng giá cá bột dao động từ 0,8 - 1 đ/con, lúc dội hàng rớt còn 60 xu/con, nay giá cá bột tăng lên chóng mặt, cách đây 4 ngày tăng lên 5đ/con, thì nay đã lên 10 đồng/con. Bình quân một con cá mẹ cho 0,5kg trứng, khi ép sẽ cho ra 500.000 con bột, bình thường chỉ bán được 500.000 đồng/cá mẹ, nay bán được 5 triệu đồng.

Khi cầu vượt cung thì chất lượng con giống ít được các lái cá quan tâm, họ chỉ mong sao mua được nhiều cá giống bán lại cho người mua, thu lãi nhiều là được, còn chuyện con giống tốt, xấu khi thả nuôi tỉ lệ sống đạt bao nhiêu %? Cá giống có bị nhiễm các kháng sinh bị cấm hay không thì không hề quan tâm đến, nếu con giống không đạt sẽ kéo theo nhiều hệ luỵ mà có lẽ chỉ có ngư dân nuôi cá thịt mới được “nếm” mùi!

Nguyễn Huyền - Long Bào

 


Khánh Hoà: Giá tôm hùm tăng mạnh

Nguồn tin: LĐ, 20/11/2006
Ngày cập nhật: 22/11/2006

Ngày 19.11, giá bán lẻ tôm hùm loại 1 tại Nha Trang đã xấp xỉ 750.000 đồng/kg, cao nhất từ trước đến nay; ngoài ra giá tôm sú, mực ống cũng tăng khoảng 10.000 đồng/kg. Thời gian này, ngư dân ở các huyện Vạn Ninh, Ninh Hoà, thị xã Cam Ranh và TP.Nha Trang phấn khởi khôi phục lại nghề nuôi hải sản khi nhận được thông tin dự báo từ nay đến cuối năm, giá hải sản tiếp tục tăng.

B.C

 


Vận động thành lập Hiệp hội cá tra, ba sa ĐBSCL; Giá cá tra cao, nhiều doanh nghiệp thủy sản gặp khó khăn

Nguồn tin: CT, 21/11/2006
Ngày cập nhật: 22/11/2006

 


Tiền Giang: giá cá bè giảm mạnh

Nguồn tin: SGTT, 20/11/2006
Ngày cập nhật: 21/11/2006

Hiện nay, người nuôi cá bè ở khu vực cồn Thới Sơn (huyện Châu Thành) và Tân Long (Thành phố .Mỹ Tho) tỉnh Tiền Giang đang thu hoạch rộ. Sản lượng cá bè (chủ yếu là cá điêu hồng) vụ này đạt khá nhưng giá cá giảm mạnh, cá điêu hồng chỉ còn từ 14.000- 16.000 đồng /kg, giảm 3.000-4.000 đồng /kg so với cách đây 2 tháng.

Không chỉ giá cá giảm, người nuôi còn gặp phải tình trạng thương lái ép giá và gian lận trong cân đong. Ông Nguyễn Văn Thuận, người nuôi cá bè cho biết, cá bè nuôi 6 tháng mới cho thu hoạch và chi phí đầu tư cho mỗi bè khoảng 100 triệu đồng. Với mức trên, người nuôi cá bị thua lỗ 1,5 - 2 triệu đồng/tấn, tức khoảng 7- 8 triệu đồng/bè.

Hiện nay Tiền Giang có gần 1.000 lồng bè cá. Người nuôi cá đang lao đao vì giá cá giảm, đồng thời thức ăn đang ở mức cao (tăng gấp 2 lần so cùng vụ năm trước) nên giữ cá trong bè rất tốn kém. Ngoài ra, thời tiết se lạnh làm tỉ lệ cá chết nhiều, nguy cơ thua lỗ rất nặng.

Theo TTXVN


CÀ MAU SẼ CÓ THÊM KHU VỰC ĐẠT TIÊU CHUẨN NUÔI TÔM SINH THÁI

Nguồn tin: ECaMau, 20/11/2006
Ngày cập nhật: 21/11/2006

Ngoài khu vực đã được chứng nhận đạt tiêu chuẩn nuôi tôm sinh thái tại Lâm Ngư trường 184, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau vừa thống nhất cho Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau liên kết với Công ty IMO tổ chức chứng nhận khu vực đạt tiêu chuẩn nuôi tôm sinh thái, thuộc khu vực được phép nuôi tôm sinh thái trong lâm phần Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau; trên cơ sở đảm bảo đúng với Dự án Đầu tư bảo vệ và Phát triển Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau và các quy định hiện hành về quản lý Vườn Quốc gia, quản lý bảo vệ rừng. Khu vực dự kiến đề nghị chứng nhận đạt tiêu chuẩn nuôi tôm sinh thái thuộc Tiểu khu 1A, nằm trong phân khu phục hồi sinh thái của Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, với tổng diện tích 840 ha.

Việc tổ chức chứng nhận nuôi tôm theo tiêu chuẩn sinh thái sẽ tạo điều kiện cho việc nâng cao thu nhập cho người nuôi tôm, bảo vệ môi trường sinh thái, đồng thời phù hợp với chủ trương phát triển nuôi trồng thuỷ sản hiệu quả cao và bền vững của tỉnh.

Trung Tín

 


Trung Quốc: Cấm bán cá bơn có chứa kháng sinh

Nguồn tin: SGGP, 21/11/2006
Ngày cập nhật: 21/11/2006

 


Bến Tre: Nuôi thành công cá bống mú kinh tế cao

Nguồn tin: SGGP, 20/11/2006
Ngày cập nhật: 21/11/2006

Trung tâm Khuyến ngư Bến Tre vừa nuôi thử nghiệm thành công cá bống mú kinh tế cao. Với 5.000 con giống, sau 8 tháng nuôi bình quân mỗi con đạt gần 1kg, tỷ lệ sống hơn 80%, giá bán 100.000đ/kg.

Sau khi trừ chi phí còn lãi trên 100 triệu đồng. Với việc nuôi thành công cá bống mú trong môi trường mặn và lợ, mở ra hướng nuôi mới cho người dân ven biển Bến Tre làm giàu từ loài cá kinh tế cao này.

H.P.L.

 


Quảng Ngãi: đã xác định loài ốc gây chết người

Nguồn tin: TT, 21/11/2006
Ngày cập nhật: 21/11/2006

Sáng 20-11, Viện Pasteur Nha Trang đã trả lời mẫu ốc gây ngộ độc làm chết hai người ở thôn Tây, xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi, có chứa thành phần độc tố là tetrodotoxin.

Tên loài ốc là Pimple Nassa, có kích thước 30-52mm, ở vùng biển có độ sâu 10m. Còn dân chúng vẫn gọi là ốc lạ.

Bà Đặng Thị Bình, phó giám đốc phụ trách Trung tâm Y tế dự phòng Quảng Ngãi, cho biết đây là loài ốc có độc tố cực độc (liều gây độc từ 0,5-2mg), giống độc tố có trong cá nóc. Độc tố này tạo ra tình trạng tê liệt cơ, thần kinh trung ương, tỉ lệ tử vong rất cao. Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh đang gửi thông báo đến trung tâm y tế các huyện, thành phố để tuyên truyền cho người dân đề phòng, không ăn loài ốc cực độc này.

MINH THU

 


An Phú - An Giang: Lượng cá nuôi bè bị hao hụt từ 15-30%

Nguồn tin: AG, 20/11/2006
Ngày cập nhật: 20/11/2006

Theo đánh giá của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện An Phú, tổng sản lượng thuỷ sản trên địa bàn từ đầu năm đến nay đạt 17.787 tấn, trong đó, sản lượng nuôi 15.787 tấn, đánh bắt 2.000 tấn. Đáng chú ý là cá nuôi hầm, bè mắc phải một số bệnh thường gặp như: Ký sinh, đốm đỏ, viêm ruột, gan đốm trắng… Theo ngư dân, tình trạng trên cộng với thời tiết nắng nóng kéo dài, mực nước cạn kiệt và môi trường nước ngày càng ô nhiễm, con giống chưa được kiểm dịch chặt chẽ… nên lượng cá nuôi bè bị hao hụt từ 15-30%, nhất là giai đoạn mới thả giống.

Huyện An Phú hiện có 1.171 lồng bè và 42,1 ha ao nuôi.

H.C

 


Sóc Trăng: Gần 10 ngàn ha diện tích nuôi tôm sú vụ 2

Nguồn tin: Sóc Trăng, 17/11/2006
Ngày cập nhật: 20/11/2006

Theo ông nguyễn Văn Khởi, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ nguồn lợi Thủy sản tỉnh, diện tích nuôi tôm sú vụ 2 chỉ tính riêng trên địa bàn 2 huyện Vĩnh Châu và Mỹ Xuyên đã gần 10 ngàn ha. Đây là một tình trạng đáng báo động vì đến nay đã có không ít diện tích nuôi vụ 2 bị thiệt hại cũng khó giữ được cho đến thu hoạch.

Việc thả nuôi vụ 2 sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường, dịch bệnh cho vụ thả nuôi chính vụ 2006 – 2007 và tính bền vững của mô hình. Đây là vấn đề đã được ngành thủy sản khuyến cáo từ lâu, nhưng vì lợi nhuận trước mắt nên mỗi khi trúng mùa lại có nhiều hộ thả nuôi tiếp vụ 2.

Theo Báo Sóc Trăng

 


Con tôm ôm bạc tỉ

Nguồn tin: VOV, 18/11/2006
Ngày cập nhật: 20/11/2006

Nghề nuôi tôm đã đưa không ít người dân trở thành tỉ phú nhanh chóng. Song chính con tôm cũng đã "tiễn" không ít những tỉ, triệu phú bỗng chốc thành kẻ trắng tay. Nguyên nhân thì đã rõ, nhưng giải quyết hậu quả ra sao lại là bài toán vô cùng nan giải

Giàu vì tôm, nghèo vì tôm

Bạc Liêu không chỉ là vựa lúa, xứ muối mà còn là nơi có nguồn thủy hải sản phong phú. Thế nhưng, nghề nuôi tôm ở nơi đây chỉ thực sự phát triển mạnh từ năm 2000, khi Bạc Liêu thực hiện phong trào chuyển đổi diện tích đất trồng lúa một vụ, hiệu quả kinh tế thấp tại vùng đất ven biển sang nuôi tôm.

Những năm đầu, con tôm đã đưa không ít người dân thành triệu phú, tỉ phú như mơ. Bởi “lực hấp dẫn” của con tôm lớn như vậy, nhiều người đổ xô vào đầu tư thuê đào vuông nuôi tôm. Thậm chí không ít cư dân các tỉnh khác cũng ào ạt đổ về Bạc Liêu thuê đất nuôi tôm. Vì thế, diện tích nuôi tôm ở Bạc Liêu tăng nhanh, khoảng 110.000 ha. Nhưng niềm vui "ngắn chẳng tày gang" với người nuôi tôm nơi đây. Năm 2004, con tôm bắt đầu “trở chứng": cứ nuôi được một, hai tháng bỗng dưng lăn đùng ra chết bất đắc kỳ tử khiến các chủ vuông tôm méo mặt, khóc ròng. Với một số hộ may mắn hơn, tôm không chết, nhưng cũng chẳng chịu lớn. Khi thu hoạch sau hồi cộng trừ nhân chia người nuôi mới "tá hỏa" vì chẳng có lãi.

Xã Hiệp Thành, thị xã Bạc Liêu thời điểm phát triển nhất, diện tích nuôi tôm là 847 ha. Thế nhưng hiện nay diện tích nuôi tôm ở đây chỉ còn 2/3 so với trước. 318 ha nuôi tôm hiện đã bị bỏ hoang, do những hộ nuôi tôm thua lỗ liên tiếp, không còn vốn đầu tư sản xuất. Chủ tịch xã, ông Lưu Minh Đức buồn bã: "Chúng tôi đã đề nghị các ngân hàng khoanh nợ, giãn nợ, tái đầu tư cho bà con nhưng không được chấp thuận vì lý do phải bảo toàn nguồn vốn. Số diện tích nuôi tôm kể trên, cho dù không nuôi tôm nữa, muốn chuyển đổi cây- con khác cũng cần phải có vốn. Không có tiền bà con sẽ chẳng làm được gì trong khi khoản nợ vẫn còn nằm chình ình tại các ngân hàng".

Toàn xã Hiệp Thành hiện có khoảng 342 hộ dân không còn khả năng trả nợ ngân hàng với tổng số tiền lên tới xấp xỉ 4 tỉ đồng. Nếu con tôm trước đây góp xóa đói, giảm nghèo, thậm chí làm giàu cho người dân Hiệp Thành; thì nay cũng chính con tôm đã làm không ít gia đình nơi đây lâm cảnh nợ nần chồng chất. Minh chứng cụ thể nhất: khi con tôm phát triển, Hiệp Thành chỉ có từ 5-7% số hộ nghèo, nay con số đói nghèo tăng trở lại với 24%. Ông Huỳnh Văn Ơn, ở xã Hiệp Thành thả nuôi hơn 1 ha tôm, ba năm liền (năm 2000, 2001, 2002) lãi trung bình mỗi năm 70 triệu đồng. Từ năm 2004, ông liên tục nuôi tôm thất bại, số tiền 250 triệu đồng ra đi theo con tôm cùng khoản nợ ngân hàng và tư nhân 140 triệu đồng. Thất bại, buồn bã nên ông lắc đầu quầy quậy, xua tay: Nhắc đến con tôm mà làm gì? Nó làm tôi rầu thối ruột đây này!

Đi dọc xã Hiệp Thành, chúng tôi bắt gặp nhiều vuông tôm bỏ hoang, khô khốc cùng hàng loạt những căn chòi canh tôm xiêu vẹo mục nát. Thật khác xa với cái thời mà người ta ăn nhắc đến tôm, ngủ nhắc đến tôm, con tôm xuất hiện cả trong những giấc mơ nữa. Một số ít người dân vẫn còn "nặng lòng" với con tôm với một hy vọng mong manh mơ hồ: "nếu còn vay được tiền, tôi sẽ tiếp tục đầu tư nuôi tôm, bởi chỉ có nó mới giúp chúng tôi chóng trả nợ ngân hàng, đồng thời gỡ lại được số tiền thua thiệt".

Vì đâu nên cảnh tiêu điều?

Xung quanh chuyện nuôi tôm thất bại ở Bạc Liêu có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Người thì bảo do thời tiết thất thường, độ mặn trong các vuông tăng cao, con tôm không thể thích nghi được. Người khác lại bảo do chất lượng con giống kém dẫn đến tôm bị chết hoặc nuôi mãi không chịu lớn. Kẻ khác lại đổ cho việc chủ một số vuông tôm bị chết xả nước ra kênh thủy lợi, vô tình các tôm khác "dính đạn” khi lấy nước vào vuông, làm mầm bệnh ở con tôm lây lan nhanh. Nghĩa là cả 1001 lý do được người dân đề cập xuất phát từ phát khách quan. Những lý do đưa ra không sai nhưng chưa đầy đủ, và vì thế chính là một phần nguyên nhân khiến việc đề ra giải pháp khắc phục, hạn chế rủi ro đối với người nuôi tôm vẫn chưa thể đạt hiệu quả như mong muốn.

Thực tế, bởi khoản lợi nhuận lớn ban đầu do con tôm mang lại nên nhiều người dân ở Bạc Liêu đã ồ ạt tăng diện tích nuôi tôm, bất chấp sự khuyến cáo từ phía các cơ quan chức năng và ngành thủy sản. Không chỉ có diện tích tăng, số vụ nuôi tôm cũng tăng lên gấp đôi từ 1 vụ chuyển thành 2 vụ/một năm. Theo các chuyên gia về thủy sản, nuôi tôm chính vụ từ (khoảng từ tháng 2 hằng năm) sẽ gặp ít rủi ro hơn nuôi tôm trái vụ vào cuối năm. Thông thường chỉ nên thả nuôi một vụ chính trong năm, sẽ đảm bảo năng suất, chất lượng tôm. Đồng thời việc xử lý các vuông tôm trước mỗi vụ nuôi phải đảm bảo đúng kỹ thuật, đúng quy trình. Thế nhưng, chả mấy ai ở đây có đủ kiên nhẫn và kiến thức để thực hiện điều đó. Họ vội vàng xử lý vuông tôm rồi tiếp tục thả nuôi, những mong sớm thu hoạch. Nguyên nhân nữa là dù đã được khuyến cáo nhưng người nông dân vẫn thả nuôi ồ ạt với mật độ dày khiến tôm bị chết.

Những thất bại đã được báo trước

Ước tính mỗi năm tỉnh Bạc Liêu cần khoảng 10-11 tỉ tôm giống. Trong khi đó, lượng tôm giống sản xuất ở tỉnh hàng năm chỉ đáp ứng được 20-30% nhu cầu, phần còn lại chủ yếu được nhập từ các tỉnh miền Trung. Chỉ riêng năm 2005, Bạc Liêu nhập gần 823 triệu con tôm giống. Qua kiểm tra của Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản đã phát hiện đã phát hiện 22 trường hợp nhập giống không đảm theo tiêu chuẩn của Bộ Thủy sản. Tôm giống bị mắc bệnh phát sáng, sai kích cỡ… Đây cũng là lý do dẫn đến việc tôm bị chết hàng loạt hoặc chậm phát triển, người nuôi thua lỗ. Anh Đỗ Thanh Nhàn, ở xã Hiệp Thành lo lắng: "Mới vụ vừa tôi bị thất, cũng may chỉ vài chục triệu đồng, chứ nhiều nhà ở đây đã phải bỏ xứ lên thành phố Hồ Chí Minh kiếm việc làm". Anh đã một lần thất bại, vậy sao trước khi quyết định mua không đem giống đi kiểm định? Tôi hỏi. Anh thủng thẳng: "Mình chủ yếu tin các đại lý cung cấp giống. Với lại thú thực với anh, tôi không mấy tin tưởng kết quả kiểm định. Người nhà của tôi đã từng đem đi kiểm định, mỗi nơi “phán" một kiểu, nơi bảo đạt tiêu chuẩn, nơi khác lại không đạt tiêu chuẩn, nông dân như chúng tôi chóng cả mặt chẳng biết tin ai.

Ông Trần Văn Đông, Phó Chánh thanh tra, Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy tỉnh Bạc Liêu cho hay: "Chúng tôi đã cố gắng hết sức trong việc kiểm định, đánh giá chất lượng tôm giống. Tuy nhiên, rất khó kiểm soát chất lượng tôm giống tại một số đại lý. Họ bán "chui" cho nông dân. Người nuôi thì hám giá rẻ. Mua bán kiểu này, tôm giống không đảm bảo cũng là điều dễ hiểu. Hơn nữa, mật độ tôm nuôi không phù hợp, quá dày, dù được khuyến cáo từ các ngành chức năng nhưng người nông dân vẫn cứ phớt lờ. Kết cục, người nuôi tôm thất bại "kêu trời" nhưng nguyên nhân thất bại lại từ chính việc làm bất cẩn và chủ quan của bản thân họ. Một vấn nạn nữa nổi lên tại vùng tôm không chỉ ở Bạc Liêu, đó là việc lạm dụng các loại thuốc: xuất hiện tình trạng một số hộ dân vì hám lợi muốn tăng trọng lượng bằng cách bơm hóa chất vào tôm.

Theo thống kê của Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản, tỉnh Bạc Liêu hiện có 231 cơ sở kinh doanh buôn bán thức ăn, thuốc thú y thủy sản, nhiều chủ cơ sở này không có kiến thức về thủy sản. Hơn nữa vì lợi nhuận nên một số cơ sở kinh doanh các loại thuốc đã quá hạn, hàng giả, hàng kém chất lượng. Qua kiểm tra, Chi cục Bảo vệ Nguồn lợi thủy sản đã phát hiện 5 trường hợp kinh doanh thuốc nằm trong danh mục cấm theo Quyết định số 07/2005/QĐ-BTS ngày 24/2/2005 của Bộ Thủy sản như: Dapsone, Nitronifuran.

Vùng tôm chờ lời giải

Nhiều gia đình đã trắng tay vì con tôm, đang phải đối mặt với nguy cơ đói nghèo tiếp diễn. Trao đổi với một số nhà khoa học về nông nghiệp, chúng tôi được biết diện tích đất nuôi tôm khi sử dụng lại trồng lúa là rất khó khăn, tốn kém. Tình trạng phát triển ồ ạt diện tích nuôi tôm ở các tỉnh ĐBSCL những năm gần đây kéo theo những hệ quả lâu dài về sự cân bằng môi trường tự nhiên, đất đai bị nhiễm mặn mà các phương tiện thông tin đại chúng đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo. Bài toán về quy hoạch vùng nuôi tôm hợp lý tại Bạc Liêu và và vùng ven biển Tây Nam Bộ đang là một vấn đề bức thiết, cần được sự phối hợp giữa chính quyền các tỉnh và Bộ Thủy sản, các nhà khoa học để giải quyết, nhằm xây dựng vùng nuôi tôm bền vững. Cùng với đó là các biện pháp quản lý, kiểm soát chặt chẽ nguồn tôm giống, thức ăn, thuốc, hóa chất sử dụng trong nuôi trồng thủy sản; nhằm khắc phục, hạn chế rủi ro thiệt hại cho người nuôi tôm và giữ gìn hình ảnh con tôm Việt Nam trên thị trường quốc tế./.

Mỹ Hồng

 


Qui định đóng quĩ nhập khẩu tôm là trái luật

Nguồn tin: TT, 20/11/2006
Ngày cập nhật: 20/11/2006


Nuôi tôm trên... Vạn lý trường thành

Nguồn tin: SGGP, 19/11/2006
Ngày cập nhật: 19/11/2006

 


Sóc Trăng: Cá kèo giống 1,8 triệu đồng/kg

Nguồn tin: SGGP, 19/11/2006
Ngày cập nhật: 19/11/2006

Sau khi kết thúc mùa tôm sú chính vụ, nông dân Sóc Trăng đã tiến hành thả nuôi cá kèo ồ ạt đã tạo nên cơn “sốt” giá cá kèo giống. Do mùa cá kèo giống khai thác ngoài tự nhiên (bãi bồi ven biển) sắp hết trong khi con giống nhân tạo chưa sản xuất được nên giá cá kèo giống đã tăng lên 1,8 triệu đồng/kg, cao gấp 3 lần so với tháng trước.

Hiện nay cá kèo thương phẩm trên thị trường loại 40 con/kg có giá dao động từ 50.000 – 55.000đ/kg nên người nuôi cá kèo ở Sóc Trăng đã thu lãi trên 20 triệu đồng/ha từ mô hình lấp vụ cá kèo trên đất nuôi tôm.

H.D.

 


Nhập tôm đẻ chân trắng giống gốc Hawaii

Nguồn tin: SGGP, 18/11/2006
Ngày cập nhật: 19/11/2006

(12g).- 500 cặp tôm giống bố mẹ chân trắng chính gốc Hawaii vừa… đáp máy bay một lèo từ Mỹ đến nước ta rồi nhanh chóng chuyển đến Trại giống Đức Phong (huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi) để chuẩn bị… đẻ.

Giá mua tại gốc 1 cặp tôm giống này lên đến 35 USD nhưng bảo đảm kháng, sạch bệnh. Quảng Ngãi hiện có hàng triệu mét vuông mặt nước nuôi tôm chân trắng, trong đó có hồ nuôi trên cát đạt năng suất 23 tấn tôm/ha.

H.H.


Lập thương hiệu đặc sản nghêu Bến Tre

Nguồn tin: SGGP, 18/11/2006
Ngày cập nhật: 19/11/2006

(12g).- Mấy năm trước, con nghêu là món ăn chơi, giờ thành đặc sản ăn thiệt của cả người nước ngoài nhờ chứa nhiều chất dinh dưỡng. Bởi vậy nên những nhà kinh doanh và bà con nông dân ở …xứ dừa đang xúc tiến lập thương hiệu cho con nghêu Bến Tre, nơi có 15.000 ha nuôi nghêu tập trung ở các huyện Bình Đại, Thạnh Phú, Ba Tri với sản lượng hàng năm 20.000 – 30.000 tấn, lợi nhuận sánh bằng “một vốn bốn lời”, phần lớn xuất khẩu sang châu Âu, châu Á,…

H.H.

 


Tiền Giang : Mô hình nuôi trồng thủy sản nước ngọt tăng mạnh

Nguồn tin: TG, 16/11/2006
Ngày cập nhật: 18/11/2006

Tính đến cuối tháng 10/2006 toàn tỉnh Tiền Giang có diện tích thủy sản nước ngọt là hơn 5800 ha tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó diện tích nuôi cá khoảng 5500 ha, nuôi tôm càng xanh là 215 ha và hơn 10 ha mặt nước nuôi các loại thủy sản khác… Ngoài ra tỉnh Tiền Giang còn có 987 bè cá trên sông Tiền. So với trước đây thì mô hình nuôi thủy sản nước ngọt ở Tiền Giang hiện nay đạt hiệu quả cao. Tổng sản lượng thủy sản trong 10 tháng qua đạt gần 30 ngàn tấn. Theo Sở Thủy sản Tiền Giang thì thời gian gần đây đầu ra của thủy sản thuận lợi, giá cá thịt tăng nhất là cá da trơn người nuôi thủy sản có lợi nhuận khá.

Đài PTTH Tiền Giang

 


An Giang: Giá cá tra nguyên liệu tăng cao mức kỷ lục.

Nguồn tin: AG, 17/11/2006
Ngày cập nhật: 18/11/2006

Hiện nay giá cá tra nguyên liệu loại 1 thịt trắng tại địa bàn tỉnh AnGiang tăng lên 15.300 đồng/kg. Đây là mức tăng cao nhất từ trước đến nay. Cá loại 2 thịt hồng mua tại ao giá 14.000 đồng/kg, cá tra thịt vàng giá 13.200 đồng/kg. Tính chung cá nguyện liệu các loại tăng từ 700 đến 900 đồng/kg so tuần trước.

An Giang có 11 nhà mày chế biến thủy sản họat động tổng công suất 70.000 tấn/năm, hiện nay một số nhà máy ngưng họat động và từ chối nhiều đơn đặt hàng số lượng lớn ở các nước Châu Âu. Một số nhà máy khác phải mua cá tra nguyên liệu bằng mọi giá để chế biến giao theo hợp đồng đã ký và để kịp chuyến tàu cuối sang Châu Âu trước giáng sinh.

Năm nay sản lượng thủy sản nuôi trong tỉnh có tăng, nhưng tăng chủ yếu là tôm càng xanh và các loài cá khác như cá rô phi, cá điêu đồng, cá rô đồng, cá lốc bông, cá lốc môi trề..., còn sản lượng cá tra nuôi chỉ đạt 140.000 tấn, giảm gần 7.000 tấn so năm 2005, do những tháng đầu năm nay giá cá tra nguyên liệu sụt giảm mạnh, nhiều hộ nuôi cá tra thu lỗ nặng ( hộ nuôi toàn tỉnh lỗ trên 180 tỷ đồng) nên ngán ngại đầu tư nuôi cá tra, chuyển sang nuôi các lòai cá khác có thị trường tiêu thụ tốt và hiệu quả kinh tế cao, nhất là xuất sang thị trường Canpuchia. 10 tháng đầu năm 2006 các doanh nghiệp chế biến thủy sản trong tỉnh đã tiêu thụ 135.000 tấn cá tra nguyên liệu, hiện số cá tra trong dân còn rất ít cũng là nguyên nhân đẩy giá cá tra nguyên liệu tăng cao.

Từ sự kiện nầy cho thấy các nhà lãnh đạo cần sớm có giải pháp để gắn kết chặt chẽ giữa người nuôi và doanh nghiệp chế biến để tranh điệp khúc tình trạng thiếu cá nguyên liệu khi có thị trường xuất khẩu và giá xuất khẩu tốt, thừa cá nguyên liệu khi khó khăn về thị trường và giá cá sụt giảm. Thực tế nhưng "đại gia" lớn như Agifish, Nam Việt thành lập Liên hiệp nuôi cá sạch và hội nuôi cá sạch, gắn kết chặt chẽ với hội viên nuôi cá nên có nguồn cá nguyên liệu ổn định về chất lượng và số lượng phục vụ cho nhà máy hoạt đông liên tục.

Tố Quyên


Thanh Hóa: Gần 600 tỷ đồng từ hoạt động sản xuất thuỷ sản

Nguồn tin: Thanh Hoá, 14/11/2006
Ngày cập nhật: 18/11/2006

Trong hơn 10 tháng năm 2006, giá trị sản xuất thuỷ sản ở tỉnh Thanh Hóa ước đạt gần 600 tỷ đồng, tăng gần 7% so với cùng kỳ.

Sản lượng thuỷ sản tính đến thời điểm hiện nay là hơn 60 nghìn tấn, trong đó sản lượng khai thác đạt gần 45 nghìn tấn, sản lượng nuôi trồng đạt hơn 16 nghìn tấn. Giá trị xuất khẩu đạt hơn 80% kế hoạch năm 2006, bằng 150,1% so với cùng kỳ năm 2005. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ như: tôm đông (733 tấn); hải sản đông lạnh (812 tấn). Cùng với kết quả trên, một số dự án nuôi trồng thuỷ sản đã được đưa vào khai thác, bước đầu phát huy hiệu quả.

Ngoài phục vụ thị trường trong tỉnh, trong nước, hàng thủy sản chủ yếu được xuất khẩu sang một số nước thuộc khối EU và Trung Quốc là thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn của Thanh Hoá.

(Theo Báo Thanh Hoá)

 


Người nuôi tôm “bách phát bách trúng”

Nguồn tin: TT, 17/11/2006
Ngày cập nhật: 18/11/2006

TT - Ở thị xã Bạc Liêu có không ít người bỏ hoang đất để trốn nợ vì nuôi tôm thua lỗ, và cũng không ít “đại gia” đã bị “con tôm ôm sổ đỏ”. Nhưng cũng ở vùng đất ven biển này có một người nhiều năm liền nuôi tôm “bách phát bách trúng”. Đó chính là Võ Hồng Ngoãn (Sáu Ngoãn), người lập nghiệp từ hai bàn tay trắng.

Nuôi tôm bằng… “công nghệ OBV”

Mới học đến lớp 6 trường làng, nhà nghèo quá, Võ Hồng Ngoãn phải nghỉ học đi làm lơ xe. Đi lơ xe nhưng Ngoãn cố tích cóp từng đồng. “Sau này, khi lấy vợ, tiền dành dụm cộng với... của hồi môn cha mẹ để lại chúng tôi mua được chiếc xe đò Hải Âu cũ rích để chạy kiếm cơm” - Sáu Ngoãn kể.

Chạy xe ế ẩm, thua lỗ, Sáu Ngoãn quyết định trở lại với nghề truyền thống của cha ông là làm ruộng và nuôi cá. Tuy nhiên, ở vùng đất phèn mặn của xã Vĩnh Trạch Đông bấy giờ không còn ai làm ruộng, đất đai đã bị “tôm hóa” gần hết nên Sáu Ngoãn không cách nào khác là lao vào “vòng xoáy” của phong trào nuôi tôm.

Thấy ông ngày đêm đào ao, nhiều người thân trong gia đình bắt đầu lo lắng vì khi ấy trên đồng tôm ngày một vắng người, dân nuôi tôm ở thị xã Bạc Liêu bắt đầu vỡ nợ vì tôm chết triền miên. Thấy vậy, ông nói với vợ: “Nuôi tôm sú giống như... đánh bài cào với ông trời, nhưng nếu có gan thì sẽ làm giàu”.

Mặc dù nói với vợ như vậy nhưng ngày nào Sáu Ngoãn cũng dành thời gian la cà sang các vuông tôm trong vùng để tìm hiểu nguyên nhân tại sao tôm chết. Cuối cùng, ông “kỹ sư chân đất” này đã nghiệm ra một điều là đa số các vuông có tôm chết do nguồn nước quá ô nhiễm vì xử lý nước không đúng qui trình. Một điều quan trọng khác mà Sáu Ngoãn thấy được là vì quá chạy theo lợi nhuận nên nông dân trong vùng đã nuôi tôm với mật độ dày đặc, mua con giống trôi nổi, kém chất lượng không qua xét nghiệm...

Với khoảng 2ha, vụ nuôi tôm đầu tiên (năm 2001) Sáu Ngoãn dành một ao khoảng 0,5ha mặt nước làm thí điểm, thả nuôi với mật độ 11 con/m2. Qua gần năm tháng, kích cỡ tôm của ao thí điểm này đạt trọng lượng 25 con/kg và ông thu hoạch được 1,2 tấn. Sau khi trừ chi phí Sáu Ngoãn thu lợi nhuận từ ao thí điểm được gần 90 triệu đồng, cao hơn các ao nuôi 40 con/m2 đến 20 triệu đồng.

Sau hai vụ “ăn chắc” từ mô hình nuôi tôm mật độ thưa và giảm dần từ 11 con/m2 xuống 7-9 con/m2, năm 2003 Sáu Ngoãn đã có vốn tậu thêm 20ha đất ở khu vực lân cận. Sáu Ngoãn nhớ lại: “Cùng là những người nuôi tôm, thấy họ thất mùa nên tôi muốn san sẻ kinh nghiệm nhưng không ai chịu nghe. Vậy là năm nào họ cũng kêu bán đất cho tôi, đến nay tôi đã có trong tay trên 40ha đất nuôi tôm công nghiệp”.

Sau vài ngày cùng ăn, cùng ở với Sáu Ngoãn, tôi đã nắm hết “bí kíp” của ông là nuôi tôm không chỉ thả với mật độ thưa, xử lý nước đúng theo qui trình, có nhiều ao lắng, lọc nước trước khi bơm vào ao chính mà còn thuê cả kỹ sư thủy sản ở hẳn trong chòi canh để xét nghiệm từng mẫu nước và đặc biệt là áp dụng...

Ông giải thích: “Vụ tôm vừa rồi tôi trúng đậm là nhờ... “công nghệ OBV”, nghĩa là cho tôm ăn ốc bươu vàng xen kẽ với thức ăn công nghiệp ở hai tháng cuối vụ”. Theo ông, tôm ăn ốc bươu vàng không chỉ lớn nhanh như thổi mà còn cứng vỏ, thịt săn chắc và “nặng như chì”. Vụ rồi ông tiêu thụ gần 100 tấn ốc bươu vàng, không chỉ giảm được chi phí mà còn giúp nông dân tỉnh nhà diệt được ốc bươu vàng phá hại lúa. Có lẽ chính vì thả thưa và áp dụng thành công “công nghệ OBV” mà vụ tôm vừa qua Sáu Ngoãn đã thu lãi ròng trên 2,4 tỉ đồng.

“Ông nội”

Điều bất ngờ nhất trong những ngày sống cùng với “vua tôm” Sáu Ngoãn là đi đến đâu tôi cũng nghe trẻ con ở xã Vĩnh Trạch Đông gọi ông bằng hai tiếng thân quen: “ông nội”. Sáu Ngoãn giải thích: “Có gì đâu, cha của tụi nó đều là nhân công của tôi hết đấy mà”.

Thì ra những ngày mới về đây lập nghiệp, Sáu Ngoãn đã thấy hết những cơ cực của những gia đình người dân tộc Khơme. Suốt ngày họ lặn lội mò cua, bắt ốc ven biển nhưng vẫn không đủ cái ăn, cái mặc, trẻ em chẳng được học hành. Sáu Ngoãn xác định: “Cơ nghiệp của tôi phải gắn liền với bà con nghèo nơi đây vì chỉ có tạo công ăn việc làm ổn định cho họ thì họ mới toàn tâm, toàn ý giúp mình”.

Vậy là cả trăm thanh niên ngày nào phải đi mò cua, bắt ốc nay đã được Sáu Ngoãn thu nhận. Công việc của họ nhẹ nhàng hơn trước như: canh trộm, huấn luyện chó, trực máy quạt nước, cho tôm ăn... với mức lương ổn định từ 1-1,2 triệu đồng/tháng.

Rất nhiều gia đình ở Vĩnh Trạch Đông đã được Sáu Ngoãn giúp đỡ, cưu mang trong những lúc khó khăn nên vài năm gần đây khu vực này có thêm hàng chục hộ thoát nghèo. Vụ tôm sú vừa qua, để thưởng xứng đáng công sức của những người gắn bó với mình, Sáu Ngoãn đã trích tiền lãi trên 300 triệu đồng thưởng công nhân, người thấp nhất được 3 triệu đồng, cao nhất là 15 triệu đồng/người.

Chưa dừng lại ở đó, để trẻ em trong vùng được đến trường, ngay từ đầu năm học “vua tôm” đã đến tận nhà tặng quần áo, tập viết và mua bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn cho các em... Ông nói: “Mỗi lần nghe tụi nhỏ gọi bằng hai tiếng “ông nội” tôi thấy vui lắm”.

Sáu Ngoãn đã không giấu niềm vui khi cho biết ước mơ của ông sắp trở thành hiện thực: “Chuyện xây một ngôi trường tiểu học cho các em nhỏ ngay tại đồng tôm này đã được chính quyền địa phương chấp thuận. Ngành giáo dục cũng đã ủng hộ và hứa sẽ hỗ trợ giáo viên sau này...”. Ở vùng nuôi tôm này, học trò nào học xong lớp 12 nếu muốn học ngành thủy sản thì được ông tài trợ kinh phí. “Đó cũng là cách thu hút nhân tài cho địa phương và cũng là thu hút nhân lực cho tôi trong tương lai” - ông nói.

NGỌC DIỆN

 


Ông Bửu Huy quyết tâm đòi công bằng

Nguồn tin: VietNamNet, 17/11/2006
Ngày cập nhật: 18/11/2006

 


Phối hợp quản lý vùng nuôi thủy sản Phước Thuận, Láng Dài, Lộc An

Nguồn tin: BRVT, 16/11/2006
Ngày cập nhật: 17/11/2006

Những năm gần đây, hoạt động nuôi trồng thủy sản trên vùng nuôi Phước Thuận, Láng Dài, Lộc An phát triển tự phát, ồ ạt, làm cho môi trường vùng nuôi bị suy thoái, dịch bệnh xảy ra, hiệu quả sản xuất thấp. Nhằm khôi phục và duy trì hoạt động sản xuất trên vùng nuôi, ngành thủy sản đã xây dựng Kế hoạch phối hợp quản lý vùng nuôi thủy sản Phước Thuận, Láng Dài, Lộc An giữa Sở Thủy sản với UBND các huyện Đất Đỏ, Xuyên Mộc. Xung quanh vấn đề này, phóng viên báo Bà Rịa-Vũng Tàu có cuộc trao đổi với ông Thân Văn Minh, Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư tỉnh.

* Đề nghị ông cho biết mục tiêu của việc xây dựng kế hoạch phối hợp quản lý vùng nuôi thủy sản Phước Thuận, Láng Dài, Lộc An giữa Sở Thủy sản với UBND các huyện Đất Đỏ, Xuyên Mộc?

- Nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm, xây dựng vùng nuôi thủy sản theo hướng bền vững, thời gian qua, Trung tâm Khuyến ngư đã tham mưu cho Sở Thủy sản xây dựng kế hoạch phối hợp quản lý vùng nuôi thủy sản Phước Thuận, Láng Dài, Lộc An giữa Sở Thủy sản và UBND các huyện Đất Đỏ, Xuyên Mộc. Việc làm này nhằm mục đích xác định trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp quản lý giữa Sở Thủy sản và UBND các huyện Đất Đỏ, Xuyên Mộc. Trong đó, những mục tiêu cụ thể trước mắt cần phải đạt được là bảo đảm cho hoạt động sản xuất trên vùng nuôi theo kế hoạch cụ thể; phát triển, nâng cao vai trò quản lý cộng đồng và khả năng kiểm soát các hoạt động nuôi trồng thủy sản trên vùng nuôi; tăng cường khả năng thông tin phục vụ cho hoạt động sản xuất và hoạt động quản lý; khắc phục được hiện trạng bồi lắng trên hệ thống cấp thoát nước cho vùng nuôi.

* Những hoạt động quản lý chủ yếu nào để đạt được các mục tiêu trên?

- Nhằm hạn chế các hoạt động sản xuất mang tính tự phát, chúng tôi đã xây dựng kế hoạch sản xuất cụ thể về đối tượng nuôi, mùa vụ, thời điểm xuống giống, hình thức nuôi, quy trình kỹ thuật nuôi… Thành lập các chi hội nuôi trồng thủy sản trên vùng nuôi và định hướng cho họ hoạt động theo quy chế cụ thể, phù hợp với các văn bản pháp quy về quản lý ngành, phù hợp với kế hoạch sản xuất của vùng nuôi và đáp ứng cơ bản những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng chung của người nuôi. Ngoài ra, ngành thủy sản còn xây dựng mạng lưới và kế hoạch quan trắc, cảnh báo môi trường, phòng ngừa dịch bệnh cho vùng nuôi; Tăng cường chuyển giao khoa học công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường. Cung cấp các thông tin thị trường (thị trường tiêu thụ, thị trường vốn, thông tin kinh tế tập thể). Đặc biệt, chú trọng đến tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp quy có liên quan đến hoạt động sản xuất của vùng nuôi như, tiến hành khảo sát, đánh giá nguyên nhân và mức độ của sự bồi lắng trên các kênh cấp thoát nước chính để có kế hoạch nạo vét hoặc chuyển giao và bắt buộc thực hiện quy trình xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường nhằm giảm thiểu sự bồi lắng và ô nhiễm môi trường ở vùng nuôi.

* Để thực hiện mục tiêu trên, kế hoạch tổ chức, triển khai cụ thể như thế nào?

- UBND các huyện là đơn vị trực tiếp xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch trên theo mục tiêu kinh tế-xã hội của địa phương. Sở Thủy sản giữ vai trò quản lý ngành sẽ hỗ trợ về chuyên môn cho các huyện theo quy hoạch, định hướng phát triển ngành, và dựa trên cơ sở các văn bản pháp luật.

Trên cơ sở công tác trọng tâm của vùng nuôi, Sở Thủy sản và UBND các huyện Đất Đỏ, Xuyên Mộc sẽ chỉ đạo các đơn vị trực thuộc theo nhiệm vụ và chức năng của mình xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể triển khai các hoạt động chuyên môn, hoạt động quản lý theo kế hoạch quản lý chung của vùng nuôi; Phê duyệt, kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch của các đơn vị trực thuộc.

* Xin cảm ơn ông!

Thu Phong (Thực hiện)

 


Nghịch lý dưới tán rừng đước

Nguồn tin: KTSG, 16/11/2006
Ngày cập nhật: 17/11/2006

Huyện Ngọc Hiển là địa phương ở Cà Mau đi đầu trong việc giao khoán đất rừng cho dân. Qua hơn mười năm, màu xanh đã phủ dần, nhưng những người nhận khoán đất trồng rừng vẫn đang “héo” vì mỏi mòn chờ những mùa tôm bội thu.

Rừng hại tôm?

Nhiều người dân ở Ngọc Hiển bây giờ tin như vậy, dù chưa có kết luận khoa học nào về chuyện rừng hại... tôm. Họ cho rằng, khi những tán đước ngày một xum xuê, cũng là lúc lá đước rơi xuống vuông tôm ngày càng nhiều. Rồi đến cuối mùa đước cho trái, những trái đước dài ngoẵng lại rơi rụng đầy. Lá và trái đước bị người dân “quy kết” là nguyên nhân khiến môi trường trong vuông tôm bị suy thoái, ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Rồi chính tàn lá cây đước phát triển cũng lấn mất môi trường sống lý tưởng của tôm!

Đi dọc theo tuyến đường nối liền hai xã Tân Ân và Tân An Tây, dễ dàng nhận ra những dãy đước xanh ngắt nhưng xen lẫn những “xác” đước bị người dân đốn hạ, khô héo, nhiều chỗ chỉ còn chơ vơ những chùm rễ khô quắt giữa nắng chói chang...

Ngồi trộn đám khô tép ít ỏi phơi trước nhà, bà Lê Thị Lứt, ấp Rạch Gốc B, xã Tân Ân, than rằng bây giờ xổ tôm nhưng chỉ bắt được... tép. “Mới con nước này, xổ vuông mới bán được đúng 60.000 đồng tiền tôm. Còn gần sáu tháng nay, chỉ xổ cho có chứ không có tôm bắt, trong khi tiền mua giống, cải tạo vuông mất gần mười triệu đồng”, bà kể.

Trước năm 1975, hai vợ chồng bà từ Rạch Gốc về đây tự khai hoang rừng, lập đất. Gọi là rừng, chứ thời chiến tranh, chất độc hóa học đã khiến cây rừng chết trụi. Ngoài cỏ, đước... thì chỉ còn những cây cốc rừng già cỗi. Vậy mà làm rẫy rất trúng. Trồng khoai lang, bình quân một vụ hai vợ chồng bà thu hoạch từ 2-3 tấn/công...

Nhưng khoảng mười năm trước, chính quyền thực hiện chủ trương khoán đất rừng, tạm “hợp thức hóa” 3,5 héc ta đất của bà bằng hợp đồng giao đất. Theo đó, gia đình bà phải cam kết thực hiện đúng việc trồng lại cây đước trên 70% diện tích đất, phần còn lại thoải mái nuôi tôm.

Ông Lê Văn Kháng, Phó chủ tịch UBND huyện Ngọc Hiển, cho biết đã có đến 9.350 hộ dân được giao khoán đất rừng như bà Lứt, với tổng diện tích trên 22.000 héc ta. Nếu diện tích được giao hơn 5 héc ta, dân phải trồng rừng - phần lớn là cây đước, theo tỷ lệ 7/3 (7 phần rừng, 3 phần tôm); nếu từ 3-5 héc ta thì tỷ lệ là 6/4 và nếu diện tích nhỏ hơn 3 héc ta phải thực hiện theo tỷ lệ 5/5. Cây giống được chính quyền bao cấp, dân chỉ việc chăm sóc và thoải mái nuôi tôm, thu lợi trên phần đất còn lại mà không phải đóng thêm khoản phí nào. Chủ trương này lúc đó được đánh giá là vẹn cả đôi đường, bởi thay vì phải cưỡng chế, buộc di dời những người dân đã bao chiếm đất rừng phải đi nơi khác thì với cách này, họ vẫn được ở lại sinh sống, nuôi tôm. Còn phía chính quyền, không phải tốn chi phí di dời, tái định cư và lại được người dân hỗ trợ việc khôi phục màu xanh của rừng.

Trở lại chuyện của bà Lứt khi nhận giao khoán đất rừng, hai năm đầu chuyển sang nuôi tôm, bà trúng lớn, thu nhập mỗi năm 30-40 triệu đồng. Nhưng niềm vui chưa được bao nhiêu thì cái nghèo, cái khó lại đến. Tôm nuôi ngày một thất, chết trắng. Món nợ ngân hàng 20 triệu đồng đến nay chưa trả dứt.

Ông Lê Ngọc Tiểu ở cùng xã với bà Lứt cũng cho rằng, cây đước “bành trướng” khiến thu nhập từ vuông tôm của ông ngày càng teo tóp. Ông nói: “Mấy đứa con tôi cứ trách, phải chi tôi đừng trồng rừng với diện tích quá lớn như cam kết thì nuôi tôm đâu thất bát”. Ông “chứng minh” ngay bằng cách kéo mớ lưới xổ tôm lên. Xổ nước từ sáng tới trưa mà chỉ có ít con tép nhỏ nhảy loi choi. “Chúng tôi rất mong được mở rộng diện tích nuôi tôm để bù lại những mùa vụ thất bát”, ông Tiểu nói.

Cả vùng này mấy năm nay nuôi tôm thất bại, hàng ngàn hộ thiếu nợ vay ngân hàng. Trong số các hộ dân được nhận khoán đất, theo UBND huyện, hiện có khoảng 20% hộ nghèo. Đất rừng được giao họ vẫn giữ, nhưng bỏ đi làm thuê làm mướn ở Rạch Gốc hoặc lên TPHCM. Một số người lén lút lấn lại diện tích rừng đước. Ông Kháng cho biết có người lại “né” việc trồng rừng theo tỷ lệ bằng cách: “Trái giống đước giao để trồng, họ lén ngâm nước sôi, phơi nắng để cây không nảy mầm. Nếu cây nảy mầm, họ lén nhổ lên vài tấc cho đứt rễ, hoặc cho nước vào ngập lút để cây... chết”. Hàng tỉ đồng mỗi năm “bao cấp” cho cây đước giống phải bỏ sông, bỏ biển.

Theo ông Kháng, sau hơn mười năm thực hiện chủ trương giao khoán đất rừng, các hộ trồng rừng đúng tỷ lệ cam kết chỉ đạt từ 20-30%. Còn ông Sáu Tuôi, cán bộ hưu trí của huyện, thì thừa nhận: “Không ai muốn cây đước phát triển dày đặc đến lấn cả vuông tôm. Bởi vậy, rừng có xanh nhưng vẫn xơ xác”.

Bài toán khó giải

Kỹ sư Hồ Mỹ Hạnh, cán bộ Trung tâm Dạy nghề và Chuyển giao công nghệ nuôi thủy sản ĐBSCL, cho rằng tỷ lệ 6/4 (6 phần rừng, 4 phần tôm) đối với mô hình rừng- tôm là tương đối thích hợp, còn tỷ lệ là 7/3, 5/5... có ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm hay không thì cần phải khảo sát, kết luận một cách khoa học.

Trước mắt, UBND huyện Ngọc Hiển đã đề xuất phương án tách hẳn rừng và tôm, thay vì trồng xen đại trà. Theo ông Kháng, trong năm nay sẽ có khoảng 134 hộ được tách theo đúng tỷ lệ và ông tin rằng, đây là cách dễ quản lý, đảm bảo thực hiện đúng tiến độ trồng rừng. Tuy nhiên, trước thông tin này, những hộ nhận khoán đất như bà Lứt, ông Tiểu... càng lo lắng. “Trước giờ đất được xẻ ngang dọc, trên trồng rừng, dưới nuôi tôm. Muốn tách hẳn tôm và rừng (tức đất phải chia lại thành hai phần tách biệt, một phần bằng phẳng để trồng rừng, phần đào xuống để nuôi tôm), phải san đất chỗ này, lấp lại chỗ kia thì chi phí hàng chục triệu đồng lấy đâu ra?”, ông Tiểu phân bua.

Như vậy, đó không chừng chỉ là giải pháp cứu rừng mà quên mất cuộc sống của hàng ngàn người dân. Bà Lứt kể rằng, gia đình bà dày công chăm sóc rừng, nhưng năm năm trước, khi cán bộ lâm trường đến tỉa thưa bán thì bà chỉ được nhận 600.000 đồng theo tỷ lệ 7/3 (hộ dân được 3). Nhiều hộ dân khác bỏ công chăm sóc rừng đước trên mười năm nhưng vẫn chưa được phép khai thác. Thu nhập như vậy, càng khiến người dân có “ác cảm” với những tán đước, nhất là trong khi con tôm nuôi xen lẫn ngày một còi cọc nay lại buộc họ tốn thêm tiền cho rừng!

Theo ông Tuôi, chủ trương dù đúng nhưng cách giao khoán rừng đại trà như vừa qua xem chừng không phù hợp. Người nghèo thì làm sao bắt họ cứ bỏ công chăm sóc cây rừng, dù biết nó đem lại cái lợi chung, trong khi trước mắt cái nghèo riêng của họ đang canh cánh. Không chừng, họ lại xem rừng là vật cản thoát nghèo của họ khi vô tình “bao chiếm” đất. Tôm thất, nhưng trong suy nghĩ tức thời của họ, nếu cho mở rộng thêm diện tích nuôi tôm biết đâu chỉ cần một vụ trúng là lấy lại tất cả.

Một số người dân cho biết, thay vì cứ chăm chăm trồng đước, nên cho họ khai thác một phần đất để trồng cây khác như khoai lang... Không biết cây nào sẽ thích hợp trên đất mặn nuôi tôm này, nhưng dù sao cũng mở ra những tia hy vọng mới! Ông Kháng cũng thừa nhận: “Cần phải xem xét lại tỷ lệ như vậy với vùng này có thích hợp không. Và nên xem xét lại để cho dân trồng những loại cây có hiệu quả cao hơn. Sao cứ khăng khăng hễ trồng rừng thì phải là cây đước?”.

Hồ Hùng

 


Phú Yên: TSTrần Thị Việt Ngân: “Cần nhanh chóng thành lập các hiệp hội giống thủy sản”

Nguồn tin: PY, 16/11/2006
Ngày cập nhật: 17/11/2006

Trong đầu tư nuôi trồng thủy sản (NTTS), giống là khâu quyết định hàng đầu. Vậy cần làm gì để phát triển nguồn giống tự nhiên, song song với việc tập trung sản xuất giống nhân tạo nhằm chủ động giải quyết giống cho nuôi trồng, phát huy tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương ven biển? Tiến sĩ Trần Thị Việt Ngân, Giám đốc Trung tâm Giống và Kỹ thuật thủy sản (TTG & KTTS) tỉnh Phú Yên cho biết:

- Trong nhiều năm gần đây, ngành thủy sản Phú Yên phối hợp với Viện Nghiên cứu Thủy sản III Nha Trang đã điều tra hiện trạng môi trường các vùng nước trong tỉnh, khuyến khích người dân đầu tư phát triển các giống thủy sản tự nhiên có chất lượng và thị trường tiêu thụ; đồng thời cũng đã thực hiện thành công nhiều mô hình nuôi thủy sản ở cả 3 vùng nước: mặn, lợ, ngọt.

Đối với vùng nước mặn ven biển, có thể nhân rộng nghề nuôi cá mú, cá giò, cá hồng Mỹ, ốc hương, bào ngư... Đặc biệt, ngư dân đầu tư phát triển mạnh nghề nuôi các loài giáp xác như tôm hùm. Đối với vùng nước lợ, ngoài việc duy trì đối tượng nuôi chính là tôm sú, ngành khuyến khích bà con đầu tư nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi tôm càng xanh toàn đực, nuôi cua vùng sát biển, nuôi ghẹ, vẹm xanh, sò huyết... Đối với vùng nước ngọt, bên cạnh nuôi các đối tượng truyền thống như cá chép, trắm, trôi, mè, cá lóc, có thể phát triển nuôi cá rô phi đơn tính, cá lăng, lươn, ếch...

Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn thiếu nguồn giống cho NTTS, do giống ngoài tự nhiên ngày càng bị khai thác quá mức dẫn đến cạn kiệt và khan hiếm.

* Vậy để NTTS đạt hiệu quả và bền vững lâu dài, TTG & KTTS tỉnh Phú Yên đã đầu tư sản xuất các loại giống nhân tạo và chuyển giao cho bà con phát triển nuôi trồng như thế nào, thưa tiến sĩ ?

- Sản xuất được giống tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng giống, tiết kiệm số lượng đàn bố mẹ cần thiết, giảm dịch bệnh và chi phí trong nuôi trồng, đảm bảo chủ động cung cấp nhiều loại giống với số lượng lớn, phù hợp nhu cầu phát triển nuôi trồng là mục tiêu hàng đầu của TTG & KTTS. Do vậy, từ khi thành lập đến nay, TTG & KTTS đã sản xuất một số loại giống cung ứng cho dân và thả ra vùng nước tự nhiên để phục hồi những giống đã bị cạn kiệt, tái tạo bổ sung đàn bố mẹ cho sản xuất giống và tăng sản lượng nghề khai thác ở các vùng nước mặn, lợ, ngọt.

Cụ thể, TTG & KTTS đã sản xuất thành công giống ghẹ thả tái tạo trong đầm Ô Loan và cung cấp cho hàng chục hộ dân nuôi ở đầm Ô Loan; sản xuất giống cua thả nuôi ở cửa sông Đà Nông. Trung tâm cũng đã tiếp nhận các công nghệ sản xuất giống mới như công nghệ sản xuất giống tôm thẻ chân trắng; ương giống bào ngư của Viện Nghiên cứu Thủy sản III Nha Trang, ương giống cá hồng Mỹ của Viện Nghiên cứu hải sản Hải Phòng; Đồng thời, trung tâm đã sản xuất và chuyển giao cho dân công nghệ sản xuất giống ốc hương, cá rô phi đơn tính dòng gift… Đặc biệt, trung tâm sản xuất con tôm chân trắng nuôi được ở cả 2 vùng nước lợ, ngọt... Về lâu dài, Trung tâm sẽ sản xuất hàng loạt đối tượng giống thủy sản có giá trị xuất khẩu. Song, khó khăn lớn là Trung tâm không có chức năng nhập giống thủy sản có chất lượng ở nước ngoài và chưa có trại giống để sản xuất số lượng lớn đủ cung ứng cho bà con thả nuôi.

* Theo tiến sĩ, Phú Yên cần làm gì để sản xuất giống thủy sản đạt trình độ tiên tiến bảo đảm tạo được cơ cấu giống đa dạng, phù hợp với điều kiện sinh thái ở các vùng trên địa bàn tỉnh?

- Phát triển giống NTTS phải dựa trên nhu cầu của thị trường, đặc điểm điều kiện tự nhiên, sinh thái từng vùng và hiệu quả kinh tế – xã hội nhằm tạo ra cơ cấu giống NTTS hợp lý, đảm bảo tính đa dạng sinh học và bền vững về môi trường sinh thái. Muốn vậy, nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong việc lưu giữ nguồn gien, sử dụng nguồn gien lai tạo nguồn giống, có các chính sách ưu đãi để khuyến khích các nhà khoa học, các tổ chức, các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu phát triển giống thủy sản, gắn nghiên cứu với các thực tiễn để chuyển giao nhanh tiến bộ kỹ thuật cho sản xuất. Tỉnh quy hoạch hệ thống giống thủy sản từ nghiên cứu, thử nghiệm đến sản xuất thương mại phù hợp thị trường; kiện toàn công tác quản lý giống thủy sản bao gồm việc hỗ trợ, tái tạo phát triển tài nguyên giống, quản lý, kiểm soát chất lượng sản xuất và kinh doanh giống, tạo thị trường lành mạnh, trao đổi và nhập khẩu giống nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giống thủy sản. Trước mắt hỗ trợ các doanh nghiệp nhập đàn bố mẹ để đảm bảo cung cấp đủ giống cho nhu cầu nuôi trồng.

Tôi cho rằng, Phú Yên cần phải nhanh chóng thành lập các hiệp hội giống thủy sản trong tỉnh, ví dụ như Hiệp hội giống tôm hùm, Hiệp hội giống tôm sú, Hiệp hội giống cua... Dựa trên các quy chế hoạt động và tuân thủ những quy định của ngành, từng thành viên trong các hiệp hội sẽ tự kiểm tra lẫn nhau về chất lượng giống, cùng xác định giá giống theo mùa vụ một cách hợp lý, chống phá giá trong nội bộ. Trên cơ sở đó tạo lập cơ cấu giống thuỷ sản phong phú để có nhiều loài thủy sản đáp ứng cho nhu cầu nuôi trồng, tạo thực phẩm tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đồng thời giảm rủi ro trong nuôi trồng. Mục tiêu lớn của hiệp hội là xây dựng một tập thể sản xuất giống hùng mạnh để khẳng định thương hiệu giống chất lượng, nhằm ký kết các hợp đồng tiêu thụ giống với số lượng lớn, ổn định lâu dài.

NGUYÊN LƯU (thực hiện)

 


Đại hội thành lập Hội nuôi tôm xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn (An Giang)

Nguồn tin: AG, 16/11/2006
Ngày cập nhật: 17/11/2006

 


ĐBSCL: Nuôi tôm sạch để phát triển bền vững

Nguồn tin: BCT, 15/11/2006
Ngày cập nhật: 17/11/2006

Vụ tôm năm nay, năng suất tôm sú nuôi ở ĐBSCL có giảm, nhưng bù lại, giá tôm nguyên liệu luôn ở mức cao. Ước tính mỗi ha tôm nuôi công nghiệp có thể thu lãi trên dưới 100 triệu đồng. Đó cũng là lý do vì sao sau một đôi lần “trắng tay”, nhiều người nuôi tôm vẫn không thể rời bỏ con tôm sú.

Thế nhưng, nghề nuôi tôm không thể cứ trông nhờ may rủi trên thị trường. Vấn đề hàng đầu đặt ra hiện nay là cần có sự liên kết bền chặt giữa người nuôi với các nhà máy chế biến để cho ra thị trường những sản phẩm tôm sạch, chất lượng cao đồng thời bảo đảm yêu cầu giữ bền vững môi trường, sinh thái.

* MAY NHỜ GIÁ CAO...

Theo Sở Thủy sản Cà Mau, trong tháng 10-2006, do ảnh hưởng của bão số 6, lượng mưa khá cao, môi trường biến động, đã gây sốc cho tôm nuôi nhiều nơi trên địa bàn tỉnh, sản lượng tôm thu hoạch không cao. Nông dân tỉnh này đang vào vụ thả tôm nuôi đông ken. Chỉ tính trong tháng, nông dân đã thả nuôi gần một tỉ con giống trên diện tích khoảng 200.000 ha. Gần đây, giá tôm nguyên liệu tăng cao, nhiều nông dân càng phấn khởi cải tạo ao đầm, mua con giống thả nuôi.

Dù là đất ven biển rất thích hợp nuôi tôm công nghiệp, nhưng phải mất thời gian khá dài Kiên Giang mới “bắt nhịp” được với việc nuôi tôm sú. Thực tế 2 năm nay cho thấy, mô hình tôm - lúa ở bán đảo Cà Mau đã đem lại hiệu quả. Diện tích tôm-lúa khoảng 54.000 ha đã góp phần phá vỡ tập quán độc canh cây lúa trên vùng đất vốn ít phù sa này. Một vụ lúa ăn chắc, vụ lúa còn lại được thay bằng một vụ tôm với sản lượng 300-500 kg/ha đã tăng lợi nhuận khoảng 50 triệu đồng/ha/năm cho nông dân. Ông Huỳnh Văn Phé, ở ấp Mương Đào A (xã Vân Khánh A, An Minh, Kiên Giang), cho biết: “Sau lần thất bại muốn trắng tay, từ năm 2004, chỉ 2,5ha tôm - lúa tôi đã có lời trên 130 triệu đồng. Năm nay, kinh nghiệm nhiều rồi. Nết đất, nết trời khi nào thích hợp cho con tôm thì cũng nắm được nên cũng an tâm. Lời 200 triệu là ăn chắc”. Cũng như ông Phé, nhiều nông dân ở đây cắt lúa xong, cải tạo lại đất thì chủ động tháo mặn cho nước biển vào, bắt đầu một vụ tôm mới. Nhờ vậy, vụ tôm ở bán đảo Cà Mau có thể thu hoạch sớm hơn các vùng khác. Khi đó, tôm nguyên liệu ít nên bán được với giá cao, ít nhất cũng cao hơn tôm chính vụ 20 triệu đồng/tấn.

Cũng như các tỉnh khác trong vùng ĐBSCL, tình hình nuôi tôm sú công nghiệp ở Bến Tre năm nay gặp một số trở ngại. Nhiều người nuôi gặp khó khăn về vốn đầu tư, do nhiều ngân hàng đang hạn chế cho vay nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh. Môi trường nuôi ngày một xấu, con giống kém chất lượng... nên năng suất nuôi tôm năm nay giảm, chỉ đạt bình quân 4 - 5 tấn/ha (các năm trước 6 - 7 tấn/ha). Tuy vậy, do giá tôm sú luôn ở mức cao nên người nuôi vẫn đạt lợi nhuận khá. Anh Đặng Thanh Tùng, một hộ nuôi tôm sú công nghiệp ở xã Định Trung, huyện Bình Đại, cho biết, sau 4 tháng thả nuôi tôm sú công nghiệp, ao nuôi trên diện tích 5 công đất của anh thu hoạch được 1,3 tấn. Năng suất thấp nhưng được giá bán cao nên lợi nhuận đạt gần 50 triệu đồng.

Nói về chuyện nuôi tôm sú công nghiệp, bà Huỳnh Thị Tỏ, Phó Chủ tịch UBND huyện Gò Công Đông (Tiền Giang), nhận định: “Nếu nhìn ở một khía cạnh nào đó, năm nay người nuôi tôm có lãi và lãi rất cao do giá thu mua cao hơn các năm trước. Nhưng vì đa số hộ nuôi tôm bị thất bại ở những mùa vụ trước (ngay cả đầu vụ năm nay huyện có đến 50% diện tích thả nuôi tôm bị chết) nên số hộ này chẳng còn lãi bao nhiêu. Thực tế, chỉ có khoảng 40% hộ dân có lãi khá”.

* HƯỚNG ĐẾN NHỮNG MÔ HÌNH BỀN VỮNG

Một trong những yếu tố đảm bảo tính bền vững cho ngành công nghiệp chế biến thủy sản là nguồn nguyên liệu đầu vào, trong đó có con tôm, phải là tôm sạch, chất lượng cao.

Để chủ động đối phó với dịch bệnh trên tôm, ngay khi thu hoạch vụ tôm năm nay, UBND tỉnh Tiền Giang đã ra chỉ thị yêu cầu các hộ nuôi tôm phải ngừng ngay việc thả tôm, cải tạo ao, đầm để chuẩn bị cho vụ thả nuôi năm 2007, không được vội vàng thả nuôi để tiêu diệt mầm bệnh.

Tỉnh Cà Mau cũng tập trung hỗ trợ nông dân về kỹ thuật và nguồn con giống tôm sú chất lượng cao. Trung tâm khuyến ngư tỉnh đang tăng cường đưa kỹ thuật nuôi tôm đến với nông dân thông qua các lớp tập huấn khuyến ngư cho nông dân. Đề tài nuôi vỗ tôm sú bố mẹ theo hướng sạch bệnh, an toàn, chất lượng cao vừa kết thúc giai đoạn 1, đang bước vào triển khai thực hiện giai đoạn 2. Nhiều khả năng sau năm 2007, nông dân Cà Mau sẽ có nguồn giống tôm sú chất lượng cao để canh tác hiệu quả hơn. Ngoài ra, tỉnh cũng đang thực hiện 2 dự án đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi tôm ở Cà Mau; gồm vùng ven TP Cà Mau và một số xã ở huyện Cái Nước, với tổng mức vốn được duyệt lên đến 19,3 tỉ đồng. Hai dự án này đang trên đường về “đích”, sẽ giúp người dân chủ động về môi trường nuôi tôm tốt hơn.

Trước tình hình môi trường nuôi tôm ngày càng có diễn biến xấu, tỉnh Bến Tre vừa áp dụng mô hình liên kết nuôi tôm bền vững Faquimex, nhằm tạo sự gắn kết giữa nhà máy chế biến thủy sản trong tỉnh, đại lý cung ứng dịch vụ thủy sản, đại lý thu mua và người nuôi tôm. Tham gia mô hình này, người nuôi tôm được hỗ trợ vốn, bao tiêu sản phẩm, được thu mua nguyên liệu đúng giá thị trường... nhưng phải tuân thủ qui trình nuôi do ngành thủy sản đưa ra. Công ty Xuất nhập khẩu lâm thủy sản tỉnh Bến Tre làm khởi điểm mô hình này để sau đó nhân rộng ra trong tỉnh. Bước đầu, Công ty đã ký hợp đồng hỗ trợ vốn, bao tiêu sản phẩm với nhiều cơ sở nuôi tôm công nghiệp và các tổ hợp tác ở các huyện Bình Đại, Thạnh Phú và Ba Tri. Bà Trần Thị Thu Nga, Phó Giám đốc Sở Thủy sản tỉnh Bến Tre cho biết: “Môi trường nuôi tôm sú công nghiệp, bán công nghiệp ở Bến Tre ngày một diễn biến phức tạp. Không chỉ người dân nuôi tôm sú không hiểu biết nhiều về kỹ thuật bị thiệt hại, mà kể cả các tổ hợp tác lớn của công ty, ngành thủy sản cũng bị thiệt hại. Việc buông lỏng quản lý nuôi tôm sú công nghiệp, bán công nghiệp của các tỉnh lân cận đã làm cho môi trường chung bị ảnh hưởng. Trong thời gian tới, ngành thủy sản yêu cầu bà con nuôi tôm sú công nghiệp, bán công nghiệp trong tỉnh phải tuân theo quy hoạch cũng như hợp tác chặt chẽ với chúng tôi để hạn chế rủi ro”.

Mới đây, trên vùng đất Tứ giác Long Xuyên lại xuất hiện mô hình nuôi tôm sạch bệnh, chất lượng cao, đã hé mở thêm một cánh cửa cho ngành nuôi trồng và chế biến thủy sản xuất khẩu Kiên Giang. Đặc biệt, sự xuất hiện của Công ty Đầu tư phát triển và sản xuất Hạ Long (xã Phú Mỹ, huyện Kiên Lương, Kiên Giang) đã làm thay đổi cách nghĩ, cách làm trên vùng đất phèn nặng này. Ông Đoàn Quốc Việt, Tổng Giám đốc Công ty, cho biết: “Đây là vùng đất mới, độc lập với những khu nuôi trồng khác nên rất dễ dàng cho người nuôi khống chế dịch bệnh. Muốn làm được điều đó, công đầu tư rất lớn cho việc thực hiện hệ thống thủy lợi, xử lý vuông nuôi... Khi bắt tay vào vụ đầu tiên, chi phí nuôi chỉ chiếm khoảng 50-55%, còn lại là lãi ròng nhờ vào kỹ thuật”. Cứ nhẩm tính, với năng suất bình quân theo mô hình này khoảng 10 tấn/ha. Tính theo giá thị trường thấp nhất là 90.000 đồng/kg thì tổng thu cũng được 900 triệu đồng/ha/vụ. Trừ chi phí 55% còn lãi tròm trèm 400 triệu đồng. Công ty Đầu tư phát triển và sản xuất Hạ Long đang tiếp tục mở rộng diện tích nuôi tôm tại đây lên trên 400 ha, tạo nguồn nguyên liệu dồi dào phục vụ chế biến xuất khẩu thủy sản của tỉnh đạt trên 100 triệu USD/năm.

Theo ông Huỳnh Văn Gành, Giám đốc Sở Thủy sản Kiên Giang, với đà phát triển này, Kiên Giang có thể mở rộng diện tích nuôi tôm lên 128.000 ha; trong đó, nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp khoảng 12.000 ha, phấn đầu đạt sản lượng 59.000 tấn. Để đạt được mục tiêu này, Kiên Giang sẽ thay đổi một số cơ chế, chính sách nhất là trong việc cho thuê, giao đất để thu hút tối đa các thành phần kinh tế tham gia nuôi và chế biến tôm xuất khẩu...

NHÓM PV ĐBSCL

 


“Mỏ tôm” Hiệp Mỹ Tây

Nguồn tin: TP, 15/11/2006
Ngày cập nhật: 17/11/2006

Từ một xã nghèo nhất nhì của tỉnh Trà Vinh, vài năm gần đây mở mang nuôi tôm, Hiệp Mỹ Tây (Cầu Ngang) đã trở thành xã giàu...

Chủ tịch UBND xã Hiệp Mỹ Tây-ông Nguyễn Thanh Hùng cho biết: “Đất đai ở xã Anh hùng Hiệp Mỹ Tây nhiễm phèn mặn, trồng lúa bấp bênh, trước đây cơ sở hạ tầng rất yếu kém từ thủy lợi đến giao thông, phúc lợi xã hội”.

Hôm nay, xe tôi chạy bon bon trên đường trải nhựa từ trung tâm xã ra tận các vuông tôm. Hai bên đường là đèn cao áp và nối tiếp từng hàng đèn theo các ao nuôi tôm.

Thật khó hình dung vùng đất này trước đây heo hút, nghèo đói, giờ chẳng khác nào “thành phố”. Chỉ ngôi nhà tường khang trang vừa xây xong, anh Trần Văn Tư ở ấp Lồ Ồ, một nông dân nuôi tôm có tiếng trong vùng khoe với tôi: “Hồi trước tụi này chỉ biết trồng lúa trên đất mặn nên năm nào cũng thất, ai nấy nghèo rớt mồng tơi. Từ lúc chuyển sang nuôi tôm, đời sống phất lên. Nhiều hộ làm thuê, giờ trở thành triệu phú, tỷ phú”.

Hiệp Mỹ Tây có 1.276 hộ, với 6.380 nhân khẩu. Lão nông Nguyễn Văn Thiệu kể: Nói tới xứ biển này thì ai cũng lắc đầu, có năm nhiều nhà phải bắt ốc, mò cua để có vài ba ngàn đồng mua gạo sống qua ngày.

Có câu hát: “Hiệp Mỹ Tây nước mặn chà là gai/đất cày lên muối mặn phèn vàng”. Chính quyền địa phương triển khai hàng loạt biện pháp nhằm nâng cao đời sống người dân nhưng đều bất thành. Chỉ khi chuyển đổi sang nuôi tôm mới khá lên.

Ông Thiệu có 1 ha, năm đầu tiên 2003 thả nuôi 180.000 con tôm giống, thu lợi 160 triệu đồng, năm 2004-2005 thu lợi 200 triệu đồng mỗi năm, năm 2006 này gia đình ông mở rộng diện tích nuôi, ước tính lợi nhuận hơn 300 triệu đồng.

Nuôi tôm ở Hiệp Mỹ Tây là nuôi trên ao nổi và người nghiên cứu thử nghiệm đầu tiên là Thạc sĩ Trần Hoàng Phúc-PGĐ Sở Thủy sản Trà Vinh. Năm 2002, ông Phúc đầu tư 300 triệu đồng nuôi trên diện tích gần 1 ha ở ấp Mỹ Quí.

Hàng trăm người dân trong vùng đến xem, không ít người nghi ngờ. Không ngờ cuối vụ, thu hoạch 5 tấn tôm, lợi nhuận hơn trăm triệu đồng. Bà con làm theo và vùng đất xấu trở thành “mỏ tôm”.

Cũng từ đó, huyện Cầu Ngang đầu tư hệ thống thủy lợi kiên cố, chủ động việc cấp và thoát nước cho nuôi tôm, đồng thời tập trung hỗ trợ kỹ thuật. Cái hay của Hiệp Mỹ Tây là không phát triển diện tích tràn lan mà theo điều kiện của hệ thống thủy lợi và nguồn vốn, kỹ thuật, lại khuyến khích người dân liên kết.

Các mô hình “hợp tác” nuôi tôm ra đời theo phương châm người nghèo góp đất đai, người có tiền góp vốn, Nhà nước hỗ trợ kỹ thuật và kêu gọi doanh nghiệp tham gia đầu tư cơ sở vật chất. Toàn bộ quy trình nuôi, từ khâu chọn giống đến chăm sóc và thu hoạch, có cán bộ chuyên môn theo dõi chặt chẽ. Do vậy hạn chế được dịch bệnh và năng suất luôn đạt cao.

Diện tích nuôi tôm ở Hiệp Mỹ Tây vừa được mở rộng lên 773 ha, trong đó có 126 ha nuôi theo hình thức công nghiệp (chiếm 51,6% tổng diện tích nuôi công nghiệp toàn huyện). Nhờ khai thác “mỏ tôm” có hiệu quả, đời sống người dân khá lên.

Diệu Hiền

 


Bến Tre: Nuôi thử nghiệm thành công cá bống mú, hiệu quả cao

Nguồn tin: CT, 16/11/2006
Ngày cập nhật: 17/11/2006

Trại CADET (ở huyện Bình Đại) thuộc Trung tâm khuyến ngư tỉnh Bến Tre đã nuôi thử nghiệm thành công cá bống mú. Đây là loài cá có thịt ngon, giàu dinh dưỡng, giá bán bình quân 100.000 đồng/kg, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi.

Bước đầu, trại thả nuôi thử nghiệm hơn 5.000 con cá giống bống mú trong khoảng 0,8ha diện tích mặt nước, cho ăn bằng thức ăn công nghiệp. Thời điểm thu hoạch sau 8 tháng nuôi tỷ lệ sống đạt trên 80%, bình quân mỗi con đạt từ 0,8 - 1 kg, sản lượng trên 3,3 tấn. Tổng nguồn thu từ tiền bán cá trên 330 triệu đồng, trừ chi phí trại còn lãi trên 100 triệu đồng. Kết quả nuôi thử nghiệm cho thấy, cá bống mú rất thích hợp trong môi trường nước mặn và lợ. Tới đây, ngành thủy sản tỉnh Bến Tre sẽ khuyến khích nhân rộng ra dân nuôi loài cá này.

C.D


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang