• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Hội thảo khoa học kỹ thuật ương nuôi cá tra xuất khẩu và phòng trị bệnh cá nước ngọt

Nguồn tin: AG, 7/11/2006
Ngày cập nhật: 9/11/2006

Ngày 5/11, tại thành phố Long Xuyên, Công ty Bayer Việt Nam phối hợp với Công ty TNHH Ngô Quốc Thắng, phường Mỹ Thạnh, thành phố Long Xuyên tổ chức hội thảo khao học kỹ thuật ương nuôi cá tra xuất khẩu và phòng trị bệnh cá nước ngọt. Tham dự hội thảo có Tiến sĩ Mags Crumlish, Trường Đại học Stirling, Scotland, các nhà chuyên môn và gần 600 ngư dân của 2 tỉnh An Giang, Đồng Tháp.

Năm 2005, sản lượng thủy sản Việt Nam xuất khẩu ước đạt 400.000 tấn, chủ yếu là cá tra, cá basa. Những tháng đầu năm 2006 do giá cá liên tục tăng nên số ngư dân tham gia nuôi cũng tăng lên. Tuy nhiên để nuôi cá đạt hiệu quả kinh tế cao, yếu tố kỹ thuật ương nuôi và phòng trị bệnh cho cá là hết sức quan trọng.

Qua nhiều năm nghiên cứu về loài cá da trơn ở châu Âu, châu Mỹ và châu Á, Tiến sĩ Mags Crumlish đã rút ra nhiều kinh nghiệm cũng như giải pháp hỗ trợ kỹ thuật và phòng trị bệnh cho cá giúp ngư dân có qui trình nuôi cá sạch bệnh, hạ giá thành sản xuất đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Hiện nay ngư dân nuôi cá ở An Giang nói riêng và các tỉnh ĐBSCL nói chung rất lo ngại về bệnh ký sinh trùng và nhiễm khuẩn trên cá, đặc biệt là bệnh mủ gan trên cá tra, cá basa. Theo khảo sát của các nhà chuyên môn có khoảng 80% trại nuôi cá tra, basa bị ít nhất một lần nhiễm khuẩn xảy ra trong một chu kỳ nuôi. Hiện nay 2 loại thuốc đặt trị trên thị trường được ngư dân sử dụng rất hiệu quả đó là HaDaClena A và Fortoca của Công ty Bayer Việt Nam.

Tại hội thảo, một trong những vấn đề được nhiều ngư dân quan tâm là kỹ thuật ương nuôi và phương pháp chọn con giống đạt chất lượng, cách vệ sinh ao nuôi trước và trong quá trình nuôi. Đây là những yếu tố hết sức quan trọng nhằm hạn chế nhiều mầm bệnh nhiễm khuẩn tác nhân chính dẫn đến nhiều bệnh ký sinh trùng khác. Các nhà chuyên môn đến từ các nước Scotland, Anh và Hàn Quốc đã giải thích nhiều thắc mắc của ngư dân, qua đó giúp ngư dân áp dụng vào quá trình chăn nuôi để tạo ra những sản phẩm xuất khẩu đủ sức cạnh tranh thị trường thế giới.

Nguyễn Hậu

 


Thái Bình: Người dân kêu cứu vì... tôm

Nguồn tin: LĐ, 09/11/2006
Ngày cập nhật: 9/11/2006

(LĐ) - Sau 4 năm chuyển đổi từ đất cấy lúa sang nuôi tôm sú công nghiệp, người dân ở xã Thái Đô, Thái Thụy, Thái Bình không những không có được cuộc sống khấm khá hơn, mà tới thời điểm này (tháng 11.2006), đang có tới trên 900 hộ dân kêu cứu vì phải ôm nợ vì tôm.

Hoang vắng đồng tôm

Ông Tạ Văn Ương - Chủ tịch xã Thái Đô, huyện Thái Thụy - cho biết: "Toàn xã Thái Đô có 904 hộ đã tham gia chuyển đổi theo hình thức từ lúa sang tôm theo dự án của Bộ NNPTNT. Tuy nhiên, đến nay sau 4 năm triển khai, rất nhiều hạng mục vẫn còn dang dở. Trạm bơm vẫn chưa được lắp máy, cột điện đã dựng xong nhưng thiếu đường dây, trạm biến áp xây xong không lắp thiết bị... Do vậy, các hộ dân có đầm tôm trong dự án vẫn phải nuôi theo hình thức quảng canh, nên năng suất của các hộ dân không đồng đều".

Theo chân anh Tạ Đức Hiển (Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Thái Đô) ra đồng tôm, mới thấy cảnh hoang vắng của cánh đồng. Hầu hết các chòi canh ở đồng đều vắng chủ, lác đác có một vài người đang câu cá rô phi... trong ruộng tôm. Các công trình xây dựng cơ bản phục vụ các ruộng tôm như hệ thống bơm - 10 trạm (dự kiến có 20 máy bơm), trạm biến áp... đều trống hoác vì chưa được lắp đặt thiết bị...

Anh Hiển cho biết, vốn đầu tư cho nuôi tôm rất lớn, trong khi đó, mỗi hộ chỉ được vay ngân hàng bình quân 10 triệu đồng, nên người dân phải sử dụng nhiều thức ăn tận dụng, thức ăn tươi làm cho môi trường vùng đầm bị ô nhiễm. Nguồn con giống cung cấp cho người nông dân cũng phập phù, toàn xã chỉ có một công ty cung cấp giống do đó không đủ cho 904 hộ, người dân phải mua tôm giống ngoài thị trường trôi nổi, không có kiểm định, kiểm dịch của các cơ quan chức năng...

Ngoài ra, việc cung cấp nguồn nước cho các đầm nuôi không đảm bảo dẫn đến tôm bị dịch bệnh... Những nguyên nhân trên đã dẫn tới cái sự "nợ" của 904 hộ nông dân! Vì trót "đâm lao phải theo lao", nên các hộ dân đều phải tìm cách "xoay" vốn ở nhiều luồng khác nhau, do đó khi con tôm liên tiếp không cho lợi, các hộ dân đều "ôm" nợ. Hộ nợ ít là 5 triệu, trung bình là 10 triệu, nhiều là 20 triệu!

Ước trở lại ngày xưa

Anh Nguyễn Hinh - thôn Nam Hải - cho biết, gia đình anh tham gia chuyển đổi ngay trong giai đoạn một của dự án, trong 4 năm chuyển đổi, gia đình đã đầu tư hơn 50 triệu vào 3.200m2 ruộng nuôi tôm và phần lớn các vụ tôm đều thất bại, bởi con giống thả xuống một thời gian không phát triển, rồi chết.

Hiện gia đình anh còn nợ ngân hàng và các nơi khác khoảng 20 triệu đồng. Dẫn chúng tôi tham quan ruộng tôm, nay thả cá rô phi đơn tính, anh Hinh tâm sự: "Ngày trước còn trồng lúa thì gia đình đủ ăn. Sau chuyển đổi sang nuôi tôm theo dự án của bộ, gia đình đầu tư về con giống, đào ruộng, dựng chòi, mương dẫn nước... nhưng khi thả tôm giống xuống, tôm chết, người cũng gặp khó khăn, bởi hệ thống cơ sở hạ tầng điện, nước do Nhà nước xây dựng chưa phục vụ được cho các ruộng tôm của người dân. Hàng ngày, 6 người trong gia đình phải đi làm thuê, đi biển... để kiếm cơm".

Cùng cảnh với anh Hinh là gia đình anh Nguyễn Văn Huỳnh - thôn Nam Hải. Gia đình anh Huỳnh sau vụ tôm đầu tiên lãi được 7 triệu đồng, đã hăng hái đầu tư về con giống và diện tích nuôi trồng... nhưng liên tiếp gặp thất bại, tôm chết - người mang nợ. Hiện nay, gia đình anh Huỳnh còn "ôm" khoản nợ trị giá 15 triệu đồng. Anh Huỳnh cho biết: "Phần lớn các hộ gia đình ở trong xã đều mong muốn ruộng tôm bây giờ trở lại ngày xưa - là ruộng lúa. Trồng lúa tuy không có lợi nhiều, nhưng còn đủ ăn, không phải đi vay nợ". Gia đình ông Tạ Đức Hiển - Phó Chủ nhiệm HTX dịch vụ nông nghiệp xã Thái Đô - cũng nuôi 3 vụ thì 2 vụ thất bại. Riêng vụ xuân hè vừa qua còn bị mất trắng 100% do tôm nhiễm bệnh.

Từ việc triển khai không đồng bộ một dự án, hơn 900 hộ dân ở đây đang kêu cứu vì phải ôm nợ. Không hiểu các nhà quản lý địa phương và trung ương có biết?

Hà Anh

 


Công khai doanh nghiệp có sản phẩm nhiễm kháng sinh cấm

Nguồn tin: TT, 09/11/2006
Ngày cập nhật: 9/11/2006

 


Đức “tôm thẻ chân trắng”

Nguồn tin: KH, 07/11/2006
Ngày cập nhật: 9/11/2006

Từ một người thợ học sửa chữa máy, chàng thanh niên 21 tuổi Nguyễn Văn Đức bỗng chốc trở thành người đi đầu trong thôn về nuôi tôm thẻ chân trắng bằng chế phẩm sinh học thành công. Điều gì đã giúp anh thành công để mỗi năm thu về hơn 100 triệu đồng?

° Biến ước mơ thành hiện thực

Đìa nuôi tôm của Nguyễn Văn Đức nằm ở thôn Tân Phước Tây, xã Vạn Phước, huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa). Lúc chúng tôi đến, Đức đang loay hoay dọn dẹp máy móc. Từ thời điểm này đến cuối năm, các đìa nghỉ nuôi, chuẩn bị cho mùa vụ mới vào năm sau nên mặt đìa trông thật phẳng lặng. Với dáng người dong dỏng, cao khoảng 1m68, trông Đức già hơn so với tuổi 21 của mình. Đứng trước người thanh niên này, chúng tôi thầm cảm phục, không ngờ người có dáng dấp thư sinh như thế lại là điển hình làm kinh tế giỏi của tỉnh, được chọn giới thiệu với Trung ương để nhận giải thưởng Lương Đình Của.

Sinh ra ở vùng biển nghèo xã Vạn Phước, huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa), lúc nhỏ cậu bé Nguyễn Văn Đức được “đặc trách” lo cơm nước cho anh chị ra đồng. Mấy sào ruộng của gia đình không nuôi đủ 9 miệng ăn, nên cái đói, cái nghèo đeo bám mãi. “Ngày ấy, mỗi lần nhìn mẹ len lén san bớt cơm qua chén cho mình, trong tôi lại dậy lên một ước mơ mãnh liệt là phải học cách làm giàu để mẹ bớt khổ” - Đức kể. Năm 1995, phong trào nuôi tôm sú trong tỉnh nở rộ, kéo làng biển nghèo của xã Vạn Phước vào cuộc. Nhiều hộ gia đình của xã giàu lên nhanh chóng nhờ con tôm sú và cũng tan gia bại sản vì nó. Gia đình Đức không thoát khỏi quy luật ấy. 2 ha đất đìa nuôi tôm sú của gia đình đã có lúc giúp cho cha mẹ Đức khỏi phải lo cái ăn cái mặc, mở ra hướng làm giàu cho Đức, thì cũng chính nó lại trở thành món nợ và lấy đi ước mơ bước chân vào đại học của cậu bé. Không từ bỏ ước mơ làm giàu từ tôm, được bố mẹ cho đi học nghề để “tự nuôi bản thân sau này”, Đức đã chọn nghề cơ khí, vì: “Tôi nghĩ, muốn làm giàu bằng nghề nuôi tôm phải hiểu biết về máy móc để có thể tự làm chủ trên đìa nuôi của mình” - Đức nói.

4 năm đeo đuổi học nghề cơ khí nhưng tâm trí Đức lúc nào cũng hướng về việc làm giàu từ nuôi tôm. Năm 2000, một lần tình cờ, xem chương trình nông dân làm giàu với mô hình “nuôi tôm thẻ chân trắng bằng chế phẩm sinh học ở tỉnh Bình Định” trên kênh VTV1, Đức nghĩ “Sao mình không tìm hiểu để áp dụng thử mô hình ấy vào đìa nuôi tôm của gia đình, vì các loại thức ăn dành cho loại tôm này ở địa phương rất dồi dào”. Nghĩ là làm. Kết thúc khóa học nghề, Đức quyết định cùng 2 người trong thôn khăn gói ra Bình Định học cách thức nuôi tôm thẻ chân trắng. Vốn đã có kinh nghiệm phụ giúp gia đình nuôi tôm nên khi học cách nuôi tôm thẻ chân trắng bằng chế phẩm sinh học, Đức tiếp thu rất nhanh. Trong 2 ngày ở Bình Định, Đức đã nắm hết bí quyết và cách thức nuôi. “Nuôi loại tôm này có cái lợi: nuôi đơn giản, ít gặp rủi ro về dịch bệnh, lại tận dụng nguồn thức ăn có sẵn ở địa phương nên chi phí đầu tư giảm hơn một nửa so với cách nuôi tôm sú. Nhưng khi về, tuyên truyền lại cho mọi người trong thôn thì không mấy ai tin tưởng. Vì theo họ, kinh nghiệm đầy mình về nuôi tôm sú còn thất bại liên tục, huống chi là nuôi cách mới” - Đức nói. Để chứng minh và thể nghiệm điều mình đã học, Đức bắt tay vào vệ sinh 2 ha đáy đìa và xây dựng bể lọc nước, thả nuôi thử nghiệm gần 200.000 con tôm giống. Sau 2 tháng rưỡi thả nuôi, vụ thu hoạch tôm thẻ chân trắng theo phương pháp mới đã đem về cho gia đình Đức lợi nhuận gần 80 triệu đồng. Anh Nguyễn Văn Tuấn - anh trai của Đức kể: “Hồi nuôi vụ tôm thẻ đầu tiên, nó làm như nhà nghiên cứu khoa học, suốt ngày ở ngoài đìa, không ló mặt về nhà. Nói nó “ăn cùng tôm, ngủ cùng tôm” cũng không sai”.

Sau thắng lợi vụ đầu tiên, Đức đã mua thêm 2 ha đìa và đầu tư vào nuôi tôm thẻ chân trắng bằng chế phẩm sinh học, mỗi năm thu về cho gia đình hàng trăm triệu đồng tiền lãi. Thấy Đức nuôi tôm có hiệu quả, người dân trong thôn bắt đầu đến tìm hiểu và học cách nuôi tôm của Đức. Nhờ đó, nhiều gia đình trong thôn đã giàu lên từ việc nuôi tôm thẻ chân trắng. Không những làm giàu cho gia đình, Đức còn giải quyết việc làm cho 5 - 7 thanh niên trong thôn với thu nhập 800.000 đồng/người. Nói về bí quyết thành công, Đức cho biết: “Phải biết ước mơ và phải biết tin vào chính mình” - câu trả lời rất thật nhưng đã thể hiện được tính cách quyết đoán của chàng trai trẻ vừa qua tuổi 20 Nguyễn Văn Đức.

° Dự định cho tương lai

Ngoài biệt danh “Đức tôm thẻ chân trắng”, anh còn được biết đến với một biệt danh khác là “Đức ròm” - một biệt danh rất trìu mến mà đoàn viên thanh niên (ĐVTN) trong thôn đặt cho Bí thư Chi đoàn thôn Nguyễn Văn Đức. Có tham gia sinh hoạt cùng Chi đoàn thôn do Đức làm Bí thư, mới hiểu vì sao Chi đoàn do Đức phụ trách năm nào cũng được đánh giá là hoạt động hiệu quả, thu hút nhiều ĐVTN tham gia. Không chỉ tổ chức các trò chơi đơn thuần mà các trò chơi do Đức đưa ra đều có chủ đề, chủ điểm, gắn với hoạt động thực tiễn. Ngoài ra, trong các buổi sinh hoạt Đoàn, Đức còn truyền đạt kinh nghiệm làm ăn từ chính bản thân mình hoặc giới thiệu các mô hình làm kinh tế mới cho ĐVTN trong thôn.

Dù đang rất thành công trong công việc nuôi tôm thẻ chân trắng bằng chế phẩm sinh học nhưng Đức đang lên kế hoạch trong 5 năm tới sẽ cố gắng mở xưởng sửa chữa cơ khí tại thôn vì: “Xưởng sửa chữa cơ khí ra đời sẽ đào tạo nghề cho nhiều ĐVTN trong thôn, giúp họ có việc làm ổn định”.

VÂN LY

 


Vì sao người dân Tân Thành (Kiến Thuỵ, TP Hải Phòng) bỏ đầm nuôi tôm?

Nguồn tin: ND, 08/11/2006
Ngày cập nhật: 9/11/2006

Từ năm 2000, người dân Tân Thành (Kiến Thuỵ, TP Hải Phòng) hồ hởi hưởng ứng chủ trương chuyển 188 ha ruộng trũng trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi tôm. Hiệu quả kinh tế của mô hình chuyển đổi này đã nhanh chóng được ngành thuỷ sản Hải Phòng nhân rộng. Nhưng từ năm 2003, người dân xã này đã bỏ hoang đầm nuôi tôm. Chuyện gì đã xảy ra ở đây?

Anh Nguyễn Văn Lâm, ở đội 2, xã Tân Thành kể: “Nhà tôi chuyển gần 2.000 m2 từ đất trồng lúa sang nuôi tôm theo chủ trương của huyện. Vụ đầu nuôi tôm đạt hiệu quả kinh tế cao gấp nhiều lần so trồng lúa. Bà con trong xã mừng lắm. Chuyện làm giàu trên đồng chua sắp trở thành hiện thực.

Nhưng từ hai năm nay, tôi phải bỏ đầm không nuôi tôm, vì tôm nuôi bị chết. Hiện gia đình nợ ngân hàng 10 triệu đồng, chưa biết đến khi nào có khả năng trả nợ. Cuộc sống của gia đình chủ yếu nhờ vào vợ tôi chạy chợ.”

Chủ nhiệm HTX nuôi trồng thuỷ sản Tân Thành Nguyễn Văn Rảo cho biết thêm: Mức nợ ngân hàng của nhà anh Lâm còn thấp so với các hộ nuôi tôm khác. Nhiều hộ dân phải nợ ngân hàng đến hàng chục triệu đồng vì nuôi tôm thua lỗ.

Từ năm 2003 đến nay, nuôi tôm gặp nhiều khó khăn, chủ yếu khó khăn về nguồn nước và chất lượng tôm giống. Đến nay, trên địa bàn xã có 50% diện tích (hơn 90 ha) ao đầm nuôi tôm bị bỏ hoang.

Diện tích còn lại tiếp tục được các hộ nuôi nhưng chỉ có 20% số hộ thả nuôi có lãi. Nếu các cơ quan có trách nhiệm không giúp bà con chủ động được nguồn nước, con giống bảo đảm chất lượng thì nguy cơ xoá sổ vùng nuôi tôm khó có thể tránh khỏi.

Ông Nguyễn Quân Hoà, Phó Chủ tịch UBND xã Tân Thành nói: Chỉ trong thời gian ngắn, 100% diện tích trồng lúa trước đây (188 ha) đã được gần 800 hộ nông dân trong xã chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản với hy vọng làm giàu.

Nhưng hiệu quả của việc chuyển đổi chưa thấy đâu mà hậu quả đã ập đến, khiến người dân Tân Thành phải bỏ 50% diện tích nuôi trồng thuỷ sản, lâm vào cảnh nợ nần.

Theo ông Hoà, nguyên nhân chủ yếu khiến nghề nuôi tôm thất bát là do chưa chủ động nguồn nước phục vụ nuôi tôm. Ngoài ra, đa số người nuôi tôm đều mua con giống do tư thương cung cấp, chưa được kiểm dịch, nên chất lượng kém.

Cống Cầm Cập đã được xây dựng ba năm thuộc dự án nuôi tôm công nghiệp ven đường 14 Kiến Thuỵ - Đồ Sơn, nhưng lại không phục vụ vùng nuôi tôm của xã. Hiện nay, việc vận hành cống này lại do Công ty nuôi trồng thuỷ sản Kiến Thuỵ quản lý.

Hàng trăm hộ nuôi tôm của xã không được hưởng lợi nguồn nước từ công trình này. Điều đó, khiến bà con trong xã bức xúc, kiến nghị các ngành, các cấp can thiệp để người nuôi tôm Tân Thành được hưởng nguồn nước từ cống Cầm Cập.

Những năm trước đây, nguồn nước phục vụ cho vùng nuôi trồng thuỷ sản Tân Thành được lấy từ cống Thuỷ Giang (C3). Hệ thống thuỷ lợi này được cải tạo, nâng cấp từ năm 2000 nhưng đến nay đã xuống cấp nghiêm trọng, không cấp đủ nguồn nước cho vùng nuôi tôm.

Phó Chủ tịch UBND huyện Kiến Thuỵ Nguyễn Duy Bình nói: UBND xã Tân Thành đã nhiều lần kiến nghị lên huyện, Thành phố giải quyết vấn đề nguồn nước phục vụ nuôi tôm.

UBND huyện chủ động đề xuất với UBND TP Hải Phòng nên giao cống Cầm Cập cho trạm Khai thác công trình thuỷ lợi Kiến Thuỵ, thuộc Công ty Quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi Đa Độ quản lý, điều tiết nguồn nước hợp lý, vừa đáp ứng vùng nuôi trồng thuỷ sản của công ty nuôi trồng thuỷ sản Kiến Thuỵ, vừa đáp ứng được nguồn nước cho vùng nuôi trồng thuỷ sản xã Tân Thành.

Trao đổi với chúng tôi chung quanh vấn đề nuôi tôm ở Tân Thành, ông Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch thường trực UBND TP Hải Phòng cho rằng: Thuỷ lợi cho nông nghiệp và thuỷ lợi cho nuôi trồng thuỷ sản hiện nay có nhiều bất cập. UBND Thành phố đã chỉ đạo ngành nông nghiệp và ngành thuỷ sản thống nhất về phương thức quản lý cống Cầm Cập.

Trong khi các ngành, các cấp TP Hải Phòng đang lúng túng chưa có biện pháp tháo gỡ thì người dân Tân Thành đành bỏ hoang đầm nuôi tôm. Nếu bảo người dân quay trở lại trồng lúa là điều không thể thực hiện được vì đã nhiễm mặn, nếu bảo người dân tiếp tục nuôi tôm nhưng không chủ động được nguồn nước và con giống chẳng khác nào ném tiền xuống sông, xuống biển.

Liệu các dự án chuyển đổi diện tích ruộng trũng trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản của huyện Kiến Thuỵ cũng như các địa phương khác của TP Hải Phòng đang và sẽ triển khai có giúp người dân thoát nghèo?

Tạ Quang Dũng

 


Tỷ phú đất Cù lao

Nguồn tin: Tiền Giang, 7/11/2006
Ngày cập nhật: 8/11/2006

Lần đầu tiên đến xã Tân Phong, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang nhưng chúng tôi tìm nhà ông Năm Đời ở ấp Tân An (tức ông Nguyễn Văn Đời) rất dễ dàng, bởi ở xứ cù lao này danh tiếng “tỷ phú cá tra” của ông Đời ai cũng biết.

Xã Tân Phong là quê hương thứ hai của ông Đời cũng là nơi “đất lành chim đậu”. Ông sinh ra ở xã Hậu Thành, huyện Cái Bè, khi trưởng thành ông đã có nhiều năm trôi dạt khắp nơi làm đủ ngành nghề kiếm sống. Thấy Tân Phong đất đai màu mỡ, khí hậu trong lành nên ông đã chọn nơi đây để lập nghiệp. Gia đình ông Đời có 8 công đất trồng các loại cây ăn trái như: nhãn, sầu riêng, xoài…Trồng trái cây thì “năm ăn năm thua” bởi giá cả bấp bênh. Năm 2003, khi thấy mô hình nuôi cá tra ở tỉnh An Giang có triển vọng nên ông có ý định chuyển đổi mô hình trồng cây sang nuôi cá. Do điều kiện sông nước của xã Tân Phong chẳng khác gì ở An Giang. Lúc đầu ông đào một ao rộng 5 công để nuôi cá tra thử nghiệm, do thiếu kinh nghiệm và giá cá ở mức thấp nên doanh thu từ nuôi cá tra của gia đình ông đạt không như ý nhưng cũng lãi hơn 100 triệu đồng. Sau đó ông thuê cơ giới đào thêm một ao rộng hơn 1 ha đất để nuôi cá tra thịt và ương cá bột. Từ đó mà mô hình nuôi cá tra xuất khẩu của gia đình ông Nguyễn Văn Đời ngày càng phát triển. Tính trong vụ 1 năm 2005 với 2 ao mặt nước ông thả 400.000 con cá tra con, thu hoạch cá đạt sản lượng hơn 500 tấn cá. Giá cá ở thời điểm này khoảng 12.000 đồng/kg. Như vậy, trừ mọi chi phí trong một năm từ 2 vụ nuôi cá tra xuất khẩu ông lãi hơn 1 tỷ đồng. Để nuôi cá tra đạt hiệu quả và hạn chế được các loại bệnh trên cá,ông nghiên cứu đến môi trường nước làm sao cho ổn định, trong lành. Các ao nuôi phải thường xuyên làm vệ sinh, hút bùn, và có lặp đặt hệ thống cống thông nước với sông rạch. Ngoài ra, từ nguồn vốn tích lũy được trong lao động sản xuất ông đã sang nhượng thêm quyền sử dụng đất ở các nơi để tiếp tục mở rộng mô hình. Hiện tại gia đình ông Nguyễn Văn Đời sử dụng 10 ha đất. Ngoài nuôi cá ông còn đầu tư trên diện tích đất còn lại trồng các loại cây ăn trái đặc sản để có thêm nguồn thu nhập. Có hơn 10 lao động giúp việc nhưng người chủ trang trại này lúc nào cũng bận rộn. Năm 2006, ông còn mạnh dạn vay ngân hàng thêm 2 tỷ đồng để đào thêm một ao nuôi cá với diện tích 1ha. Bởi theo ông hiện tại và tương lai giá cá tra xuất khẩu sẽ tăng mạnh, nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO thị trường cá tra xuất khẩu mở rộng, không còn tình trạng ép giá như trước đây. Ông Đời còn hướng dẫn kỹ thuật giúp nhiều hộ dân ở địa phương cùng phát triển mô hình nuôi cá. Đến nay, toàn xã Tân Phong đã có hơn 20 hộ dân nuôi cá tra và đa số họ đều nhận được nguồn lãi khá, thoát được cảnh nghèo khó. Ông Nguyễn Văn Đời nhiều năm liền được công nhận danh hiệu Nông dân sản xuất giỏi cấp tỉnh. Năm 2005, ông vinh dự được tỉnh chọn đi dự liên hoan nông dân sản xuất giỏi cấp toàn quốc tổ chức tại Hà Nội.

Hiện nay tuy đã là tỷ phú nhưng ước nguyện làm giàu của ông Đời vẫn không dừng lại. Ngoài việc nuôi ca tra xuất khẩu, trồng cây ăn trái thời gian tới ông còn đầu tư trồng cây cảnh, nuôi các loại động vật quý hiếm, biến khu vườn tại nhà trở thành khu du lịch sinh thái để phục vụ khách tham quan.

CHU TRINH

 


Hội thảo nuôi tôm khu vực Gò Công

Nguồn tin: Tiền Giang, 7/11/2006
Ngày cập nhật: 8/11/2006

Theo Trung tâm khuyến ngư vụ nuôi tôm sú năm 2006 ở vùng Gò Công chưa đạt kết quả tốt, nguyên nhân chủ yếu là do bà con nông dân xuống giống chưa đảm bảo theo lịch khuyến cáo của ngành thủy sản. Để vụ nuôi tôm năm 2007 đạt hiệu quả cao, Trung tâm khuyến ngư hướng dẫn và gửi đến cho bà con nuôi tôm các tài liệu về lịch thả tôm giống, sổ tay nuôi tôm, kỹ thuật chăm sóc và phòng trị các bệnh chủ yếu trên tôm. Cũng trong dịp này, Sở Thủy sản mời giảng viên khoa Thủy sản trường Đại học Cần Thơ trình bày nguyên nhân và cách phòng bệnh phấn trắng trên tôm. Đây là bệnh do virus tấn công chưa có thuốc đặc trị.

Qua hội thảo này sẽ giúp nông dân nắm vững một số kỹ thuật cơ bản về nuôi tôm sú đạt hiệu quả cáo trong các mùa vụ tới.

LỆ THU - THANH TÂM

 

 


Dự án khu nuôi tôm công nghiệp Lộc An (BR-VT): Kéo dài cho đến bao giờ ?

Nguồn tin: BR-VT, 7/11/2006
Ngày cập nhật: 8/11/2006

 


Cơ sở sản xuất giống cá bống tượng Hải Vân (Bến Tre) mở rộng trại ương

Nguồn tin: Bến Tre, 07/11/2006
Ngày cập nhật: 8/11/2006

Cơ sở sản xuất giống cá bống tượng Hải Vân của anh Nguyễn Văn Bảo ở ấp An Ninh, xã An Qui, huyện Thạnh Phú (Bến Tre)đang mở rộng qui mô sản xuất với 32 ao ương nâng tổng số lên 45 ao ương với tổng thể tích 330m3. Lượng cá bố mẹ dự tính là 1000 cặp với 2 ao nuôi 2000m2. Anh Bảo cho biết, đây là kế hoạch cho vụ nuôi 2007 cơ sở có thể cung cấp khoản 100.000 con giống/tháng, đảm bảo nguồn con giống để người nuôi trong tỉnh cũng như người nuôi ngoài tỉnh phát triển nghề nuôi cá bống tượng thương phẩm.

Được biết từ đầu năm 2006 đến nay, cơ sở sản xuất Hải Vân của anh Bảo đã sản xuất được trên 60.000 con giống cá bống tượng, doanh thu hơn 60 triệu đồng và đã cung cấp con giống cho bà con trong tỉnh và ở các tỉnh Long An, Cần Thơ, Kiên Giang, Đắc Lắc và Bình Thuận. Góp phần đa dạng hoá nghề nuôi thuỷ sản./.

Trần Tâm

 


Quảng Ngãi: Ra khơi, trúng đậm cá ngay sau bão số 7

Nguồn tin: NLĐ, 6/11/2006
Ngày cập nhật: 7/11/2006

 


Cá cơm vẫn chỉ là tiềm năng

Nguồn tin: ND, 6/11/2006
Ngày cập nhật: 7/11/2006

Tiềm năng khai thác cá cơm ở vùng biển nước ta là tương đối lớn, thế nhưng có một thực tế là khi XK thì bao giờ giá cả cũng bị thấp hơn so với giá bán của Thái-lan.

Theo nghiên cứu của Bộ Thủy sản, vùng biển Việt Nam và Thái-lan chiếm tới 80% trữ lượng cá cơm trên thế giới. Trong đó, Việt Nam chiếm 2/3, nhiều nhất là các tỉnh miền Trung và Nam bộ, đặc biệt là ở các vùng biển Nha Trang, Vũng Tàu, Phan Thiết, Phú Quốc...

Được biết, có năm trúng mùa, sản lượng cá cơm lên đến hàng ngàn tấn, trong đó cá cơm ruồi chiếm 60 - 65%, cá cơm trắng chiếm 20 - 25%. Phan Thiết là vùng có trữ lượng cá cơm lớn, có đêm ngư dân đánh bắt được tới 40 tấn.

Có thể nói, tiềm năng khai thác cá cơm ở vùng biển nước ta là tương đối lớn, thế nhưng có một thực tế là khi XK thì bao giờ giá cả cũng bị thấp hơn so với giá bán của Thái-lan. Không những thế, các DN Hàn Quốc hiện đang có những động thái liên kết với nhau để gây sức ép về giá đối với cá cơm của Việt Nam.

Theo phân tích của các cơ quan quản lý, kể cả các DN chế biến XK thì lợi thế tiềm năng về trữ lượng nguồn cá cơm của nước ta là rất thuận lợi, được những bạn hàng lớn như Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc ưa chuộng, tuy nhiên do kỹ thuật bảo quản, hấp luộc chưa tốt, gây ẩm mốc, độ ẩm có lúc chiếm tới 26 - 28%, tỷ lệ mất đầu lớn trên 15%, mùi vị chưa thực hấp dẫn, chất lượng thiếu ổn định nên cá cơm ở Phan Thiết vẫn chưa bán được với giá xứng đáng. Trong khi đó, đối tượng cạnh tranh duy nhất của nước ta là Thái-lan, tuy chỉ chiếm 1/3 trữ lượng cá cơm, lại không có nhiều cá cơm quý hiếm thế nhưng công nghệ đánh bắt, chế biến và công tác marketing của các DN nước này hơn hẳn nước ta.

Trong khi ngư dân Việt Nam chủ yếu bảo quản cá cơm bằng cách ướp đá từ 6 đến 8 giờ đồng hồ mới được vận chuyển vào bờ để luộc, phơi nắng - vừa tốn kém mà vẫn không giữ được màu sắc nguyên thủy của cá; thì các ngư dân của Thái-lan đã đầu tư đồng bộ nên có thể luộc, phơi khô cá ngay trên tàu, vừa tiết kiệm thời gian, vừa bảo đảm chất lượng cá tươi ngon, sau đó họ mới chuyển cá vào bờ để tiến hành sấy bằng công nghệ hiện đại.

Công tác tiếp thị của Thái-lan cũng được tổ chức rất rầm rộ, bài bản; bởi vậy, tại các hội chợ lớn, dù tiềm năng cá cơm của Việt Nam vượt trội nhưng số lượng các hợp đồng ký kết đều thua xa so với các DN Thái-lan. Một yếu tố nữa là bản thân các DN cũng phải thừa nhận chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau, mạnh ai nấy làm, chưa quan tâm tới vấn đề thống nhất mức giá trần và giá sàn XK cá nên dễ bị các DN nước ngoài, kể cả các nước NK cạnh tranh ép giá gay gắt, làm giảm giá trị kim ngạch XK.

Tại Hội thảo “Xuất khẩu thủy sản 2010, tầm nhìn 2010”, các DN XK cá cơm Việt Nam cho rằng, giải pháp lâu dài là các DN nên đầu tư phương tiện vào vùng nguyên liệu, nhất là kho lạnh và phương tiện đánh bắt. Tuy vậy, trước việc các DN nước NK đang liên kết ép giá thì bản thân các DN XK trong nước phải có sự liên kết, thông tin với nhau để đưa ra những đối pháp kịp thời, mang sức mạnh tập thể để không rơi vào tình trạng bị các DN nước NK khống chế về giá. Hơn nữa, chúng ta cũng cần mở rộng thị trường XK mặt hàng này, không nên quá lệ thuộc vào thị trường Hàn Quốc, dễ dẫn tới những biến động về giá cũng như sản lượng XK nếu phía Hàn Quốc có sự thay đổi.

Thương mại

 


An Giang - Chủ bè cá khổ vì tàu cao tốc

Nguồn tin: NLĐ, 07/11/2006
Ngày cập nhật: 7/11/2006

Mỗi lần tàu chạy qua là bầy cá hoảng sợ bỏ ăn. Ba năm qua, hàng chục chủ bè cá trên sông Kênh Xáng đã phải bỏ nghề

Ngày 1-11, đang cho bầy cá basa hơn chục ngàn con ăn mồi cữ sáng thì anh Nguyễn Văn Hiếu (xã Long An, Tân Châu) giật mình bởi tiếng động cơ gầm rú của 2 chiếc tàu cao tốc loại lớn đang chạy đua trên dòng Kênh Xáng. Chưa kịp trở tay, những lượn sóng thật lớn, đục ngầu đã đổ ập lên 2 chiếc bè cá, tung tóe khắp nơi. Bè lắc lư chao đảo dữ dội, đà gỗ vặn mình răng rắc, đàn cá bỏ mồi lặn mất tăm. Vừa định thần lại, anh Hiếu nghe mấy công nhân la lên: “Sóng đánh gãy cây đà neo mớ phao thùng phuy rồi”. Ra xem, cây đà gỗ 4 phân bị gãy ngọt, văng mất một khúc xuống sông. Anh Hiếu than: “Ngày nào cũng như ngày nấy, tui và bà con làng bè chịu hết xiết mấy ông tàu cao tốc này rồi”.

Lao đao làng bè

Cách đó không xa, ông Lê Văn Thủ (chủ 2 bè cá he, mè vinh) chỉ cho tôi xem 3 chiếc bè của gia đình ông bị sóng tàu cao tốc đánh hư hỏng, phải dỡ bỏ không nuôi cá nữa. Ông Thủ nói, trong 2 năm 2004- 2005 ông đã 2 lần bị sóng tàu cao tốc đánh vỡ vách bè cá, đàn cá trong bè thoát ra sông gần hết, thiệt hại nặng nề. Không riêng gia đình ông Thủ, ông Hiếu, cả làng bè Tân Châu hầu như ai cũng một, hai lần nếm mùi sóng tàu cao tốc.

Làng nuôi cá bè trên sông Kênh Xáng (Tân Châu, An Phú, An Giang) đã có từ rất lâu. Đây là đoạn sông xung yếu dài khoảng 12 km nối sông Hậu và sông Tiền, đi qua địa phận 4 xã Châu Phong, Tân An, Long An (huyện Tân Châu) và Vĩnh Hậu (huyện An Phú). Hiện tại trên đoạn sông này có hơn 120 bè cá, tập trung nhiều nhất ở 2 xã Tân An và Long An (huyện Tân Châu, thuộc Chi hội Thủy sản Long Thành). Tuy nhiên, từ năm 2003 đến nay, nghề nuôi cá bè trên sông Kênh Xáng ngày càng suy sụp vì những đoàn tàu cao tốc chạy tuyến Việt Nam - Campuchia. Theo lời cư dân làng bè, mỗi ngày hai buổi sáng chiều hàng chục chiếc tàu cao tốc từ Châu Đốc chạy hết tốc lực trên sông Kênh Xáng để vào sông Tiền lên Campuchia theo cửa khẩu Vĩnh Xương và ngược lại. Lái tàu cao tốc cho tàu chạy bạt mạng. Các chủ bè cá la trời vì bè bị sóng đánh bể, cá bỏ ăn; cư dân sinh sống hai bên bờ cũng chịu hết xiết vì sóng tàu cao tốc làm sạt lở bờ sông nghiêm trọng, chìm ghe xuồng của cư dân hai bên bờ sông nhưng tất cả đều... phớt lờ. Mới đây 7 căn nhà ở tổ 8, ấp Long Thành, xã Long An đã bị sóng đánh rớt xuống sông.

Giải quyết nửa vời!

Theo khảo sát của Đội Thanh tra giao thông đường thủy số 7 tỉnh An Giang, trên tuyến Kênh Xáng Tân Châu hiện có các tàu cao tốc của 5 đơn vị hoạt động gồm: Công ty Du lịch Hàng Châu, Công ty Tư Trang Cần Thơ, Công ty Đạt Thanh (TPHCM), Công ty Sài Gòn- Mékong (TPHCM) và Công ty Pluecruiser TPHCM. Ngoài việc vận chuyển hành khách tuyến Việt Nam- Campuchia theo giờ (cao điểm buổi sáng từ 6 giờ đến 8 giờ, buổi chiều từ 16 giờ đến 18 giờ), các công ty này còn hợp đồng vận chuyển khách du lịch theo tour. Ông Thủ phàn nàn: “Cá bỏ ăn hoài nên tụi tôi phải tập cho cá ăn vào những giờ cố định không có tàu hoạt động. Nhưng cũng không yên vì mấy ông tàu du lịch theo tour chạy bất kể giờ giấc. Mỗi lần thay đổi giờ cho cá ăn cực trần thân”.

Trước sự tiêu điều của làng cá bè, Chi hội Thủy sản Long Thành nhiều lần gửi đơn kiến nghị đến các ngành, các cấp của huyện Tân Châu và tỉnh An Giang (kể cả đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh). Sau nhiều lần khiếu nại, tháng 4-2006 tỉnh An Giang đã có văn bản yêu cầu Đội Thanh tra giao thông đường thủy nội địa số 7 phải thường xuyên hướng dẫn các đơn vị có phương tiện tàu cao tốc chấp hành tốt các quy định hiện hành, Chi cục Quản lý đường sông khảo sát cắm biển báo tốc độ và các biển an toàn giao thông đường thủy trên đoạn sông Kênh Xáng. Riêng Phòng CSGT đường thủy An Giang đề nghị quy định tốc độ của phương tiện thủy trên con sông này tối đa chỉ 35 km/giờ. Tuy nhiên, suốt nhiều tháng qua tàu cao tốc cứ chạy bạt mạng bất chấp thiệt hại của dân. Nhiều chủ bè vì quá mệt mỏi đã chấp nhận rã bè, bỏ nghề nuôi cá.

HÙNG ANH

 


Tp. Hồ Chí Minh: Xuất khẩu gần 1.000 tấn da cá sấu

Nguồn tin: Nhân dân, 5/11/2006
Ngày cập nhật: 7/11/2006

Sáu tháng đầu năm 2006, Tp.HCM đã XK được gần 1.000 tấn da cá sấu và hơn 550 con cá sấu giống. Ở Tp.HCM, hiện nay cá sấu đang là một trong số những con vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở ngoại thành. Tp.HCM hiện có 35 trại nuôi cá sấu, với tổng đàn gần 100 nghìn con các loại. Trong đó trại cá sấu Hoa Cà (quận 12); trại Suối Tiên (quận 9); trại Forimex (huyện Bình Chánh) là những trại nuôi tập trung lớn, vừa cung cấp con giống vừa cho sản phẩm hàng hoá (da, thịt) lớn.


Tuy Phong - quy hoạch lại vùng nuôi tôm hùm để phát triển bền vững

Nguồn tin: Bình Thuan, 7/11/2006
Ngày cập nhật: 7/11/2006

Là nghề hoàn toàn mới nhưng nuôi tôm hùm ở Tuy Phong đang rất được ngư dân quan tâm bởi lợi nhuận khá lớn. Chính vì vậy mà từ 1 bè thử nghiệm do một ngư dân học từ cách nuôi ở Khánh Hòa năm 2002, đến nay Tuy Phong đã có hơn 60 bè tôm hùm được nuôi tập trung ở xóm 7 xã Vĩnh Tân. Anh Phạm Văn Phong, chủ 2 bè tôm hùm gồm 10 lồng nuôi cho biết: So với tôm sú thì nuôi tôm hùm đơn giản hơn bởi đặc tính ít bệnh, lại nuôi trên biển nên nguồn nước ổn định. Thức ăn cũng là các loại tươi sống từ biển như cá tôm nên người nuôi rất thuận lợi. Mỗi vụ, người nuôi nhiều lãi vài ba trăm triệu là chuyện bình thường. Chính vì vậy mà rất nhiều người ở khu vực này muốn đầu tư vào nghề nuôi tôm hùm. Tuy nhiên, diện tích mặt nước được cho phép nuôi hiện nay quá hạn chế nên mặc dù còn nhiều hộ có điều kiện đầu tư nhưng không thể mở rộng sản xuất. Đây cũng là bức xúc mà nhiều năm qua huyện Tuy Phong phải tìm cách tháo gỡ. Anh Huỳnh Văn Điển, Trưởng Phòng Nông nghiệp &PTNT cho biết, phần lớn các yếu tố tự nhiên cơ bản của vùng ven biển Tuy Phong như độ mặn, dòng chảy, độ sâu, chất đáy… đều rất phù hợp với đặc điểm sinh học, tập tính sinh thái của tôm hùm. Do vậy mà mới phát triển thời gian không lâu, song hầu hết các vùng nước ven bờ có đủ điều kiện nuôi tôm hùm đã được khai thác. Và đây thực sự là nghề hứa hẹn đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, ngoài khu vực xóm 7, các vùng còn lại của biển Tuy Phong không có các vũng, vịnh kín gió, lại là vùng biển chịu tác động lớn của sóng nên thực tế diện tích để phát triển nghề nuôi tôm hùm ổn định là không nhiều. Riêng khu vực nuôi tôm hùm tại xóm 7 cũng là khu neo đậu tàu thuyền nhưng tập trung trên một diện tích không lớn nên có muốn mở rộng cũng không thể. Dù vậy, nhiều năm qua, do phát triển tự phát, chưa có sự quản lý đúng mức của nhà nước nên chuyện tranh giành vị trí nuôi tôm giữa các chủ lồng bè, tranh chấp với các hoạt động sản xuất, nuôi trồng thủy sản khác như nuôi tôm giống, neo đậu tàu thuyền, làm muối, quy hoạch du lịch… vẫn xảy ra. Chưa kể việc phát triển tràn lan sẽ khó tránh được thiệt hại khi xảy ra thiên tai vì với kiểu nuôi tôm hùm lồng trên biển như hiện nay, không có bất cứ một biện pháp khả thi nào để bảo vệ khi có bão.

Chính vì vậy mà phương án bố trí, sắp xếp lại vùng nuôi tôm hùm với các hoạt động khai thác hải sản khác đã được huyện tập trung thực hiện, tháo gỡ hạn chế để nghề nuôi tôm hùm được phát triển ổn định. Theo quy hoạch của huyện Tuy Phong, ngoài khu vực xóm 7 xã Vĩnh Tân hiện đang nuôi, huyện không cho phép hộ nuôi phát triển ở bất cứ khu vùng nào khác vì không đảm bảo điều kiện để nuôi một cách bền vững. Vùng quy hoạch tôm hùm là trên cơ sở vùng nuôi hiện có sẽ mở rộng thêm về phía Đông và Tây Nam. Ở những vùng có đủ độ sâu và ít bị tác động của sóng gió nhưng phải đảm bảo việc đi lại và neo đậu của tàu thuyền đánh bắt hải sản. Để tạo điều kiện thêm cho hộ nuôi, những vị trí còn trống sẽ cho xen vào thêm một số bè mới. Phần mở rộng thêm thì bố trí bè nuôi theo tuyến với khoảng cách giữa mỗi bè gần nhất là 50m. Như vậy, tổng diện tích nuôi tôm hùm quy hoạch lại để phát triển bền vững sẽ là 30,39ha với tổng cộng 131 bè nuôi. Đây được xem là phương án khả thi đảm bảo các yếu tố thuận lợi cho nghề nuôi tôm hùm phát triển trong điều kiện nuôi trồng thuỷ sản hiện tại của Tuy Phong, giảm thiểu tình trạng tranh chấp giữa nuôi tôm hùm và các hoạt động khác trên biển. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một phương án chỉnh trang chứ không phải một dự án quy hoạch chi tiết vì hiện nay, tỉnh chưa có quy hoạch chung về nuôi trồng thủy sản trên biển. Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn về việc giao, cho thuê mặt nước trên biển để nuôi trồng thủy sản cũng chưa có. Vì thế huyện cũng rất hạn chế trong việc bố trí lại chuyện nuôi tôm hùm sau quy hoạch. Trước mắt, để tạo điều kiện cho quản lý nhà nước, chủ trương tạm thời là cho các hộ gia đình và cá nhân trên địa bàn huyện có đủ điều kiện thuê mặt nước biển để nuôi tôm hùm theo thời gian từng năm, chờ hướng dẫn cụ thể của tỉnh, chấm dứt tình trạng nuôi trồng bằng hình thức tự phát. Với phương án chỉnh trang lại vùng nuôi tôm hùm lồng bè, các hộ nuôi cũng được tạo thuận lợi mới như được ngành thủy sản hướng dẫn về phương pháp nuôi, theo dõi tình hình thị trường và khuyến cáo về dịch bệnh… để hạn chế thiệt hại cũng như tạo điều kiện cho vay vốn ưu đãi để phát triển. Huyện cũng giao nhiệm vụ trực tiếp cho xã Vĩnh Hảo, Vĩnh Tân làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tình hình trật tự tại các khu vực nuôi tôm để xử lý nghiêm chuyện tranh giành vùng nuôi giữa các chủ lồng, đảm bảo thuận lợi nhất cho nghề nuôi tôm hùm phát triển mạnh trong những năm tới.

MINH HẰNG

 


Nhiều mô hình nuôi tôm sạch bệnh, chất lượng cao

Nguồn tin: BCT, 6/11/2006
Ngày cập nhật: 7/11/2006

Vụ tôm năm nay, năng suất tôm sú nuôi công nghiệp tại một số tỉnh ĐBSCL giảm 2-3 tấn/ha so với các năm trước. Nguyên nhân chính do ảnh hưởng môi trường nuôi, con giống không đảm bảo chất lượng... Để nâng cao chất lượng tôm nguyên liệu phục vụ chế biến thủy sản chất lượng cao xuất khẩu, nhiều địa phương vùng ĐBSCL đang triển khai các mô hình nuôi tôm sạch bệnh, chất lượng cao.

Tỉnh Bến Tre vừa áp dụng mô hình liên kết nuôi tôm bền vững Faquimex. Nếu tuân thủ qui trình nuôi do ngành thủy sản đưa ra, người nuôi tôm sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ mô hình này như: được hỗ trợ vốn, bao tiêu sản phẩm, được thu mua nguyên liệu đúng giá thị trường... Mô hình do Công ty Xuất nhập khẩu lâm thủy sản tỉnh Bến Tre làm khởi điểm, sau đó nhân rộng ra trong tỉnh.

Tỉnh Cà Mau cũng đã tổ chức nhiều lớp tập huấn khuyến ngư cho nông dân học tập, nắm vững kỹ thuật nuôi tôm. Đề tài nuôi vỗ tôm sú bố mẹ theo hướng sạch bệnh, an toàn, chất lượng cao của tỉnh đang triển khai thực hiện giai đoạn 2. Dự kiến, sau năm 2007, nông dân Cà Mau sẽ có nguồn giống tôm sú chất lượng cao để nuôi trồng hiệu quả hơn. Tỉnh này cũng đang thực hiện 2 dự án đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi tôm ven TP Cà Mau và một số xã ở huyện Cái Nước, với tổng mức vốn được duyệt lên đến 19,3 tỉ đồng.

Kiên Giang cũng đang mở rộng mô hình nuôi tôm sạch bệnh, chất lượng cao. Ông Huỳnh Văn Gành, Giám đốc Sở Thủy sản Kiên Giang, cho biết: Tỉnh có thể mở rộng diện tích nuôi tôm lên 128.000 ha; trong đó, nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp khoảng 12.000 ha, phấn đấu đạt sản lượng 59.000 tấn. Để đạt mục tiêu này, Kiên Giang sẽ thay đổi một số cơ chế, chính sách, nhất là trong việc cho thuê, giao đất, để thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia nuôi và chế biến tôm xuất khẩu.

Ở Tiền Giang, UBND tỉnh đã có chỉ thị yêu cầu các hộ nuôi tôm phải cải tạo ao, đầm chuẩn bị kỹ cho vụ thả nuôi năm 2007, không được vội vàng thả nuôi để tránh tình trạng tôm bị bệnh, chết hàng loạt. Hiện nay, giá tôm sú tại 2 huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây (Tiền Giang) đang ở mức cao: trên 100.000 đồng/kg loại 40 con/kg.

Nhóm PV ĐBSCL

 


Nguy cơ Nhật Bản đóng cửa một số mặt hàng thủy sản VN - Bộ Thủy sản và các doanh nghiệp chạy nước rút

Nguồn tin: SGGP, 03/11/2006
Ngày cập nhật: 6/11/2006


Cá bẩn, cá sạch

Nguồn tin: Báo ĐĐK, 01/11/2006
Ngày cập nhật: 6/11/2006

Lâu nay, nhiều người đều nghĩ rằng ăn cá rất sạch, tốt cho sức khỏe, trí tuệ và nâng cao tuổi thọ. Quan niệm đó có thể phải thay đổi nếu họ biết đại đa số cá mà họ đang ăn hàng ngày đều được nuôi theo quy trình...bẩn đến rùng mình.

Kinh hoàng công nghệ nuôi cá...

Một lái xe bồn ở Hải Phòng nói với tôi rằng trước đây anh ta chuyên kiếm ăn bằng cách chở phân người tươi từ những địa điểm vệ sinh công cộng của thành phố xuống các vùng nuôi trồng thủy sản ven đô. "Thôi thì đủ cả, từ nhà vệ sinh công cộng khu tập thể, trường mẫu giáo đến bệnh viện tôi đều đến nạo vét tất rồi chở đến những mối hàng quen thuộc. Một téc đầy khoảng 4 m3 bán được chừng 1-1,2 triệu đồng. Người nuôi nào có diện tích thủy sản nhỏ thì quây bờ rồi đánh đống dùng dần. Người nào nuôi 3-4 ha thì đổ ụp cả téc xuống, khỏi phải lo mua thức ăn trong hàng tuần lễ. Đàn cá lao lại đớp oàm oạp trong làn nước vàng nhờ, nổi đầy bọt và...giấy vệ sinh. Ăn ác nhất là cá rô phi, trê lai, chim trắng. Nhiều con ăn tham còn bị ngộ độc, nhất là loại phân bệnh viện, chứa nhiều kháng sinh và chất độc. Anh không nhìn thấy cảnh đấy thì thôi chứ nhìn chẳng bao giờ còn dám ăn cá nữa". Anh xế khẳng định chắc như đinh đóng cột với tôi: "Giờ thì chuyện nuôi cá bằng phân người tươi ít rồi nhưng họ lại chuyển sang các loại phân động vật khác. Anh cứ về các vùng ven đô của Hà Nội xem". Để kiểm chứng, tôi đã cất công mấy ngày nhập vai một nghiên cứu sinh về thủy sản lang thang khắp các hồ thuộc Thanh Trì, vùng nuôi thủy sản trọng điểm nhất của Hà Nội: . Địa điểm đầu tiên tôi xuống là hồ nhà ông Vũ Xuân Tròn tại Yên Sở-một trong những tấm gương sáng về nuôi trồng thủy sản, tên ông hầu như xuất hiện trong tất cả các báo cáo của ngành nông nghiệp Thủ đô. Ông Tròn là người có kinh nghiệm nuôi cá ngót 40 năm nay, là người đưa những giống thủy sản mới nhất như chim trắng, rô phi, chuối hoa, tôm càng xanh vào nuôi đầu tiên của Thanh Trì. Ông cũng là người lập kỷ lục trong ngành thủy sản của thủ đô khi đã từng đẩy năng suất cá lên 30-40 tấn/ha.

Hỏi "bí kíp" phối trộn thức ăn cho cá chóng lớn để phục vụ đề tài nghiên cứu của mình, ông Tròn thật thà bảo: "Giờ thức ăn công nghiệp có giá trên 6.000đồng/kg nên nuôi mà dùng 100% loại thức ăn này thì có mà lỗ sặc tiết. Trước tôi nuôi trê lai, vẫn hay đến các lò mổ để xin hoặc mua phân, mỡ vụn thừa (giá rất rẻ, chỉ 10.000 đồng/vài tạ, nhiều khi cho không), giờ không nuôi loại cá này nữa nên thôi. Cá rô phi, cá chim trắng bây giờ tôi phải dùng nhiều loại thức ăn phối chế như ngô, cám và...phân lợn để nuôi". Giống cá chịu "thâm canh" phân nhất là cá rô phi. Nhà ông Tròn có mấy hồ nhưng có 2 hồ nuôi cá bằng phân. Dẫn tôi ra thực tế, ông chỉ: "Một năm tôi nuôi 3-4 lứa lợn, mỗi lứa khoảng 60-70 con, tất tật phân được tống xuống ao bằng cách rửa chuồng. (Vị chi một năm 1 ha không dưới trăm rưỡi tấn phân, chưa kể số phân do chính đàn cá thải ra cũng vài chục tấn-PV).Thêm nữa là những hộ dân xung quanh hồ nuôi gà, lợn rồi là hố xí tự hoại của họ cũng chĩa thẳng xuống hồ nên không hề thiếu thức ăn cho cá. Cái anh rô phi này khỏe ăn phân lắm. Cống rãnh bị lấp kín, nước hồ không lưu thông được mà vẫn lớn ầm ầm". Để minh chứng, ông Tròn dội nước vào chuồng lợn, tống phân ra hồ. Đàn rô phi đông đảo tranh nhau lao sát vào miệng cống, đớp đôm đốp. Mặt nước dậy sóng, nổi đầy bọt váng. Thế cá nuôi bằng phân chất lượng ra sao? Bán được không? Ông Tròn nói: "Cá nuôi bằng phân ăn bở và hôi lắm. Da cá lại đen trũi nữa. Muốn bán được tôi phải đem trộn cá nuôi bằng thức ăn thường vào rồi bán cùng chứ!". Ông già ngót 80 tuổi cười tinh quái.

Tạm biệt ông Tròn, tôi sang Đông Mỹ- một điểm nuôi thủy sản nổi tiếng khác của Thanh Trì với diện tích mặt nước trên 100ha, nơi đang đầu tư để làm du lịch sinh thái kết hợp nuôi cá sạch. Vì mục tiêu ấy mà vùng thủy sản Đông Mỹ được đầu tư tương đối đồng bộ từ điện, đường, hệ thống kênh mương dẫn nước ra, vào. Thế nhưng, thực tế hiện nay chỉ có đường giao thông là tốt còn điện vẫn chưa có, kênh cũng không nên ao nhà này thải nước ra, ao nhà kia hút vào là chuyện bình thường ở Đông Mỹ. Hỏi chuyện lỗ lã của nghề nuôi cá, anh Nguyễn Duy Hưởng-một chủ hồ tâm sự: "Giá thức ăn công nghiệp tăng quá. Có hộ ở Đông Mỹ vụ vừa rồi nuôi cá hoàn toàn bằng thức ăn công nghiệp nghe đâu bảo lỗ ngót trăm triệu đấy. Tôi vẫn phải dùng thức ăn phế phẩm cho cá thì mới đảm bảo có lãi được". Thức ăn phế phẩm ấy chính là phân tươi. Trong chuồng nhà anh Hưởng luôn có 80-100 con lợn. Phân lợn đảm bảo khẩu phần chủ yếu cho cá. Ngoài phân ra, anh Hưởng còn dùng các thức ăn phế phẩm khác như bột mốc (chứa rất nhiều vi nấm Aflatoxin-gây ung thư gan-PV) và trứng thối. Anh kể: "Tôi vẫn hay mua lương thực mốc (bánh quy, bột hỏng) của Công ty bánh kẹo H.H với giá chừng 2.000đồng/kg. Ngoài ra còn mua trứng thối từ các cơ sở làm bánh trung thu với giá 200đồng/quả về cho cá ăn". Nói rồi anh chỉ mấy thùng chứa trứng bốc mùi cho tôi xem . Không chỉ ở Đông Mỹ mà cả nhiều vùng thủy sản ven Hà Nội, chuyện bà con chăn nuôi sử dụng phân làm thức ăn chủ lực hay bổ sung cho cá không phải là hiếm.

Đến công nghệ cá siêu sạch

Một người bạn khi tham dự triển lãm Agro Việt và được "ngoại giao" một con cá hữu cơ cứ nức nở với tôi rằng: "Hết xẩy! Cá hữu cơ thịt dai như thịt gà ta, ngọt lừ và thơm phức chứ không bở bùng bục như mấy anh cá nuôi bằng cám cò đâu nhé! Nghe đâu, người ta nuôi cá này kỳ công lắm, nước nôi phải sạch, lại không dùng bất kỳ một thứ thức ăn, hóa chất nào. Nuôi hàng năm cá mới nặng ngót 1 kg thôi". Còn ông Lê Anh Chiến - Giám đốc dự án " Phát triển khuôn khổ cho sản xuất và marketing nông nghiệp hữu cơ Việt Nam"-đơn vị trưng bày cá lại cho tôi một thông tin khá thú vị là cá hữu cơ khỏe đến nỗi quẫy vỡ cả tủ kính trưng bày khiến ông phải xuất tiền đền. Ông Chiến còn tỏ ra rất "tiếc rẻ" cho tôi bởi: "Nhà báo chưa được nếm cá hữu cơ. Tuyệt lắm!". Tò mò về phương pháp nuôi cá siêu sạch rất mới mẻ này, tôi quyết định về Tân Dân (An Lão, Hải Phòng)-địa điểm nuôi cá hữu cơ của dự án.

Một buổi sáng bình thường như bao ngày khác, bờ ao nhà anh Nguyễn Văn Tam-nhóm trưởng một nhóm nuôi cá hữu cơ tại Tân Dân lại chật kín nông dân đến nghe phương pháp nuôi cá hữu cơ. Nghề nuôi cá nước ngọt đối với người Tân Dân đã quen thuộc hơn hai mươi năm nay nhưng nuôi cá hữu cơ còn mới quá, lạ quá. Dự án nuôi cá hữu cơ của Tổ chức ADDA (Đan Mạch) hỗ trợ lúc đầu vào Tân Dân đã gặp không ít xì xào. Nào là: "Nuôi cá mà còn phải dạy, bà con nuôi mấy chục năm rồi mà không biết à?". Nào là: "Mấy "ông Tây" ấy chỉ biết bơ sữa chứ biết gì đến cá mú mà dạy"...Thế nhưng sau khi nghe thuyết giảng về mục đích và ý nghĩa của dự án thì có 20 nông dân xin tham gia (3 người nuôi thí nghiệm và 17 thành viên khác học tập). Yêu cầu chung của việc nuôi cá hữu cơ là nguồn nước sạch, tuyệt đối không sử dụng thức ăn công nghiệp, không sử dụng phân vô cơ, sử dụng các loại thuốc có nguồn gốc thảo mộc để phòng và trị bệnh. Những người nuôi được chia làm 3 nhóm thí nghiệm với 3 công thức. Nhà anh Nguyễn Văn Tam nuôi 1.000m2 theo công thức 1, tức sử dụng phân chuồng ngâm ủ kỹ để tạo hệ sinh vật cho cá ăn kết hợp với thức ăn tinh (cám) khoảng 30%. Sau khi khử chua và bón lót ao, thời điểm từ tháng 2 đến tháng 4 anh Tam bắt đầu thả 2.500 con cá (trắm 500 con; mè 250 con; trôi 750 con; chép 250 con; rô phi 750 con). Thức ăn chủ yếu là phân chuồng, phân xanh ủ kĩ, cho vào bao tải rồi nhúng xuống nước tạo hệ vi sinh vật. Ngoài ra anh Tam còn sử dụng cám nguyên chất để làm thức ăn bổ sung. Nuôi cá theo phương pháp hữu cơ tốn công hơn nuôi cá thường. Suốt ngày phải tất bật lo ủ phân, lo theo dõi tình hình dịch bệnh... Bù lại, theo anh Tam thì chính nhờ phương pháp nuôi hữu cơ mà ao cá nước rất sạch, 3 tháng mới phải thay một lần (nuôi cá kiểu cũ 1 tháng thay nước một lần) và tốn ít tiền thức ăn. Vừa rồi đánh bắt thử (chưa đủ chu kỳ nuôi), cá trắm đạt mức tăng trọng 0,08kg/tháng, cá trôi, rô phi 0,04kg/tháng, mè 0,1kg/tháng, chép 0,05 kg/tháng. Tốc độ cá lớn chậm hơn nuôi kiểu thông thường khoảng 20-30kg/sào.

Vẫn những loại cá thông thường ấy nhưng cảm giác đầu tiên là cá hữu cơ có màu sắc trắng hơn (vì môi trường nước sạch hơn), bụng nhỏ và quẫy ùm ùm rất mạnh, tưởng chừng rách lưới. Hộ cuối cùng nuôi cá hữu cơ thử nghiệm là nhà anh Nguyễn Văn Trưởng, theo công thức 3, thức ăn xanh chiếm tới 70%. Tỷ lệ cá chết rất ít và đặc biệt là nuôi cá theo công thức hữu cơ, cho thức ăn xanh là chính cho kết quả năng suất bất ngờ: cao hơn so với nuôi thông thường khoảng 0,2kg/tháng/con. Tất cả nhóm nuôi cá hữu cơ ở Tân Dân đều cho rằng cách nuôi này không khó, chỉ hơi kỳ công, nếu giá bán cao hơn với giá cá thường khoảng 30% thì sẽ có lãi khá, sẵn sàng đầu tư, mở rộng.

Tại cuộc hội thảo mới đây tại An Lão, một lần nữa bà con Tân Dân lại được nghe về con cá hữu cơ: Rằng vùng nước ở quê mình trong sạch, hợp với việc nuôi cá hữu cơ (gần sông Đa Độ-nơi nhà máy nước Hải Phòng lấy làm điểm hút nước lên để lọc cung cấp cho toàn thành phố). Rằng cần khoanh vùng lớn, xử lý nước tốt, giống đảm bảo. Rằng có thể thành lập một HTX để đảm bảo chất lượng, số lượng cần thiết cho việc sản xuất hàng hóa, tiến tới hình thành một thương hiệu cá hữu cơ đầu tiên của cả nước tại Tân Dân...Nếu được đảm bảo đầu ra một cách chắc chắn thì tôi nghĩ một cuộc cách mạng mới trong ngành thủy sản có lẽ sẽ được những người nuôi cá Tân Dân mở đầu.

Trực Ngôn

Theo Báo Đại Đoàn Kết

 


Không mua tôm không rõ nguồn gốc

Nguồn tin: TT, 06/11/2006
Ngày cập nhật: 6/11/2006

 


Xuất khẩu thuỷ sản gặp khó khăn do phát hiện có Chloramphenicol

Nguồn tin: VTV, 04/11/2006
Ngày cập nhật: 5/11/2006


Doanh nghiệp cần kiên quyết từ chối tôm nguyên liệu chưa rõ nguồn gốc

Nguồn tin: VNN, 04/11/2006
Ngày cập nhật: 5/11/2006

 


Kiểm tra 100% ghẹ, tôm, cá tra xuất sang Mỹ

Nguồn tin: VNN, 03/11/2005
Ngày cập nhật: 5/11/2006

 


Các lồng bè nuôi cá ở huyện Cát Hải (Hải Phòng) tồn đọng khoảng 2500 tấn cá

Nguồn tin: Báo Hải Phòng, 3/11/2006
Ngày cập nhật: 5/11/2006

Hiện các lồng bè nuôi cá ở huyện Cát Hải tồn đọng khoảng 2500 tấn cá, chủ yếu là cá giò (loại 3-6 kg/con).

Huyện đảo Cát Hải hiện có tới 530 bè cá đang hoạt động với khoảng 8 nghìn ô lồng, chủ yếu nuôi các loại cá giò, hồng, song...Theo Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Nguyễn Đình Khượng, nguyên nhân cá lồng bè tồn đọng chủ yếu do đầu ra không ổn định, nhu cầu tiêu thụ của nhân dân thành phố đối với cá giò giảm so với những năm trước; lượng khách du lịch đến huyện đảo giảm. Trong khi đó, nguồn tiêu thụ theo đường tiều ngạch sang thị trường Trung Quốc đang tắc do các đầu mối tiêu thụ của Hải Phòng, Quảng Ninh ép giá. Giá cá giò hiện chỉ ở mức trung bình 55 nghìn đồng/kg, giảm 15-20 nghìn đồng/kg so với những năm trước./.

 


Nguồn lợi thủy sản bãi bồi ven biển Trà Vinh: Nguy cơ cạn kiệt!

Nguồn tin: BCT, 3/11/2006
Ngày cập nhật: 4/11/2006

Mỗi cua biển con từ bằng “hột tiêu” cho đến “hột me” có giá 300 đồng đến 2.000 hoặc tới 5.000 đồng. Tùy theo thời điểm, mỗi ký cá kèo, nghêu, sò huyết giống có thể lên đến vài trăm ngàn đồng. Không cần có nhiều dụng cụ, chỉ bỏ ra chừng 3-4 giờ ra bãi bồi ven biển, người lớn hay trẻ em cũng có thể kiếm được 10.000- 20.000 đồng. Cả xóm biển nghèo hầu như tập trung ra biển để khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên ưu đãi để kiếm sống. Nguy cơ cạn kiệt nguồn lợi thủy sản tự nhiên đã đến mức báo động.

Mấy năm gần đây khi rừng phòng hộ được phục hồi và phát triển, nhiều loài thủy sinh đã sinh sôi, phát triển khá nhiều tại khu vực các bãi bồi ven biển tỉnh Trà Vinh. Từ tháng 4 đến tháng Giêng âm lịch là mùa cá kèo con. Tháng 9 đến tháng 4 âm lịch năm sau là mùa cua biển con. Mùa nghêu, sò huyết con từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch. Người dân ven biển Trà Vinh có việc làm quanh năm, cuộc sống cũng được cải thiện đáng kể. Anh Nguyễn Văn Tài ở ấp Nhì, xã Mỹ Long Nam, huyện Cầu Ngang, nói: “Đa số dân vùng này thiếu đất hoặc không có đất sản xuất, nên chỉ trông cậy vào chuyện đi biển. Nhưng vì quá nghèo không có phương tiện, vì thế chỉ có thể quanh quẩn ở gần bờ. Cũng nhờ rừng được trồng lại trong mấy năm gần đây, cua, cá về nhiều, bán có giá làm bà con ai cũng mừng”.

Hiện tại đang vào mùa bắt cá kèo giống và cua biển con nên suốt tuyến bãi bồi ven biển không khi nào vắng bóng người. Ở bãi biển Mỹ Long Nam, mới chừng 6 giờ sáng, đã có rất đông người, phần lớn là trẻ em. Đồ nghề hết sức đơn sơ, chỉ có một cái keo nhỏ và một cái đèn pin đối với thợ săn bắt cua tiêu; một cái thùng và cây vợt đối với thợ bắt cá kèo. Em Trần Hải Phong (ở ấp Nhì, xã Mỹ Long Nam) là một trong những đứa trẻ bắt cua giỏi nhất với biệt danh là “sát cua”. Chỉ trong vòng 3 -4 giờ đồng hồ, em đã bắt được số cua khoảng 30.000 đồng, trong khi những đứa trẻ khác chỉ được khoảng 10.000-15.000 đồng. Dụng cụ bắt cua là một cái xiệp. Người bắt cua dùng cái xiệp gồm lưới được cột vào 2 cây nẹp chéo (chiều dài khoảng 2 mét), tỳ vào bụng và đẩy xiệp dưới bùn, với mực nước khoảng 40 - 45cm, lâu lâu kiểm tra xiệp, bắt cua một lần.

Cua biển con được chia làm 3 loại: cua me (bằng hạt me), cua tiêu (bằng hạt tiêu) và cua nhướng (khi đi bắt phải nhướng mắt to lên mới thấy). Vùng bãi bồi thuộc huyện Cầu Ngang thường chỉ bắt được loại cua nhỏ, nhưng khu vực huyện Duyên Hải có cả loại cua lớn và thường được đi săn vào ban đêm khi thủy triều bắt đầu xuống cho đến lúc triều lên lại là kết thúc. Gặp đêm trúng, một người cũng có thể bắt và bán được cả trăm ngàn đồng”. Anh Nguyễn Văn Thảnh, chủ vựa cua ở Mỹ Long Nam kể: “Cua biển con ở đây nhiều lắm, một ngày 5-6 chủ thu mua mỗi người được vài chục ngàn con, còn cua lớn cũng có vài trăm ký”. Anh Dương Văn Điện, Trưởng Hạt kiểm lâm thuộc Phòng Nông nghiệp - Thủy sản huyện Cầu Ngang đề xuất ngành chức năng nên có nhiều biện pháp quản lý nguồn cua giống.

Trước đây người đi săn chỉ bắt cua biển, thời gian gần đây họ có thêm nghề mới là bắt cá kèo, nghêu, sò huyết giống... Tuy nhiên chỉ có cá kèo giống là có số lượng ổn định hơn cả. Giá cá kèo giống từ 150.000 – 600.000 đồng/kg, tùy thời điểm. Nghề thu mua cá kèo giống tại địa phương nhanh chóng phát triển thay vì chỉ độc quyền của thương lái các tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu... nên giá cả cũng được nâng lên. Để cạnh tranh thu mua, ngoài chuyện giá cả, những chủ vựa còn ứng tiền trước cho người đi bắt không tính lãi, nhưng bù lại phải bán hết số cua, cá hoặc nghêu sò giống cho họ.

Có được nguồn lợi thủy sản ven bờ dồi dào như hiện nay, phải kể đến vai trò quan trọng của hệ thống rừng phòng hộ ven biển và công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản của tỉnh. Tuy nhiên việc khai thác bừa bãi như đang diễn ra có nguy cơ làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản trong thời gian tới. Kích cỡ các đối tượng khai thác, cũng như phương tiện khai thác phần lớn đều nằm trong qui định cấm. Ông Hồ Hoàng Hà - Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Trà Vinh, nói: “Với mức độ khai thác như hiện nay, rõ ràng ảnh hưởng rất lớn đến sự phục hồi của một số loài thủy sản. Nhưng việc cấm khai thác cũng hết sức khó khăn, do đa số người tham gia là dân nghèo, không có đất sản xuất hay nghề nghiệp nào khác. Muốn giải quyết tốt vấn đề này cần có nhiều giải pháp đồng bộ với sự tham gia của các ngành liên quan, bởi đây là nguồn sống chính của nhiều hộ nghèo”.

QUỐC DŨNG

 


Gò Công Đông - Tiền Giang: Được mùa tôm sú, cá kèo

Nguồn tin: TG, 03/11/2006
Ngày cập nhật: 4/11/2006

Đến cuối tháng 10-2006, huyện Gò Công Đông thu hoạch khoảng 1.600 ha diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp. Nhìn chung, năm nay ngành thủy sản tăng cường hướng dẫn các biện pháp kỹ thuật phòng, trị bệnh cho tôm nên đa số nuôi đạt năng xuất cao, bình quân 5-6 tấn/ha; giá tôm cỡ 40 con/kg luôn ở mức 90.000 - 95.000 đồng/kg nên người nuôi có lợi nhuận khá.

Năm nay, một số diện tích nuôi tôm sú sau khi thu hoạch, người nuôi cải tạo ao thả nuôi cá kèo. Đến thời điểm này, huyện có 38 hộ thả nuôi gần 17 triệu con giống trên diện tích hơn 36 ha và đã thu hoạch 5 ha, năng suất bình quân 5 tấn/ha, giá bán bình quân 45.000đồng/kg, người nuôi đạt lợi nhuận khá cao. Ngoài ra, toàn huyện còn có 128 hộ thả nuôi 7,4 triệu con tôm càng xanh trên diện tích gần 65 ha; tôm phát triển tốt, đang ở độ tuổi từ 3-4 tháng.

Tính chung, trong 10 tháng đầu năm, Gò Công Đông khai thác biển và thu hoạch thủy sản nuôi 47.700 tấn, đạt 79,76% kế hoạch năm, trong đó sản lượng nuôi 23.200 tấn, khai thác biển 24.500 tấn.

Nguồn: Báo Ấp Bắc

 


Nuôi cá giò bằng lồng trên biển ở đảo Phú Quý

Nguồn tin: BT, 02/11/2006
Ngày cập nhật: 4/11/2006

Trong những năm gần đây nghề nuôi cá giò bằng lồng bè trên biển phát triển mạnh ở huyện đảo Phú Quý vì điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để các loài thủy sản nuôi phát triển. Hiện nay, tại huyện có 61 cơ sở nuôi với diện tích là 10.406m2. Trong năm 2006 Trung tâm Khuyến ngư Bình Thuận đã đầu tư xây dựng mô hình trình diễn nuôi cá giò bằng lồng bè trên biển.

Mô hình được thực hiện bằng nguồn vốn của Trung tâm Khuyến ngư quốc gia và hỗ trợ kỹ thuật của Trung tâm Khuyến ngư Bình Thuận; mô hình được triển khai tại khu vực Lạch Dù nơi có rạn đá san hô che chắn sóng rất thuận lợi cho việc nuôi bằng lồng bè. Lồng có khung bằng gỗ được phân thành nhiều ô, các ô được bao bọc bằng lưới nylon, mắt lưới 2a=40mm. Toàn bộ hệ thống được cố định bằng dây neo và nổi trên mặt nước bằng hệ thống phao. Quy mô lồng 1.000m3, giống thả là 600 con, cỡ giống để thả là 6-8cm/con được thả mật độ 6 con/m3. Thức ăn chủ yếu cho cá giò là các loài cá, ốc, ghẹ và các loài nhuyễn thể tươi sạch băm nhỏ vừa cỡ mồi cho cá trước khi ăn, thường xuyên theo dõi tình hình bắt mồi của cá để có biện pháp tăng giảm lượng thức ăn cho phù hợp. Định kỳ hàng ngày lặn xuống đáy lồng để vớt thức ăn thừa và hàng tuần vệ sinh lồng 1 lần ngăn chặn không cho rong rêu đóng vào đáy lồng. Cán bộ kỹ thuật của Trạm Khuyến ngư Phú Quý luôn bám sát theo dõi tình hình sức khỏe của cá để có biện pháp xử lý kịp thời. Thời gian thực hiện mô hình bắt đầu từ đầu tháng 6/2006 đến nay được hơn 3 tháng, cá phát triển rất nhanh trọng lượng mỗi con đạt 1-1,5 kg, con lớn nhất được 1,8 kg. Tỷ lệ sống đạt đến 97%, chủ mô hình đã khẳng định trong thời gian nuôi 8 tháng cá sẽ đạt trọng lượng trung bình 4,5 kg/con. Với giá bán khoảng 45.000đ/kg, hiệu quả kinh tế từ việc nuôi cá giò sẽ rất cao và ước tính lợi nhuận thu được từ mô hình nuôi cá giò được khoảng 60-70 triệu đồng.

Với kết quả trên cho thấy cá giò là một đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao và rất thích hợp với điều kiện tự nhiên và môi trường của vùng biển Bình Thuận, tốc độ phát triển nhanh là đối tượng dễ nuôi, kỹ thuật đơn giản, ít bị mắc bệnh nên độ rủi ro rất thấp.

THANH THỦY

 


Ninh Thuận: Nuôi tôm đã có lãi

Nguồn tin: Tuổi trẻ, 2/11/2006
Ngày cập nhật: 3/11/2006

Giám đốc Sở Thuỷ sản Ninh Thuận Lưu Xuân Vĩnh cho biết hơn 300 ha/500 ha dìa tôm sú vùng cát An Hải, Từ Thiện (Ninh Thuận) đã... “hồi sinh” nhờ chuyển sang nuôi tôm chân trắng sau hơn 3 năm bị bỏ hoang vì thua lỗ. Hiện đang thu hoạch rộ vụ tôm chân trắng đầu tiên, bình quân hơn 30 tấn/ha. Với giá bán 48.000 - 50.000 đ/kg, người nuôi tôm lãi ròng khoảng 500 triệu đồng/ha/vụ (hai tháng rưỡi).


Nghệ An: Nuôi cá rô phi xen tôm

Nguồn tin: NNVN, 31/10/2006
Ngày cập nhật: 3/11/2006

Từ mô hình nuôi tôm thành công, Sở Thủy sản Nghệ An đã triển khai thử nghiệm nuôi cá rô phi xen tôm và đã cho năng suất cao.

Vụ tôm 2006, ngành thủy sản Nghệ An triển khai mô hình này đến tất cả các vùng nuôi tôm trong tỉnh. Với 1ha độc canh con tôm, nông dân thu lợi từ 80-100 triệu đồng nhưng nhờ nuôi xen canh với cá rô phi nên đã thu thêm từ 15-20 triệu đ/vụ. Sở cũng giúp nông dân 30% tiền mua giống, tư vấn miễn phí, hướng dẫn cách nuôi… Dự kiến đến năm 2007, toàn tỉnh sẽ có hơn 60% diện tích thực hiện theo mô hình nuôi cá rô phi xen tôm.

 


Chế biến thủy sản: Loại bỏ kháng sinh cấm ra sao?

Nguồn tin: TT, 03/11/2006
Ngày cập nhật: 3/11/2006

 


Khốn khó vì chuyển lúa sang tôm

Nguồn tin: TP, 03/11/2006
Ngày cập nhật: 3/11/2006

 


Bán đảo Cà Mau: Nuôi tôm, ôm nợ... 73 tỷ đồng

Nguồn tin: SGGP, 02/11/2006
Ngày cập nhật: 3/11/2006

 


Những mô hình mới trên lúa...

Nguồn tin: BCT, 1/11/2006
Ngày cập nhật: 2/11/2006

 


Thị trường lao động cho ngành chế biến thủy sản: Chông chênh giữa cung - cầu!

Nguồn tin: BCT, 1/11/2006
Ngày cập nhật: 2/11/2006

 


Giải pháp phát triển bền vững nuôi tôm trên cát

Nguồn tin: Ninh Thuận, 1/11/2006
Ngày cập nhật: 2/11/2006

Nhằm khôi phục nghề nuôi tôm trên cát, Sở Khoa học - Công nghệ và Sở Thủy sản đã phối hợp với Trường Đại học Nông lâm TP.Hồ Chí Minh thực hiện đề tài khoa học với giải pháp phát triển bền vững nghề nuôi tôm trên cát tại Ninh Thuận. Các giải pháp của đề tài khoa học này đưa ra chủ yếu là chuyển đổi đối tượng nuôi, phát huy vài trò của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường nuôi và phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng.

Nuôi tôm trên cát ở tỉnh ta phát triển nhanh từ năm 2000, từ vài hecta ban đầu đến năm 2003 diện tích nuôi tôm trên cát đã tăng lên trên 100 hecta, Tuy nhiên, sau thời hoàng kim nghề nuôi tôm của tỉnh ta đã gặp nhiều khó khăn do môi trường ô nhiễm và tôm thường xuyên bị dịch bệnh như những vùng khác. Đặc biệt năm 2004 đã có đến 80% diện tích ao nuôi đã bị bệnh phân trắng và teo gan gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi tôm. Vì vậy đến năm 2005, diện tích nuôi tôm trên cát chỉ còn khoảng 30 hecta thả nuôi cầm chừng. Đối tượng nuôi thích hợp nhất cho vùng nuôi tôm trên cát hiện nay là tôm thẻ chân trắng. Hiện nay, ao đìa nuôi tôm thẻ chân trắng tỉnh ta có khoảng 40 hecta và qua thu hoạch đạt năng suất bình quân 5 tấn/ha, lãi từ 60-120 triệu đồng/ha.

Nguyên nhân dẫn đến tôm bị dịch bệnh tràn làn trên vùng nuôi trên cát trước đây là do diện tích ao nuôi phát triển quá nhanh, nhưng cơ sở hạ tầng vùng nuôi chưa đảm bảo. Hơn nữa đa số các ao được nuôi theo mô hình công nghiệp, ít thay nước nhưng lại sử dụng nhiều hoá chất mang tính hủy diệt môi trường nên dễ phát sinh dịch bệnh, đặc biệt là bệnh phân trắng, teo gan. Do vậy, khi chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng, cũng phải chú ý đến những điều kiện kỹ thuật kèm theo để đảm bảo tính bền vững cho đối tượng nuôi này.

Để hạn chế dịch bệnh, ngành Thủy sản đã nhân rộng mô hình tổ cộng đồng ở các địa phương xung quanh Đầm Nại. Thế nhưng, ở vùng nuôi trên cát với đặc thù là những ao nuôi biệt lập, hệ thống cấp và thoát nước được đầu tư riêng biệt, thì việc hình thành tổ cộng đồng không dễ thực hiện. Tuy nhiên trước yêu cầu giữ gìn môi trường nuôi bền vững và có hệ số an toàn cao khi chuyển sang nuôi tôm chân trắng thì việc hình thành nên những tổ cộng đồng là vấn đề cấp thiết hiện nay mà ngành Thủy sản cầm sớm có giải pháp để thực hiện.

Đối tượng chuyển đổi đã được xác định là tôm thẻ chân trắng nhưng để phát triển theo hướng bền vững thì cần thực hiện đồng bộ những giải pháp kèm theo. Người nuôi phải chú trọng việc chọn giống và quản lý tốt môi trường nuôi, hạn chế sử dụng các loại hoá chất có tác động xấu đến môi trường. Ngành Thủy sản và chính quyền các địa phương cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế hạ tầng phục vụ cho nuôi tôm, đồng thời nhanh chống xây dựng các tổ nuôi tôm cộng đồng để nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân trong việc bảo vệ môi trường chung.

Theo Đài TH Ninh Thuận

 


Xuất khẩu tôm sang Nhật, thị trường đang... khép

Nguồn tin: NLĐ, 1/11/2006
Ngày cập nhật: 2/11/2006

 


Làm giàu trên đồng Chó Ngáp

Nguồn tin: VTV, 31/10/2006
Ngày cập nhật: 2/11/2006

Đồng Chó Ngáp trên địa bàn tỉnh Cà Mau được biết đến là vùng đất hoang hoá, sản xuất nông nghiệp khó khăn. Trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt ấy, ông Biện Văn Nhu, nông dân xã Tân Phú, huyện Thới Bình vẫn nỗ lực bám đất, vươn lên làm giàu. Từ 2 bàn tay trắng, sau 25 năm lam lũ, chí thú làm ăn, ông đã trở thành triệu phú đầu tiên giữa đồng bưng phèn mặn.

Một ngôi nhà kiên cố, khang trang mọc lên giữa vùng đồng năn đã là điều lạ, càng đáng nói hơn khi trước năm 1982, chủ nhân của nó không có một mảnh đất cắm dùi.

Trải qua 25 năm lăn lộn chốn đồng bưng, với bao nỗi khó khăn, chật vật, ở tuổi 49, người nông dân Biện Văn Nhu đã có trong tay số tài sản trị giá hàng tỉ đồng. Ông Nhu cho biết: "Thời gian đầu về lập nghiệp, điều kiện sống rất khó khăn. Không có đất, gia đình tôi phải giăng câu giăng lưới kiếm sống, khai phá đất hoang để sản xuất...".

Sự nghiệp của ông khởi sắc từ năm 1992 khi bắt tay vào nuôi tôm sú trên phần đất được ông cố công khai phá khoảng 2 ha, cộng với số vốn sau hơn 10 năm tích lũy chỉ vẻn vẹn 4 triệu đồng để mua tôm giống. Đất không phụ lòng người, ngay vụ nuôi đầu tiên, trừ xong chi phí, ông thu lời hơn 25 triệu đồng.

Từ vuông nuôi tự nhiên, những năm sau đó, ông chuyển sang dạng nuôi quảng canh, thâm canh cải tiến, lợi nhuận cứ thế tăng dần, suốt hơn 10 năm nay, con tôm cho ông nguồn thu mỗi năm trên 100 triệu đồng.

Năm 1997, ông xây được nhà và cơ ngơi của gia đình cũng được mở rộng, đầu tư có chiều sâu hơn. Chẳng những lập được trại tôm giống trị giá hơn 200 triệu đồng, ông còn đầu tư xây rào bao quanh diện tích để nuôi cá sấu cùng nhiều loại thuỷ sản khác. Không chỉ làm giàu cho bản thân, ông còn tích cực hưởng ứng chủ trương của địa phương, xây dựng mô hình thí điểm, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho bà con nông dân.

Làm giàu từ 2 bàn tay trắng đối với nông dân xưa nay không phải chuyện hiếm, nhưng vươn lên trở thành triệu phú ngay trên Đồng Chó Ngáp như ông Nhu là một điển hình đáng được biểu dương. Có nhân rộng nhiều điển hình như thế, chủ trương khai hoang, phục hoá, biến tấc đất trở thành tấc vàng mới mau chóng trở thành hiện thực, tạo chuyển biến tích cực trong đời sống người dân vùng đồng bưng nghèo khó.

Tiến Triển


Nhật ký xuyên Việt: Truy tìm con cá tiến vua

Nguồn tin: SGTT, 31/10/2006
Ngày cập nhật: 1/11/2006

Ngày xưa, thời còn các vua chúa, vị quan nào được bổ đến trấn nhậm vùng Phú Thọ xem như một may mắn vì có món đặc sản để tiến vua mà không sợ “đụng hàng”, bởi khắp cả nước Việt không đâu có, đó là con cá anh vũ. Mặt mũi con cá anh vũ ra sao? Cả đoàn chúng tôi chưa ai một lần thấy.

Tỷ phú cá

Sau một ngày “nghỉ dưỡng” tại Hà Nội, sáng nay (30.10) đoàn tiếp tục khởi hành chặng cuối lên miền trung du Bắc bộ: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên. Mục tiêu chính của chặng cuối này là vùng trà có sản lượng nhiều nhất, qui mô sản xuất công nghiệp lớn nhất và cũng nổi tiếng nhất nước. Mục tiêu thứ hai là con cá anh vũ.

Trước khi rời Hà Nội, anh em bịn rịn chia tay với nhà văn Nguyễn Khải và nhà báo Đoàn Đạt. Sau năm ngày hành quân cùng đoàn, lão nhà văn phấn chấn lên tinh thần, lúc nào trong tay cũng có cuốn sổ ghi chép, nhưng đôi chân của ông không chịu phục tùng ý chí của ông, càng lúc càng sưng to lên. Đoàn Đạt, người chưa vắng mặt ngày nào trong suốt cuộc hành trình, cũng đành bỏ dở chặng cuối vì cần phải hộ tống nhà văn Nguyễn Khải bay về Sài Gòn. TS Nguyễn Quang A và kịch sĩ Trần Tiến cũng “dừng bước giang hồ” vì công việc riêng.

Để truy tìm con cá anh vũ, ông Phạm Chuyên điềm chỉ cho Nguyễn Duy khi lên Vĩnh Yên nên tìm gặp một người được mệnh danh là vua cá, vì ông đã trở thành tỷ phú nhờ kinh doanh nhà hàng chuyên các món ăn những loài cá đặc sản của sông Hồng, từ cá chiên, cá lăng đến cá anh vũ, đó là ông Nguyễn Văn Phiến.

Đến thị xã Vĩnh Yên, xe rẽ vào một nơi bên bờ hồ Bảo Sơn, một hồ nước lớn rất đẹp, thuộc phân nhánh của đầm Vạt. Ra mở cổng đón chúng tôi vào khu vườn với hàng trăm chậu cây cảnh đủ cỡ, đủ kiểu là một anh dáng dấp nông dân ngoài năm mươi, chân đất, tay còn lấm bùn, đội nón lá. Cứ ngỡ một người lao công làm vườn, hóa ra là nhà tỷ phú. Đây là cơ sở hai của ông Phiến. Ông đang tập trung cật lực để sang tháng 3.2007 sẽ khai trương nơi này một nhà hàng nữa, đồng thời, quan trọng hơn, ông ôm ấp ý định sẽ biến nơi đây thành một bảo tàng sinh vật cảnh tư nhân.

Con đường đã biến người thợ mộc trôi dạt từ Thái Bình lên trung du làm công nhân cho công ty xây dựng Việt Trì thành ra nhà tỷ phú này là một câu chuyện ly kỳ. Đó là vào năm 1990, sau khi sinh con thứ 3, vợ ông, cũng là một công nhân xây dựng, phải thôi việc để lo chăm sóc con cái. Bà mở một quán cháo lòng tại nhà, bên bến sông ngoại ô thành phố Việt Trì. Mỗi sáng ở bến sông này thường tụ tập những thuyền chài về bán cá. Một ngày kia ông Phiến chợt nghĩ tại sao lại không chế biến những món ăn từ nguồn cá sẵn có này để bán cho khách, vì trước nhà ông là con đường cái quan từ Hà Nội đi Lào Cai và các tỉnh miền núi tây bắc. Cũng chẳng phải nghiên cứu chế tác ra món gì mới, chỉ theo cách dân gian xưa nay vẫn làm với từng loại cá theo kiểu nhà quê. Không ngờ từ đó quán ông khách đông không dứt. Để bây giờ, ông có thể bỏ ra cả hai chục tỷ bạc cho vườn cây cảnh và chuẩn bị cho đứa con út đi du học Singapore. Và để ghi nhớ kỷ niệm khởi nghiệp này, nhà hàng đồ sộ 3 tầng của ông vẫn mang tên quán Cá Bờ Sông.

Hơn 15 năm làm ăn từ con cá, ông Phiến xác nhận rằng con cá anh vũ chỉ có ở một nơi duy nhất trên sông Hồng, đó là tại ngã ba Bạch Hạt, nơi sông Lô đổ vào sông Thao. Sông Thao chính là đoạn trên của sông Hồng. Cá anh vũ gần giống cá chép, nhưng có hai đặc điểm khác cơ bản là miệng cá nằm sâu dưới mõm về phía bụng, môi rất dày. Đặc điểm khác lạ thứ hai là ngoài lớp vẩy có một màng mỏng trong suốt bao bọc toàn thân cá, nên dùng tay bóc vảy cá theo cách thông thường là không thể. Sở dĩ con cá anh vũ có cặp môi dày là vì ở ngã ba sông này nước đổ rất xiết, trong khi loài cá này chỉ sống bằng thứ thức ăn duy nhất là rong mọc trên đá, nên để không bị nước xô trôi đi, nó phải dùng miệng bám chặt vào rong đá trong khi ăn. Con cá anh vũ lớn nhất mà nhà hàng ông Phiến mua được là hơn 3 kg, còn trung bình chỉ trên dưới 1 kg. Dân chài vùng này thường bắt được nhiều cá anh vũ nhất là vào mùa rét. Vào mùa này rong đá thường không phát triển. Khi đó, con cá vì hết thức ăn trong những hang hóc, phải bơi ra ngoài tìm mồi. Duy nhất cách bắt cá anh vũ là đánh cụp. Cụp là một loại bẫy rọ thả ngầm xuống tận đáy sông, không cần phải có mồi. Cũng chỉ có một cách chế biến cá anh vũ ngon nhất, đó là hấp, không cần gia vị vì sẽ làm mất mùi thơm tự nhiên rất ngon của cá. Khi hấp, con cá chỉ cần mổ bụng để bỏ đi mật vì rất đắng. Vi, vẩy cá đều mềm và giòn, ruột cá nhỏ như sợi chỉ kéo dài ra đến vài mét và ăn cũng rất ngon. Giá cá anh vũ dao động từ 500.000 đến 700.000 đồng/kg. Dù đắt là thế, nhưng nhà hàng ông Phiến chưa khi nào rọng được con cá anh vũ quá 2 ngày.

Và cũng vì thế, buổi trưa hôm nay, dù được ông Phiến dẫn về tận nhà hàng trên Việt Trì cách Vĩnh Yên trên 20 km để chiêu đãi cho đoàn bữa ăn toàn cá ngon, nhưng cũng chỉ là con cá lăng. Chúng tôi đành phải tự an ủi mình bằng cách nhìn con cá anh vũ trên ảnh mà nhà hàng ông Phiến còn lưu giữ.

Nguyễn Trọng Tín

 


Sở Thủy sản An Giang: Mở khóa đào tạo giảng viên nuôi cá tra, ba sa theo tiêu chuẩn Eurep Gap

Nguồn tin: AG, 30/10/2006
Ngày cập nhật: 1/11/2006

Sở Thủy sản An Giang phối hợp Chương trình Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa GTZ An Giang vừa mở khóa đào tạo, tập huấn nuôi cá tra, basa theo tiêu chuẩn Eurep Gap cho cán bộ khuyến nông, khuyến ngư thuộc các địa phương trong tỉnh và một số đơn vị, doanh nghiệp xuất khẩu thực phẩm trong và ngoài tỉnh.

Khóa học do ông Erwin R. Roetert Steenbruggen, người Hà Lan, chuyên gia của Eurep Gap là giảng viên chính. Chương trình học bao gồm các chuyên đề liên quan đến các tiêu chuẩn của Eurep Gap từ xây dựng lưu đồ chuỗi giá trị cá ba sa giai đoạn sinh sản cho đến giai đoạn bán sản phẩm ra thị trường, các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm trên nền HACCP, nhận diện các rủi ro trong chuỗi giá trị, các vấn đề về môi trường, phúc lợi xã hội cho người lao động.

Chương trình học gồm phần lý thuyết và khảo sát thực tế các vùng nuôi. Học viên sau khóa học trở về địa phương sẽ tiếp tục phổ biến cho người nuôi, nhằm đạt được các yêu cầu của thị trường, nhất là thị trường Châu Âu.

T.N

 


Cà Mau: Tổng sản lượng khai thác ngành thủy sản ước đạt gần 230.000 tấn

Nguồn tin: Cà Mau RTV, 31/10/2006
Ngày cập nhật: 1/11/2006


An Giang: Giá cá tra nguyên liệu chựng lại

Nguồn tin: AG, 30/10/2006
Ngày cập nhật: 1/11/2006

 


Tiền Giang: Sản xuất thành công 12.000 con giống cá thác lác

Nguồn tin: Tiền Giang, 31/10/2006
Ngày cập nhật: 1/11/2006

Trung tâm Khuyến ngư Tiền Giang đã sản xuất thành công 12.000 con giống cá thác lác nhân tạo. Đây là kết quả của Đề tài “Nghiên cứu sản xuất nhân tạo giống cá thác lác” do kỹ sư Phan Hữu Hội, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư làm chủ nhiệm.

Đề tài đã tiến hành nghiên cứu sản xuất nhân tạo giống cá thác lác theo phương pháp kích dục tố bằng cách bơm thuốc HCG và LRH; theo dõi tỉ lệ cá đẻ; nghiên cứu tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ nở của trứng cá thác lác và ương cá thác lác giống. Thời gian thực hiện đề tài từ nay đến năm 2008. Tổng kinh phí 98 triệu đồng, từ nguồn vốn ngân sách sự nghiệp khoa học.

Theo kỹ sư Phan Hữu Hội, hiện nhu cầu giống cá thác lác của nông dân các tỉnh ĐBSCL rất lớn, bởi đây là loại cá có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, gần đây nguồn cá giống ngoài tự nhiên ngày càng cạn kiệt, không đủ con giống để đáp ứng nhu cầu nuôi hiện nay. Hiện giá cá thác lác thương phẩm dao động từ 40.000 - 60.000 đồng/kg. Ngoài ra, Trung tâm Khuyến ngư tỉnh còn nghiên cứu lai tạo thành công cá cơm và cá thác lác, với số lượng 1.200 cá thác lác lai.

(Báo Ấp Bắc)

Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang