• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

ĐBSCL: Cá tra, ba sa tăng lên 13.000đ/kg

Nguồn tin: SGGP, 8/09/2006
Ngày cập nhật: 9/9/2006

 


Giá cá tra nguyên liệu tăng thêm 300-400 đồng/kg; Cá nuôi trên ruộng đang có giá cao

Nguồn tin: BCT, 8/9/2006
Ngày cập nhật: 9/9/2006

Trong những ngày qua, giá cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL tiếp tục tăng từ 200-400 đồng/kg tùy theo loại và đường vận chuyển. Cụ thể, tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp cá tra thịt trắng nuôi hầm được các doanh nghiệp mua vào với giá 12.400 - 12.600 đồng/kg, tăng 400 đồng/kg so với 10 ngày trước; cá tra thịt trắng nuôi bè: 11.200 - 11.500 đồng/kg, tăng khoảng 300 đồng/kg; cá tra thịt vàng: 10.200 - 10.500 đồng/kg, tăng 300-400 đồng/kg. Giá cá tra tăng trở lại làm nhiều người nuôi bắt đầu có tâm lý giữ cá để chờ giá. Tình trạng này đã gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp tại An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng khi thương lượng mua cá với nông dân.

* Hiện nay, ở các huyện đầu nguồn Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ (Cần Thơ)... giá các loại cá nuôi trên ruộng như: cá mè trắng, cá chép đang ở mức cao: 17.000 -20.000 đồng/kg, tăng 5.000-8.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. Đây là lứa cá được nông dân nuôi xen canh trong vụ lúa hè thu, thu đông theo mô hình luân canh 2 lúa - 1 cá.

Nhiều người nuôi cá ở các huyện này cho biết: nuôi cá xen canh trên đồng ruộng thu được lợi nhuận khá cao, sau khi trừ chi phí đầu tư trên 10.000 đồng/kg. Nhiều nông dân tiếp tục mở rộng mô hình này trong những vụ kế tiếp.

BÌNH NGUYÊN - H.V

 


Nghệ An: Đầu tư hơn 6 tỷ đồng sản xuất giống thuỷ sản

Nguồn tin: NNVN, 7/9/2006
Ngày cập nhật: 9/9/2006

Bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, đến nay tỉnh Nghệ An đã đầu tư trên 6 tỷ đồng cho việc sản xuất giống thuỷ sản.

Trong đó đầu tư 3,5 tỷ đồng nâng cấp, xây dựng 7 trại cá giống cấp 2 và 3 tỷ đồng nâng cấp 4 trại cá giống cấp 1. Tỉnh đã lấy huyện Quỳnh Lưu là huyện điểm và là trung tâm cung cấp, sản xuất giống thuỷ sản khu vực Bắc Trung bộ.

NGUYỄN PHÊ

 


ĐBSCL: Khan hiếm cá tra, ba sa nguyên liệu

Nguồn tin: LĐ, 8/9/2006
Ngày cập nhật: 8/9/2006

Do đang vào cuối vụ thu hoạch nên khoảng 3 ngày qua, giá cá tra, ba sa nguyên liệu ở các tỉnh ĐBSCL đã tăng vượt qua ngưỡng 12.500đ/kg, nhưng rất khó mua được vì nhiều ngư dân cố tình giữ cá để nâng giá, trong khi một số nhà máy đang thiếu nguyên liệu chế biến. Trước tình hình này, nhiều nhà máy chế biến cá tra, ba sa xuất khẩu ở các tỉnh đổ xô về An Giang, Đồng Tháp tranh mua cá nguyên liệu.

L.T

 


ĐBSCL: giá tôm sú tăng trở lại

Nguồn tin: TT, 08/09/2006
Ngày cập nhật: 8/9/2006

Nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu ở các tỉnh khu vực ĐBSCL gần đây đã ký được hợp đồng xuất khẩu tôm đông lạnh sang thị trường Mỹ, Nhật và một số nước châu Âu. Nhờ đó tôm nguyên liệu đang trở nên hút hàng. Theo đó, giá tôm sú cũng đã tăng thêm 5-7% so với tháng trước.

Hiện loại 20 con/kg được một số doanh nghiệp mua với giá 155.000-160.000 đồng/kg; loại 30 con/kg dao động từ 107.000-112.000 đồng/kg.

NGỌC DIỆN

 


Nghề nuôi cá sấu ở Sóc Trăng: Đầu ra bấp bênh...

Nguồn tin: CT, 8/9/2006
Ngày cập nhật: 8/9/2006

Từ chỗ chỉ một vài hộ nuôi mang tính tiêu khiển vào năm 2001, phong trào nuôi cá sấu ở Sóc Trăng đã phát triển mạnh với hàng ngàn con vào những năm sau đó nhờ giá cá sấu thương phẩm khá cao. Tuy nhiên, theo ông Trần Trọng Khiêm, Đội trưởng Đội kiểm lâm cơ động Chi cục Kiểm lâm Sóc Trăng, hiện nay ngành không khuyến cáo việc mở rộng mô hình nuôi động vật hoang dã này. Lý do không nằm ở góc độ chuyên môn mà lại ở góc độ kinh tế.

Trong xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp chung của Sóc Trăng, bên cạnh những mô hình đã được ngành chức năng hướng dẫn, người dân trong tỉnh còn nhạy bén tìm ra cho mình những mô hình mới có hiệu quả. Trong đó, mô hình nuôi ba ba, gấu lấy mật, trăn, rắn, cá sấu, đà điểu... bước đầu đã được hình thành và mang lại hiệu quả kinh tế cho người nuôi. Riêng mô hình nuôi cá sấu có tốc độ phát triển khá nhanh, dù vốn đầu tư để thực hiện là không nhỏ. Tuy nhiên, sau vài năm phát triển mạnh, hiện nay phong trào này đang có bước chững lại do thiếu sự ổn định về đầu ra.

“Đầu ra của cá sấu rất bấp bênh, nhất là thời gian gần đây giá cá sấu giảm mạnh, nên việc mở rộng nuôi đối tượng này sẽ không hiệu quả so với các đối tượng khác” - Ông Trần Trọng Khiêm mở đầu câu chuyện với chúng tôi bằng một thông tin không mấy lạc quan. Trước đây, giá cá sấu luôn ở mức trên 100.000 đồng/kg, riêng cá sấu loại 8-15kg/con có lúc lên đến 180.000 đ/kg. Còn hiện nay giá cá sấu loại 8-15kg/con cao nhất hiện cũng không đến 100.000 đồng/kg và loại lớn hơn chỉ từ 70.000-80.000 đồng/kg. Trong khi đó, chi phí cho một con giống (loại nhỏ) đã vào khoảng 300.000-350.000 đồng và sau 1 đến 1,5 năm, cá sấu mới đạt trọng lượng 10-15kg/con (có thể lên đến trên 20 kg/con nếu điều kiện chăm sóc tốt). Với mức giá như trên, nếu đảm bảo được lượng hao hụt thấp, tận dụng thêm nhiều nguồn thức ăn theo dạng quy trình khép kín, thì người nuôi mới đảm bảo được mức lãi. Phần lớn người nuôi xuất bán cá sấu cho thị trường TPHCM. Một số hộ nuôi có hợp đồng mua con giống kèm theo tiêu thụ sản phẩm, nhưng do số hộ nuôi cá sấu vài năm gần đây không ngừng tăng, nên thị trường tiêu thụ thường không ổn định về giá cả và cũng khó bán hơn trước.

Để đối phó với những biến động của thị trường tiêu thụ, nhiều hộ nuôi đã xây dựng các mô hình nuôi kết hợp khá hiệu quả. Tại phường 4- thị xã Sóc Trăng có mô hình nuôi cá sấu khép kín của anh Lâm Hoàng Long vừa đảm bảo hiệu quả vừa hạn chế được ô nhiễm môi trường, giúp cá tăng trọng nhanh và giảm chi phí giá thành nuôi. 300 con cá sấu được anh thả trên diện tích hơn 3.500 m2 và 10.000m2 còn lại thả nuôi các loại cá như: cá mè, rô phi… Mục đích của việc nuôi cá là để chúng xử lý lượng phân thải từ đàn cá sấu thải xuống ao nuôi và khi cá lớn lại là nguồn thức ăn trở lại cho đàn cá sấu. Dù vậy, với thời giá như hiện nay, thì mức lãi của mô hình khép kín này cũng không phải là cao lắm. Còn tại phường 8, thị xã Sóc Trăng, trang trại của anh Trịnh Viết Tuấn cũng thả nuôi 200 con cá sấu Hoa cà, đến nay đã gần 2 năm, trọng lượng bình quân 30kg/con. Đây là một trang trại chăn nuôi tổng hợp, trong đó cá sấu chỉ là một đối tượng nuôi mang tính tận dụng nhiều hơn là kinh tế. Anh Tuấn cho biết cuối năm 2005, giá cá sấu là 120.000 đồng/kg, nhưng anh chưa bán, mà còn chờ giá lên. Đến nay, giá đã không lên còn cá sấu thì ngày một lớn thêm. Tuy nhiên, do đây không phải là đối tượng nuôi chính, nên không ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả của trang trại.

Mô hình nuôi cá sấu phát triển mạnh một phần do giá tiêu thụ trước đây cao, phần khác vì đây là đối tượng dễ nuôi, điều kiện chăm sóc không mấy phức tạp. Hiện nay, toàn tỉnh Sóc Trăng có khoảng 43 cơ sở gây nuôi cá sấu với tổng đàn khoảng 5.000-6.000 con, tập trung nhiều ở các các huyện Thạnh Trị, Ngã Năm, Mỹ Xuyên, Long Phú và thị xã Sóc Trăng với qui mô từ 30-50 con/trang trại, nhưng cũng có một số trang trại qui mô lên đến 300-600 con. Thạnh Trị là địa bàn có số cơ sở nuôi cá sấu nhiều nhất, với 15 cơ sở, kế đến là thị xã Sóc Trăng với 7 cơ sở. Do giá trị của cá sấu chủ yếu là ở phần da, nên không ít người lầm tưởng cá sấu càng lớn sẽ càng có giá trị vì có bộ da dày và lớn. Tuy nhiên, theo ông Khiêm, da cá sấu càng lớn, việc thuộc da càng khó và sản phẩm không được mịn, đẹp như cá sấu cỡ 8-15kg/con. Mặt khác, thịt cá sấu lớn cũng không có giá bằng thịt cá sấu cỡ 8-15kg/con. Cá sấu tuy dễ nuôi, nhưng không phải là không có hao hụt do dịch bệnh và sổng chuồng. Việc để sổng chuồng cá sấu là rất nguy hiểm cho cộng đồng, nên khi kiểm tra đạt yêu cầu về chuồng trại, Chi cục Kiểm lâm mới cấp giấy phép cho hộ nuôi. Về dịch bệnh, chủ yếu trên cá sấu có 2 loại là bệnh còi và bệnh đường ruột ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của chúng.

Nghề nuôi cá sấu khá nhàn nhã nên có rất nhiều người thích đầu tư nuôi. Trở ngại lớn nhất của mô hình này hiện không còn là con giống như trước mà chính ở khâu tiêu thụ. Nhiều chủ nuôi cá sấu hiện vẫn còn giữ đàn số lượng khá lớn, song chưa thể bán được vì giá thấp. Chưa ai biết giá cá sấu bao giờ sẽ tăng trở lại, nên người nuôi vẫn tiếp tục chờ đợi và hy vọng giá cá sấu sẽ lại lên như những năm trước. Và như thế, lời khuyên không nên phát triển mạnh mô hình nuôi cá sấu từ phía Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sóc Trăng là hoàn toàn có cơ sở, nhằm hạn chế mức độ thiệt hại cho người nuôi.

Xuân Trường

 


An Giang mùa nước nổi

Nguồn tin: KTSG, 7/9/2006
Ngày cập nhật: 8/9/2006

Bà Nguyễn Thị Huấn và cháu gái đang mò bắt ốc trên cánh đồng Nhơn Hội Mùa này, trên sông Tiền, sông Hậu, nước đã cuộn tràn tuôn chảy, ngầu đục phù sa. Ở An Giang, nhiều nông dân đang mừng rỡ đón “lũ”...

Cánh đồng Nhơn Hội (huyện An Phú) như một biển nước! Nước tràn đồng, ngập lấp xấp những rặng cây, chờ chực tràn lên con đường nhỏ cạnh bờ sông Bắc Đai. Đó đây chỉ còn nhấp nhô những cây tre nho nhỏ của những cái dớn bắt cá mà nông dân dựng vào đầu mùa nước.

Trưa nắng chói chang, nhưng bà Nguyễn Thị Huấn với mái tóc bạc phơ, khuôn mặt hom hem cùng đứa cháu gái khoảng tám tuổi vẫn lặn ngụp giữa cánh đồng. Từ sáng sớm, cả hai bà cháu đã dầm mình trong nước, mò bắt từng con ốc bươu vàng. “Khoảng 1-2 giờ chiều tui mới về nhà. Hổm rày nhờ chưa tựu trường nên đứa cháu nội mới đi theo phụ tui được. Mỗi ngày “gom” được 20-30 ký ốc, dư tiền mua gạo”. Cả hai bà cháu đều gầy quắt queo. Con cái đâu mà bà phải khổ? “Nhà nghèo, bốn đứa con cũng hổng khá giả gì nên đã gần 70 tuổi cũng phải ráng làm”, bà vừa phân bua vừa cười vì thau ốc cứ đầy dần, nhưng nụ cười méo xệch, run run. Cũng phải, bên dưới là dòng nước lạnh ngắt, còn trên đầu là mặt trời đổ lửa. Nhưng như vậy cũng là may. Bởi với sức vóc và tuổi tác của bà, đi làm thuê làm mướn ai dám kêu? May mà còn mùa nước nổi, còn những cánh đồng chưa bị bao đê, còn con ốc bươu vàng dù chỉ được mấy chủ bè cá mua với giá... 500 đồng/ký!

Cách đó không xa, gần hết gia đình chị Nguyễn Thị Huyền đã có mặt trên đồng. Ngay cả chồng chị, dù bị tật chỉ còn một cánh tay cũng cố níu kéo bủa nước, bắt ốc. “Hổng có đất! Mùa khô thì đi cắt lúa mướn, làm cỏ. Bữa nào không ai mướn thì vay gạo nấu. Còn mùa nước thì công ăn việc làm đều đều, bắt ốc cũng kiếm được 25.000-30.000 đồng mỗi ngày”, chị có vẻ thích mùa nước nổi.

Nhà chị Huyền, bà Huấn ở ấp I, xã Nhơn Hội - bên kia sông, nhưng bên đó cũng là vùng đê bao khép kín nên dù năm nay được xả lũ, cũng không có nhiều ốc, cá. Vì vậy, mọi người đều “tràn” vào vùng ngập lũ tự nhiên để mưu sinh. Còn có một lý do khác là cánh đồng này trước giờ đã thực sự sống chung với lũ. Khi nước tràn về cũng là lúc chủ ruộng tạm bỏ đất, phó mặc... nước và những người nghèo muốn làm gì thì làm. Mấy chục cái dớn rải rác trên đồng cũng là của người nơi khác tới. Cứ trên 200.000 đồng cho cái dớn, cộng thêm gần một triệu đồng để cắm tre, giăng trên một cây số lưới là nông dân tha hồ bắt cá. Chim trời, cá nước, ai bắt được nấy ăn - tất nhiên là chỉ trong mùa nước nổi.

Tiến sĩ Dương Văn Ni, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm đa dạng sinh học Hòa An (Đại học Cần Thơ) từng dẫn chứng chuyện này khi nói về tác hại của đê bao khép kín. Ông kể, trong dân gian, trước đây hình thành lệ sở hữu tài nguyên thiên nhiên từng phần. Tức là, cũng trên mảnh ruộng đó, khi lũ chưa về thì toàn bộ nguồn lợi thiên nhiên như rau, củ, thủy sản... thuộc về người sở hữu mảnh ruộng. Nhưng khi lũ tràn đồng, ai bắt được gì cứ bắt. Nay đê bao khép kín, khiến người không có đất, người nghèo bị mất đi quyền hưởng lợi chung vào mùa lũ... khi mà chủ đất vẫn ung dung trồng lúa, trồng màu... Và nguồn lợi thiên nhiên cạn dần vì thiếu lũ, dư phân bón, thuốc trừ sâu.

Chiều hôm trước, khi chúng tôi đến một cánh đồng nằm trong vùng đê bao khép kín của huyện Tân Châu, một cán bộ xã cho biết gần đây người dân phải mua cá từ... Campuchia chở về vì cánh đồng làm lúa ba vụ thì còn gì là cá! Mà làm lúa từ một vụ/năm, rồi tới ba vụ/năm, nông dân cũng chẳng khá hơn. Chỉ biết, giờ họ phải tốn thêm tiền để mua cá, dù trước đây chúng đầy rẫy trên đất của họ. Ở sát thị trấn Tân Châu, chúng tôi gặp một cậu bé mặt cứ đăm đăm, trên vai chất đầy những cái lợp nhỏ đặt ếch. Cậu than rằng, cong lưng “làm mồi” đặt mấy chục cái lợp mà mỗi đêm chỉ bắt được cao nhất là một ký ếch. Cũng phải, năm nay là năm đầu tiên lũ mới được xả vào vùng đê bao khép kín này mà!

An Giang đang có tới 335 tiểu vùng có đê bao, trong đó có 232 tiểu vùng có đê bao kiểm soát lũ triệt để với trên 90.500 héc ta trồng lúa vụ ba. Bây giờ, mùa nước nổi, người ta đổ xô vào vùng lũ tự nhiên hiếm hoi sót lại như tại cánh đồng này để kiếm sống. Ghe lớn, xuồng nhỏ, người lội nước, kẻ kéo lưới... lao xao. Ven bờ, rải rác những cái ụ nhỏ bằng lục bình, bên dưới đặt trùn để “dụ” lươn. Mỗi đêm, người ta có thể bắt được vài con lươn từ một cái ụ như vậy.

Còn ông Lê Văn Thấy, ở xã Nhơn Hội, đang hăm hở lo cho hai cái ao nuôi cá. Ông kể, mùa nước năm rồi, ông thu lãi gần 20 triệu đồng. “Mùa nước, mồi cho cá ăn là ốc bươu vàng, cá linh rất rẻ nên nuôi mới có lãi cao”, ông nói. Trên căn sàn “dã chiến” nho nhỏ nằm cặp sông Bắc Đai, một nhóm thanh niên đang nhâm nhi với đặc sản mùa nước nổi: cá linh. Anh Nguyễn Văn Lực cho biết anh làm thuê cho chủ mấy chiếc đáy đặt ở giữa sông. “Ngày nào trúng, đổ đáy được vài trăm ký cá là chuyện thường. Còn thất, cũng được chừng vài chục ký”, anh kể. Cứ tính giá bình quân một ký cá là 3.000 đồng, mới thấy nguồn lợi nhờ lũ của ông chủ đáy là không nhỏ. “Bởi vậy, đấu thầu có mấy cái đáy này chỉ trong mùa nước nổi mà gần cả trăm triệu đồng đó”, anh Nguyễn Văn Ngọt, cũng là người làm thuê cho chủ đáy, chen lời. “Ai sợ lũ, chứ tụi tui thì... khoái lũ. Chỉ làm mướn mỗi tháng cũng kiếm được 700.000-800.000 đồng, cá thì thoải mái ăn”, anh Lực nói chắc như đinh đóng cột. Anh nói, bên Campuchia, trong mùa lũ người ta chia đất thành từng lô để đấu thầu khai thác cá. Một lô vài chục héc ta, chỉ khai thác cá trong mùa nước nhưng phải trả trên 100 lượng vàng cho một lô. Dĩ nhiên, chẳng ai dại bỏ ra số tiền lớn như vậy nếu sản vật mùa lũ không giúp họ thu lời.

Hồi chưa có đê bao, mùa nước nổi cũng không cản được mấy cái đám cưới cứ diễn ra rôm rả. Anh Lực kể rằng, mùa nước mấy năm trước anh từng qua xã Phú Hội ở bên cạnh để dự đám cưới đãi khoảng 15 mâm. “Đâu có gì khó. Cứ cất sàn, lót tre để bắt mâm. Có nơi gom mấy chục chiếc ghe, xuồng lại làm phao, trên lót ván, dựng rạp và cứ thế, vui tưng bừng”, anh nói.

Ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, vốn rất “dị ứng” khi ai đó nói đến từ “lũ” ở An Giang. Theo ông, đó là mùa nước nổi, là mùa sinh nhai của nhiều nông dân. Theo báo cáo của Chương trình khai thác lợi thế mùa nước nổi giai đoạn 2006-2010 của UBND tỉnh An Giang, trong bốn năm vừa qua, tổng giá trị sản xuất từ việc khai thác lợi thế mùa nước nổi của An Giang đạt trên 5.700 tỉ đồng, giải quyết việc làm cho bình quân 1.050 lao động và hàng trăm ngàn lao động thời vụ mỗi năm.

Nguồn lợi từ mùa nước nổi như thế nhưng dường như tâm lý sợ “lũ” vẫn đeo đẳng nhiều người! Trong chuyến đi này, chúng tôi đã liên hệ với lãnh đạo ba xã ở huyện Tân Châu và huyện An Phú để nhờ giới thiệu nghỉ một đêm tại căn nhà nào đó giữa đồng, ngập tràn giữa bốn bề là nước để có cảm giác sống chung với lũ. Nhưng kết quả là chỉ nhận được những cái lắc đầu hoặc được dẫn đến những căn nhà sàn nằm vững vàng...trên bờ đê. Cái cảnh ngồi nhà sàn, ngâm chân trong nước lũ, phanh ngực hứng gió, giựt câu mỏi cả tay... thôi thì nhớ tạm bằng phim, ảnh.

Hồ Hùng

 


Nuôi tôm càng xanh liền canh - liền cư

Nguồn tin: BT, 7/9/2006
Ngày cập nhật: 7/9/2006

Từ việc nuôi tôm càng xanh trong ao mương vườn vùng nước ngọt nhỏ lẻ và tự phát, hiệu quả không cao, năm 2005, Sở thủy sản Bến Tre triển khai dự án nuôi tôm càng xanh liền canh - liền cư tại 2 địa điểm xã Thuận Điền (huyện Giồng Trôm) và xã Phước Hiệp (huyện Mỏ Cày).

Mô hình nuôi tôm càng xanh liền canh - liền cư là nhằm tổ chức lại việc nuôi trồng thủy sản trong cộng đồng, phát triển sản xuất nâng cao thu nhập. Nhà nước hỗ trợ vốn phát triển ban đầu và chuyển giao khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ sản xuất và cung cấp con giống cho nông dân. Ngay khi triển khai dự án, nông dân 2 xã bắt tay vào việc nạo vét ao mương, củng cố đê bao và lưới chắn. Tổ nuôi tôm theo hình thức liền canh - liền cư thường xuyên tổ chức tập huấn hướng dẫn quy trình nuôi và thu tỉa mương tôm, để thu hồi vốn đầu tư sau 18 tháng triển khai. Không những nâng cao hiệu quả về kinh tế, dự án còn hướng dẫn cho nông dân tính cộng đồng cao, cùng nhau phát triển sản xuất, cùng bảo vệ tài sản làm ra, giữ gìn trật tự an ninh xóm ấp. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật cũng được triển khai trong những buổi tập huấn và những cuộc hội thảo đầu bờ. Từ đó chính quyền cơ sở lồng ghép tuyên truyền, triển khai chính sách của Đảng cho người dân. Nhờ đó, việc xây dựng nông thôn mới càng thêm vững mạnh về mọi mặt. Anh Văn Lộc Đỡ ở ấp 5 xã Thuận Điền, trưởng tổ nuôi tôm càng xanh liền canh - liền cư cho biết dự án đã hỗ trợ 40.000 con tôm giống cho 12 hộ, với tổng diện tích mặt nước 17.500m2. Tại xã Phước Hiệp, ấp An Thới, dự án cũng đưa 55.000 con giống trên tổng số mặt nước 18.300m2 cho 21 hộ.

Sau gần một năm, dự án đạt thành công bước đầu, hầu hết các hộ dân tham gia thu tỉa 2 đợt, thu hồi được vốn ban đầu và có lãi, chưa kể số tôm còn lại dưới mương (1/3 số lượng con cho đợt thu hoạch tới). Dự án đang được nhân rộng ra nhiều nơi trong tỉnh Bến Tre, góp phần tạo sức bật mới cho bước chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, giúp nông dân tăng thu nhập, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh nhà.

Dương Thanh Hải

 


Ninh Thuận: Toàn tỉnh thả nuôi 1.005,5 ha tôm thương phẩm

Nguồn tin: NT, 7/9/2006
Ngày cập nhật: 7/9/2006

Năm nay do môi trường đang từng bước được cải thiện nên diện tích tôm thương phẩm thả nuôi trong toàn tỉnh đến nay đạt 1.005,5 ha, tăng gần 3 lần so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, Ninh Phước có 235 ha, Ninh Hải 741,5 ha và Phan Rang - Tháp Chàm 29 ha. Qua thu hoạch diện tích 486,7 ha tôm nuôi bao gồm 450 ha tôm sú và 36,7 ha tôm thẻ chân trắng đã cho sản lượng 1.360,1 tấn (trong đó có 1.127,3 tấn tôm sú). Đặc biệt vụ nuôi năm nay dịch bệnh xuất hiện ít và hầu hết các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng đều lãi 80-120 triệu đồng/ha.

B.T,Báo Ninh Thuận

 


Tái diễn tình trạng khai thác thủy sản trái phép tại đầm Ô Loan

Nguồn tin: PY, 7/9/2006
Ngày cập nhật: 7/9/2006

 


ĐBSCL: Báo động nạn khai thác cá non

Nguồn tin: SGGP, 7/9/2006
Ngày cập nhật: 7/9/2006

Hiện nay, nước lũ từ thượng nguồn đổ về mang theo nhiều loài cá non đầu mùa như cá linh, cá cóc, cá chạch, rô đồng... vào đồng ruộng và sông rạch. Tại các huyện Tam Nông, Thanh Bình, Hồng Ngự (Đồng Tháp), nhiều người ráo riết dùng lưới cước nhỏ như mạng nhện để khai thác cá non theo kiểu hủy diệt.

Nhiều địa phương thờ ơ khi người dân sử dụng loại lưới có kích thước quá nhỏ khai thác cá non, trong khi lực lượng bảo vệ nguồn lợi thủy sản vừa thiếu phương tiện, kinh phí để kiểm tra, nhắc nhở nên tình trạng này diễn ra tràn lan trên vùng lũ.

H.TH.

 


Cảnh báo với thủy triều đỏ

Nguồn tin: BT, 06/9/2006
Ngày cập nhật: 7/9/2006

Trong những năm gần đây, thủy triều đỏ xuất hiện ở vùng biển Bình Thuận và các tỉnh lân cận gây ảnh hưởng cho việc nuôi trồng thủy hải sản trên biển, gần bờ biển của bà con. Đặc biệt thủy triều đỏ còn ảnh hưởng đến môi trường sinh thái gây ảnh hưởng cho ngành du lịch.

Giữa tháng 8/2006, một cán bộ phòng môi trường tin cho tôi thủy triều đỏ xuất hiện ở vùng biển Hàm Thuận Nam, nhưng rất ít nên không ảnh hưởng gì. Trước đó ở Phan Thiết cũng có hiện tượng thủy triều đỏ nhưng quá ít nên chỉ những cán bộ chuyên ngành mới nhận biết. Theo ông Nguyễn Tác An – Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang: thủy triều đỏ hay sự nở hoa của các loài vi tảo biển là một hiện tượng tự nhiên có liên quan đến nhiều yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ mặn và hàm lượng muối dinh dưỡng cũng như các trường khí tượng thủy văn. Mặt khác chất thải từ hoạt động tập trung của con người như nuôi trồng thủy sản, hóa chất... cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến sự hình thành thủy triều đỏ. Qua nghiên cứu ban đầu, các nhà khoa học đã xác nhận có khoảng 300 loài vi tảo biển đã hình thành nở hoa làm thay đổi màu của nước biển từ xanh lục đậm, đỏ cho đến vàng xám, sự đổi màu này được thuật ngữ hóa là thủy triều đỏ. Sự xuất hiện của thủy triều đỏ ở khu vực Bình Thuận hàng năm vào từ tháng 3 đến tháng 8 và có lúc đến tháng 9 khi nhiệt độ ấm lại và cường độ bức xạ cao nhất trong năm. Theo Viện Hải dương học thì từ năm 1999 đến nay thủy triều đỏ đã xuất hiện ở vùng biển Tuy Phong và Phan Thiết. Năm 2002, thủy triều đỏ đã gây hậu quả nặng nề ở ven bờ phía bắc tỉnh ta làm trên 95% khu hệ động – thực vật bị tàn phá, hầu hết các loài tôm hùm, cá mú nuôi bị chết do người dân không kịp di dời các lồng nuôi ra ngoài vùng bị ảnh hưởng. Đáng ngại hơn là do chính quyền, nhân dân địa phương không nắm được thông tin, không am hiểu về thủy triều đỏ nên không có thông báo kịp thời cho các nhà khoa học. Khi các nhà khoa học nhận được tin, tiến hành khảo sát sau sự cố môi trường đã xảy ra nên họ cũng không có biện pháp hữu hiệu để giúp dân. Theo Sở Khoa học và Công nghệ, năm 2004 hiện tượng nở hoa của vi tảo đã xuất hiện kéo dài 20km trong vịnh Phan Thiết. Tháng 4/2003 vi khuẩn lam phát triển mạnh trong vùng bãi tắm du lịch của làng biển Phú Hài, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của cộng đồng dân cư ven làng biển này. Ông Võ Xuân Tùng - Phó trưởng phòng Môi trường (Sở TN-MT), cho biết: “Ở vùng biển Bình Thuận thường xuyên xuất hiện thủy triều đỏ. Trước đây còn ít nhưng nay mật độ xuất hiện nhiều. Khi thủy triều xuất hiện, nước biển có màu nâu đen và hôi. Vào tháng 3, 4 thủy triều xuất hiện không rõ nét nhưng cao trào nhất là vào tháng 8, 9, thủy triều xuất hiện từ vài ngày cho đến nửa tháng, sau đó biển sẽ tự làm sạch...”.

Trước tình hình thủy triều đỏ xuất hiện ở vùng biển Bình Thuận gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái môi trường, nuôi trồng thủy sản và ngành du lịch, các Sở Thủy sản, Khoa học – Công nghệ, Tài nguyên – Môi trường phối hợp với Viện Hải dương học Nha Trang đã xin chủ trương của tỉnh để nghiên cứu nhằm có dự báo kịp thời cho dân, các ngành liên quan để hạn chế tối đa tác hại của thủy triều đỏ...

TRẦN THI

 


Cá Lăng Nha - Đối tượng nuôi mới ở An Giang

Nguồn tin: SNNAG, 03/9/2006
Ngày cập nhật: 6/9/2006

Nghề nuôi thủy sản ở An Giang trong những năm gần đây đã phát triển khá mạnh. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần được quan tâm, nhất là tạo ra con giống mới nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi tại địa phương, góp phần phát triển phong trào nuôi các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao.

Trong các loài cá nước ngọt bản địa có giá trị kinh tế, cá lăng nha (Mystus wyckiioides, Chang và Faux, 1949) là một loài được các nhà nghiên cứu quan tâm vì chúng có kích thước lớn hơn nhiều so với cá lăng vàng, lăng hầm. Thịt thơm ngon, bán được giá cao và có tiềm năng nuôi trồng.

Cá lăng nha có thể nuôi trong ao, bè. Cá thích nghi với môi trường nước ngọt hoặc lợ nhẹ, có pH nước: 7 - 8, nhiệt độ thích hợp nhất là 25 - 270C. Nước luôn được thay đổi nếu nuôi cá trong ao (1 tuần thay nước 1 lần). Vì vậy, nuôi cá trong lồng bè để nước được thay đổi thường xuyên. Cá lăng nha giống có màu xám tro hơi đậm, đến giai đoạn trưởng thành có màu xám tro nhạt, đuôi và vây có màu đỏ. Ngoài tự nhiên, có thể bắt gặp những con cá lăng nha nặng 10 kg. Trong điều kiện nuôi, từ tháng thứ 8 trở đi, cá lăng nha tăng trọng rất nhanh, cá 1 tuổi có trọng lượng khoảng 2 – 2,5kg/con.

Nhằm thực hiện mục tiêu đa dạng hoá giống loài thủy sản và xây dựng mô hình nuôi có hiệu quả kinh tế cao, giữa tháng 7/2006, Trung tâm Nghiên cứu sản xuất giống thủy sản An Giang đã nhận “chuyển giao công nghệ sản xuất giống cá lăng nha” của Khoa Thủy sản Trường Đại Học Nông lâm. Trung tâm đã nhận về 425 kg cá bố mẹ để nuôi vỗ. Cuối tháng 8/2006, Trung tâm đã sản xuất được những con giống đầu tiên, với số lượng là 24.000 con giống.

Cá giống sau 30 ngày ương có chiều dài 4,5 cm, trọng lượng bình quân 600 - 700 con/kg. Lô cá giống sản xuất đợt I đã cung cấp cho một số hội viên của Hiệp hội Nghề nuôi và chế biến thủy sản An Giang nuôi thử nghiệm ở xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú. Với đối tượng nuôi mới này hy vọng An Giang sẽ có thêm một mô hình nuôi thủy sản có hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, Trung tâm tiếp tục cho sinh sản nhân tạo để cung cấp cho nông dân.

Ks. Mai Thị Thanh Giang - Trung tâm Nghiên cứu sản xuất giống thủy sản An Giang

 


Chuyển giao công nghệ nuôi bào ngư

Nguồn tin: SGGP, 06/09/2006
Ngày cập nhật: 6/9/2006

Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 3 (Bộ Thủy sản) vừa giới thiệu chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi bào ngư thương phẩm.

Quy trình công nghệ đơn giản, ít rủi ro, vốn đầu tư không lớn. Có thể nuôi trong bể xi măng hoặc nuôi lồng treo trên bè ở biển. Kích thước bào ngư giống 5-10mm/con, và sau 10-12 tháng cho thu hoạch có kích thước tăng lên 40-50mm/con.

Tỷ lệ sống đạt trên 80%. Bào ngư là loài động vật thân mềm có giá trị kinh tế cao, là thức ăn ưu chuộng của nhiều nước. Vỏ bào ngư làm đồ trang sức, nguyên liệu cấy trai ngọc, làm thuốc. Nội tạng bào ngư dùng để chiết xuất ra keo sử dụng trong phẫu thuật y học…

Tg.L

 


Xuất khẩu thủy sản năm 2006: Triển vọng vượt 2,6 tỷ USD

Nguồn tin: SGGP, 06/09/2006
Ngày cập nhật: 6/9/2006

 


Đôi điều suy nghĩ về cá tra nuôi

Nguồn tin: AG, 5/9/2006
Ngày cập nhật: 6/9/2006

Năm 2005 An Giang là tỉnh có sản lượng nuôi thủy sản nước ngọt cao nhất nước, đạt 180.809 tấn, chiếm 20,3% tổng sản lượng nước ngọt ở đồng bằng sông Cửu Long. Ở góc độ kinh tế với lợi nhuận thu được (tính trên cùng diện tích) từ nuôi cá cao rất nhiều lần so với các ngành sản xuất nông nghiệp khác. Là một trong những nguyên nhân dẫn đến nghề nuôi cá tỉnh An Giang nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung đang phát triển theo hướng thâm canh với “tốc độ phát triển nóng”; nếu như năm 2000 sản lượng cá tra nuôi ở An Giang là 80.000 tấn thì năm 2005 sản lượng này đã hơn 179.000 tấn. Sự bùng nổ về diện tích, sản lượng cá nuôi đang ẩn chứa nhiều bất cập.

*Đã mang lấy nghiệp vào thân:

Các cuộc khảo sát về kinh tế- xã hội gần đây cho kết quả rất đáng lưu ý là hơn 96% các hộ đang nuôi cá tra công nghiệp trả lời ở phần dự kiến tương lai là vẫn tiếp tục nuôi, mặc dù trong phần khó khăn trong sản xuất cũng có hơn 90% câu trả lời ghi ở phần thiếu vốn và khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Có một câu nói “Thương trường là chiến trường” gần như đúng cả ở nghĩa đen và nghĩa bóng trong khâu tiêu thụ sản phẩm cá tra nuôi; có thể nói như vậy bởi vì từ nhiều năm nay, sau mỗi vụ nuôi khi thu hoạch và bán sản phẩm, người sản xuất như một lần ra trận, vì ở đó có tổn thất, thương vong (cá nuôi không bán được hay giá thu mua sụt giảm) và cả niềm hân hoan chiến thắng (trúng mùa được giá).

Với quy luật cung cầu, những người sản xuất cá tra đã nhiều lần trải nghiệm thương đau. Hằng năm cứ vào tháng 10-11 là mùa thu hoạch rộ thì giá cá nguyên liệu thu mua của các nhà máy đông lạnh lại sụt giảm. Chấp nhận thách thức về các điều kiện thời tiết không thuận lợi và những khó khăn kỹ thuật nên nhiều hộ sản xuất đã nuôi rải vụ để tránh thời điểm thu hoạch đông ken (rộ). Nhưng thực tế vụ mùa năm nay (2006) quy luật trên đã không còn tồn tại: Đang giữa vụ nuôi chính, giá cá ở mức 14.000đ/kg (tháng 6) thì tháng 8 chỉ còn trên dưới 10.000đ/kg và hơn nữa người nuôi cá cũng không dễ dàng bán được sản phẩm của mình. Thật bật ngật, ngỡ ngàng ! Người nuôi từ lâu rồi đã chấp nhận “cuộc chơi” nhưng là “cuộc chơi” minh bạch và sòng phẳng ! Bởi họ cũng hiểu rất rõ rằng, lãi trong kinh doanh là yếu tố sống còn của doanh nghiệp; rủi ro trong kinh doanh là điều khó tránh. Nhưng, nếu ví dụ như một số doanh nghiệp chế biến thủy sản do sơ suất kỹ thuật trong khâu chế biến… bị phía đối tác từ chối lô hàng thì không lý gì người nuôi cá phải bán sản phẩm của mình với giá thiệt thòi để bù cho sự cố trên… Những điều bất cập trên các ngành hữu quan, các tổ chức, hiệp hội, báo chí cũng tốn khá nhiều giấy mực, thời gian… cho các giải pháp về giá thu mua và phương cách tiêu thụ sản phẩm của người nuôi cá.

Nhưng có lẽ người nuôi cá một lần nữa phải tự cứu lấy mình trước bằng những giải pháp hữu hiệu từ chính trải nghiệm thực tiễn của quá trình nuôi cùng với kiến thức khoa học.

*Trăm năm tính cuộc vuông tròn:

Xét trên góc độ kinh tế, quy mô về doanh số và vốn đầu tư mỗi hộ nuôi cá tra công nghiệp, nuôi đăng quầng hay nuôi cá bè họ đều là những doanh nghiệp cỡ vừa. Thành công và không thành công của họ có vai trò, tác động khá quan trọng trong sự phát triển ổn định hoặc làm khó khăn cho kinh tế. Công bằng mà nói có nhiều hộ đã có những bước phát triển, bằng cách liên kết khép kín quy trình từ sản xuất, chế biến và xuất khẩu sản phẩm, vươn lên thành những doanh nghiệp tầm cỡ có tác động, ảnh hưởng khá lớn trong sự phát triển kinh tế. Tất nhiên thành công này cũng có những điều kiện, đòi hỏi nhất định của nó không phải mọi người đều có thể thực hiện. Nhưng, công bằng mà nói vẫn còn một số khá đông chưa đánh giá hết tiềm lực, vị trí (đúng tầm) của mình vẫn còn thụ động chỉ xem mình là các hộ sản xuất đơn thuần. Ở góc độ thị trường từ quan sát biến động của giá thu mua sản phẩm cá tra hằng năm cho phép chúng ta tổng kết theo quy luật xác suất thống kê, nếu tháng nào chúng ta cũng có sản phẩm tham gia thị trường thì bình quân của giá bán sản phẩm cả năm so với giá thành sản xuất chắc chắn giảm thiểu đến mức tối đa rủi ro trong sản xuất, nếu không nói là chắc ăn có lãi… Một sự liên kết trong một nhóm (5- 7 người nuôi cá) là điều trong tầm tay thực hiện. Phát biểu như vậy thì chỉ nói được một mặt của vấn đề phát huy nội lực. Còn đối với tác động từ bên ngoài trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, đứng trước yêu cầu ngày càng khắt khe (hóa chất, dư lượng thuốc kháng sinh…) sản phẩm cá tra ngày càng đòi hỏi tiêu chuẩn cao về chất lượng.

Mỗi hộ nuôi cá ngày nay theo chúng tôi có lẽ có 2 vấn đề khá cấp bách cần giải quyết để tự cứu lấy mình đó là: Nâng chất lượng và giảm giá thành sản phẩm nuôi.

*Trông người lại ngẫm đến ta:

Trong lãnh vực thủy sản, sự phát triển không bền vững đã gây những tác hại lớn cho nền kinh tế và môi trường sinh thái. Cuối thập niên 90 Thái Lan đã trả một giá khá đắt cho sự phát triển ồ ạt phong trào nuôi tôm sú, hậu quả là nhiều ngàn ha đất ven biển phải bỏ hoang hóa sau 3 năm bùng phát nuôi mô hình thâm canh tăng sản lượng bằng mọi giá. Trong các tháng đầu năm 2006 khi phong trào trải bạt nuôi tôm trên cát thất bại ở một số tỉnh duyên hải miền Trung; phần còn lại ở “hiện trường” là những ao đào loang lổ và cả một vùng sinh thái môi trường ô nhiễm trên bờ cát trắng.

Chúng ta không đánh giá thấp sự linh hoạt sáng tạo của những người sản xuất cá tra và những đóng góp của họ trong sự phát triển thủy sản đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng có một thực tế không thể phủ nhận là những điều kiện thiên nhiên ưu đãi của vùng đất chín rồng đã giúp nghề nuôi cá tra chấp cánh. Tuy nhiên tặng vật của tạo hóa ban cho chúng ta không phải là vô tận nếu chúng ta không biết giữ gìn ! Nếu lấy con số sản lượng cá tra nuôi ở An Giang năm 2005 là 170.000 tấn và hệ số chuyển hóa thức ăn là 2,5 thì hằng năm riêng nghề nuôi cá tra đã thải ra môi trường nước trên 250.000 tấn chất thải, thức ăn thừa… bởi hầu hết các hộ nuôi cá đều cho nước từ ao nuôi thải trực tiếp ra sông rạch… Sự ô nhiễm nguồn nước (cho nước sinh hoạt của người dân và cả cho nuôi trồng thủy sản) cục bộ và khu vực đã được báo động nhiều lần trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Công bằng mà nói chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý trong bối cảnh phát triển quá nóng của các mô hình nuôi cá. Nhưng để phát triển bền vững, thân thiện với môi trường và có trách nhiệm với cộng đồng xã hội có lẽ là điều không còn quá sớm để chúng ta- những nhà quản lý, nhà khoa học và người nuôi cá… phải suy nghĩ đến.

VƯƠNG HỌC VINH


Bến Tre đã chọn con tôm sú và con nghêu là thế mạnh

Nguồn tin: SGGP, 04/09/2006
Ngày cập nhật: 5/9/2006

* Con tôm càng xanh đang được nhiều hộ nuôi ở các huyện Châu Thành, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú… (Bến Tre). Tôm càng xanh nuôi xen trong vườn dừa và nuôi trên ruộng lúa rất hiệu quả.

Năng suất bình quân đạt khoảng 1 tấn/ha, trừ chi phí còn lời khoảng 20 triệu đồng; những hộ nuôi giỏi lời 40- 60 triệu đồng/ha. Hiện tại, toàn tỉnh Bến Tre có trên 2.300 ha tôm càng xanh, dự kiến mở rộng thêm khoảng 3.000 ha trong những năm tới.

* Nông dân Thạnh Phú, Ba Tri (Bến Tre)… đã thu hoạch trên 15.000 ha tôm quảng canh. Nhờ chủ động thời vụ, hạn chế dịch bệnh và kiểm tra nguồn giống chất lượng; năng suất tôm quảng canh đạt bình quân trên 1 tấn/ha. Hầu hết người nuôi có lãi.

* Tỉnh Bến Tre đã chọn con tôm sú và con nghêu là thế mạnh nuôi thủy sản nước mặn. Theo đó, con nghêu sẽ tập trung phát triển dọc các bãi biển ở Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Diện tích tôm sú ổn định khoảng 33.000 ha. Đối với vùng nuôi nước ngọt, tôm càng xanh và cá tra, ba sa được quy hoạch mở rộng vùng nuôi đến năm 2010, theo hướng bền vững gắn thị trường tiêu thụ.

N. Tám

 


HTX Thủy sản Rạng Đông: Giàu lên từ con nghêu

Nguồn tin: SGGP, 04/09/2006
Ngày cập nhật: 5/9/2006

Theo ông Nguyễn Quốc Dũng, Chủ nhiệm HTX Thủy sản Rạng Đông, chưa bao giờ con nghêu đắt giá và hút hàng như năm nay. Giá nghêu loại 1 dao động ở mức 16.000đ- 18.000đ/kg, cao kỷ lục. Trong 8 tháng đầu năm 2006, doanh thu từ con nghêu trên 25 tỷ đồng; ước tính cả năm đạt trên 30 tỷ đồng (cao gấp 2 lần so với năm 2005).

Thu hoạch nghêu ở HTX Thủy sản Rạng Đông.

HTX Thủy sản Rạng Đông đang quản lý trên 900 ha nghêu, nằm ở xã Thới Thuận (Bình Đại, Bến Tre). Đây là tài sản vô giá của 1.714 hộ xã viên. Ông Lê Văn Phước ở ấp 1 cho biết: “Lâu nay, người dân sống ven xứ biển này kinh tế khó khăn lắm. Nhờ con nghêu mà bây giờ thu nhập tăng lên, cứ mỗi đợt thu hoạch nghêu là có đồng ra - đồng vô, sống thoải mái lắm!”.

Theo Ban chủ nhiệm HTX, để có được bãi nghêu như hôm nay, phải trải qua nhiều lần đấu tranh nảy lửa. Một thời gian dài, con nghêu được xem là “chim trời cá nước”, hàng loạt người tranh nhau bắt và phá nát bãi.

Sau nhiều lần giành giật, bãi nghêu hoang tàn, nguy cơ dẫn đến xóa sổ. Năm 1997, HTX Rạng Đông được thành lập, chọn những người có uy tín và trách nhiệm vào Ban chủ nhiệm. Phương châm hoạt động được đề ra là đoàn kết hàng ngàn hộ xã viên lại thành khối thống nhất, xem bãi nghêu là tài sản chung, cùng giữ gìn và hưởng lợi. Nội bộ thống nhất cao, bãi nghêu được bảo vệ tốt, tạo điều kiện cho con nghêu sinh sôi trở lại.

Năm 2004, doanh thu đạt 12 tỷ đồng, cao gấp 15 lần so với năm 2000. Trong 5 năm gần đây, HTX Rạng Đông thu lãi trên 18 tỷ đồng; bình quân mỗi người được 2,5 triệu đồng/ năm. Thêm vào đó, ngày công lao động đem lại thu nhập 3- 5 triệu đồng/người/năm.

Năm nay nghêu được giá, bình quân mỗi hộ xã viên được chia lời khoảng 15 triệu đồng - cao nhất từ lúc thành lập HTX đến nay.

TÂN THÀNH

 


Phú Yên: Xét duyệt hai dự án nông thôn miền núi cấp Nhà nước

Nguồn tin: PY, 30/8/2006
Ngày cập nhật: 5/9/2006


Xây dựng mô hình tiếp nhận và chuyển giao công nghệ sản xuất giống một số loài cá biển tại tỉnh Phú Yên

Nguồn tin: PY, 30/8/2006
Ngày cập nhật: 5/9/2006

Ngày 28/8/2006, Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên tổ chức xét duyệt cấp cơ sở đề cương thuyết minh dự án nông thôn miền núi cấp Nhà nước “Xây dựng mô hình tiếp nhận và chuyển giao công nghệ sản xuất giống một số loài cá biển tại tỉnh Phú Yên” do Trung tâm Giống và kỹ thuật Thuỷ sản Phú Yên chủ trì thực hiện. Đây là dự án thuộc chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế xã hội nông thôn miền núi giai đoạn từ nay đến năm 2010.

Phú Yên là vùng có điền kiện thuận lợi về thời tiết, khí hậu và có vùng biển sâu, rộng và chất lượng nước tốt, là điều kiện thích hợp để nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là cá biển. Trong những năm gần đây, diện tích hồ nuôi tôm sú tỉnh Phú Yên đã bị thoái hoá nên hiệu quả nuôi không cao có nơi bỏ hoang và nhiều trang trại tôm giống đang trong thời gian nghỉ. Việc thực hiện dự án này là mục đích xây dựng mô hình tiếp nhận và chuyển giao sản xuất giống 3 loài cá biển ở tỉnh Phú Yên gồm cá mú đen chấm đỏ (Apinephelus coioides), cá bớp (Rachycentron canadum) và cá Hồng mỹ (Scyaenops ocellatus), và khai thác các cơ sở vật chất đã có, đồng thời góp phần cải thiện lại môi trường sinh thái diện tích nuôi tôm sú. Đây là dự án phần làm đa dạng đối tượng nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Phú Yên.

Văn Mỹ

 


Kinh doanh thuỷ sản tại Phú Yên phải thành lập chi nhánh

Nguồn tin: NNVN, 30/8/2006
Ngày cập nhật: 4/9/2006

 


Nghề nuôi trồng thủy sản nước ngọt đi về đâu sau lũ?

Nguồn tin: BThuận, 03/09/2006
Ngày cập nhật: 4/9/2006

Tháng 6 vừa qua, cuộc hội thảo về nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở Đức Linh và Tánh Linh do Sở Thủy sản tổ chức khẳng định: “Đức Linh là một trong hai huyện miền núi có tiềm năng lớn nhất tỉnh về nuôi trồng thủy sản nước ngọt và được đưa vào vùng quy hoạch nuôi trồng thủy sản của tỉnh trong thời gian đến”. Liệu rằng trước thiệt hại nặng nề do mưa lũ, tiềm năng ấy có thể vực dậy sau khi lũ đi qua?

Theo số liệu mới nhất của UBND huyện Đức Linh, ước tính thiệt hại về thủy sản nước ngọt nuôi trồng của huyện này đã vượt lên con số 12 tỷ 500 triệu đồng trên diện tích 373 hécta mặt hồ bị ngập lũ. Nếu tính theo kinh phí đầu tư trên từng hộ dân, thì thiệt hại về thủy sản nước ngọt nuôi trồng khá cao so với thiệt hại về lúa bắp và hoa màu. Như gia đình ông Bùi Hải ở thị trấn Đức Tài, ông nuôi 1.000 con ba ba và 2 tạ cá giống sắp đến kỳ thu hoạch đều mất trắng. Hiện nay, ba ba có giá trung bình 150.000 đồng/kg, mà ba ba của ông Hải con nào cũng gần đạt đến 1kg. Như thế, riêng ba ba, ông đã thất thu gần 150 triệu đồng. Đó là chưa kể đến cá thát lát, cá bống tượng cùng với ba ba theo nước lũ trong hai đêm 15 và 16/8 bơi ra khỏi hồ. Do đặc thù của nghề nuôi trồng thủy sản, người dân thường đầu tư với quy mô lớn cho một vụ nuôi trồng. Khi bị mất trắng, họ lâm vào cảnh bế tắc. Ông Hồ Sỹ Thuyên (thôn 2, xã Vũ Hòa) nói: “Cách đây 10 năm tôi đi theo nghề thủy sản này. Càng ngày càng đi đến mức độ đầu tư mở rộng. Thành ra năm nay tôi bị thiệt hại tương đối lớn, gần 750 triệu đồng”. Là một người có đầu tư khá cao (trên 500 triệu đồng) về nuôi trồng thủy sản từ năm 2001 ở Đức Tài, anh Bùi Ngọc Phúc cũng cho biết: “90% vốn liếng của hai vợ chồng, anh em nội ngoại bà con cho mượn đầu tư nuôi ba ba và cá giờ không còn. Thiên tai ập đến coi như trắng tay sau bao nhiêu năm gầy dựng!”.

Nước lũ đã tạm thời đi qua, nhưng tài sản của họ không thể nào lấy lại được. Bao nhiêu vốn liếng đầu tư, công sức đổ ra từ nhiều năm nay coi như mất hết. Được biết, hầu hết diện tích thủy sản nuớc ngọt được nuôi trồng trên địa bàn huyện Đức Linh đều chuẩn bị đến kỳ thu hoạch. Vốn đầu tư tái sản xuất không còn, các hộ dân ở đây rất lo lắng và chưa biết làm gì trong thời gian đến.

Ông Hồ Sỹ Thuyên (xã Vũ Hòa) tâm sự: “Sau lũ, bản thân gia đình tôi hoang mang lắm, bây giờ chưa thể hoạch định như thế nào. Nói chung, một người nuôi trồng thủy sản bị mất hết vốn liếng thì không biết cách giải quyết ra sao”. Có vẻ bình tĩnh hơn, ông Bùi Hải (thị trấn Đức Tài) trao đổi với chúng tôi: “Trước mắt tới đây lũ rút xong, thì tôi thu dọn lại ao hồ. Rồi cũng nhờ Nhà nước giúp đỡ tiền vốn cho gia đình tái sản xuất”. Riêng ông Nguyễn Thanh Thủy (thôn 3, xã Vũ Hòa) khẳng định: “Chắc chắn Nhà nước sẽ có chiều hướng khoanh nợ ngân hàng. Còn cái vốn để đầu tư tái sản xuất thì rất khó khăn cho gia đình và anh em tổ hợp nuôi trồng thủy sản ở đây.”

Được biết cuối tháng 8 này tỉnh có kế hoạch hỗ trợ giống lúa cho bà con nông dân huyện miền núi Đức Linh bị thiệt hại do lũ, còn việc hỗ trợ về nuôi trồng thủy sản nước ngọt thì chưa thấy triển khai. Nên chăng Sở Thủy sản và các ngành liên quan cùng với địa phương tham mưu cho UBND tỉnh về vấn đề này nhằm giúp người dân Đức Linh khắc phục hậu quả sau khi lũ đi qua. Vốn để tái sản xuất không còn, e rằng người dân huyện Đức Linh khó vực dậy tiềm năng nuôi trồng thủy sản của địa phương.

VUI THƯỜNG


Phát triển công nghiệp chế biến thủy sản ở ĐBSCL

Nguồn tin: NLĐ, 1/9/2006
Ngày cập nhật: 3/9/2006

 


Lăng Cô, Thừa Thiên-Huế: 50 hộ nuôi ốc hương trắng tay

Nguồn tin: NLĐ, 1/9/2006
Ngày cập nhật: 3/9/2006

Năm nay, có khoảng 50 hộ nuôi ốc hương ở đầm Lăng Cô, thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên -Huế nuôi ốc hương với 125 vạn con giống.

Theo lịch thời vụ, đến thời điểm này sẽ cho thu hoạch, nhưng toàn bộ 125 vạn con ốc hương nói trên đã bị chết sạch. Thiệt hại ước tính trên 1 tỉ đồng. Nguyên nhân ban đầu được ngành thủy sản xác định là do thời tiết khắc nghiệt, một số hộ nuôi không đúng lịch thời vụ và chất lượng giống không bảo đảm kỹ thuật, người nuôi thả giống ồ ạt, không chú trọng quy hoạch vùng nuôi hợp lý, làm nguồn nước khó lưu thông, gây ô nhiễm môi trường.

X. Hồng

 


“Vua” cá lý ngư

Nguồn tin: KHPT, 01/09/2006
Ngày cập nhật: 3/9/2006

Trước năm 2004, anh Nguyễn Thành Đương 43 tuổi - nguyên là bộ đội phục viên, ở tổ 1, thôn Nam Thành, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang (TP. Đà Nẵng), canh tác 1 mẫu ruộng. Do đất cát pha bạc màu, dù thâm canh đến mấy, năng suất lúa cũng chỉ đạt trên dưới 120 kg/sào, cái đói nghèo luôn đeo đẳng.

Thế rồi được sự quan tâm, động viên hỗ trợ kịp thời của các cấp, các ngành tại địa phương; nhờ có nguồn nước hầu như quanh năm của đập Đồng Nghệ, anh quyết định “đột phá”: nuôi cá kiểng lý ngư (cá chép gấm).

Anh mạnh dạn vay mượn người thân, bạn bè để mua cá giống. Do yêu cầu phát triển đàn cá, anh lần lượt chuyển đổi 1/2 số ruộng hiện có thành 6 ao nuôi cá. Tuy đời sống còn lắm khó khăn, nhưng anh thường xuyên theo dõi báo đài nhằm thu thập các thông tin cần thiết để áp dụng. Cho đến hôm nay, anh đã có 50 đôi cá bố mẹ lý ngư, mỗi con nặng từ 0,7 đến một 1 ký, được nuôi riêng trong một hồ... Số cá lý ngư con, khi được 2 tháng tuổi anh xuất bán mỗi con là 1.000 đồng. Mỗi năm, anh bán 5 lứa cá, mỗi lứa khoảng 4.000 con, sau khi trừ các khoản chi phí thì còn lãi 3 triệu đồng/1 lứa. Ngoài ra, anh bán “lai rai” các cặp cá lý ngư “choai choai” với giá 40 ngàn đến 50 ngàn đồng một cặp.

Nuôi cá lý ngư là mô hình nuôi cá kiểng đầu tiên tại các xã miền núi của huyện Hòa Vang. Tuy còn nằm trong giai đoạn thử nghiệm, nhưng xem ra có nhiều triển vọng. Nhờ cá, anh có tiền xây nhà, nuôi ba đứa con ăn học.

Hiện nhiều bà con nông dân đã đến tham quan, học tập kỹ thuật, kinh nghiệm và làm theo mô hình của anh… Họ đặt cho anh biệt danh: “Vua” cá lý ngư. ó

QUỐC KỲ

 


Không còn “bèo như hạng cá kèo”!

Nguồn tin: BCT, 1/9/2006
Ngày cập nhật: 2/9/2006

Đây là năm thứ hai liên tiếp cá kèo giống xuất hiện với số lượng lớn ở vùng ven biển thuộc huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Tuy “chu kỳ” chỉ khoảng 3-4 tháng, nhưng nguồn lợi này đã tạo ra thu nhập đáng kể cho nhiều hộ dân nghèo thuộc các xã Lạc Hòa, Vĩnh Hải, Vĩnh Châu, Vĩnh Tân... Song song đó, bằng hiệu quả kinh tế, nuôi cá kèo thương phẩm đã và đang “bén duyên” với người dân Sóc Trăng sau những vụ tôm đầy rủi ro và bất trắc.

Nguồn lợi lớn từ thiên nhiên

Vợ chồng chị Trần Thị Mến, ấp Mỹ Thanh, xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu, nhiều năm nay sống chủ yếu bằng nghề đi biển và quán nước nhỏ trước nhà. Cuộc sống của hai vợ chồng, hai đứa con nhỏ và mẹ già cũng “bấp bênh” như “chuyện đi biển mùa mưa bão vậy”. Rồi vào khoảng tháng 4 năm ngoái, vùng bãi bồi (hồ bể), xuất hiện nguồn lợi cá kèo giống. Cứ vào con nước rong trong tháng (rằm và ba mươi), chị Mến cùng hàng chục hộ dân khác đi “xúc” cá kèo ven rừng phòng hộ. Chị Mến cho biết: “Vào mùa cá kèo, ít gì vợ chồng tôi cũng thu được từ vài chục đến vài trăm ngàn đồng từ việc bán cá giống. Có được nguồn thu nhập này, đời sống của gia đình đỡ khó khăn hơn”. Giờ đây, ngoài việc đóng đáy, chồng chị còn là mối thu gom, chuyên chở cá kèo giống cho một số điểm thu mua.

Còn hộ anh Trần Khem, ở ấp Đại Bái, xã Vĩnh Châu cũng nhờ con cá kèo giống mới có được căn nhà che mưa che nắng. Anh Khem kể: “Trước đây, nhà tôi được 4 công đất rẫy. Làm ăn liên tục thất bát, không vốn sản xuất, lại con đông (4 người) nên gia đình mắc nợ rất nhiều. Vợ chồng tôi phải bán nhà, bán đất dắt díu đi làm thuê làm mướn để kiếm sống”. Rồi năm ngoái, trong một lần về quê, anh Khem biết nhiều người có thu nhập khấm khá từ việc đi bắt cá kèo giống. Thế là, vợ chồng anh quyết định quay về Vĩnh Châu. Anh Khem cho biết: “Lúc ấy, gia đình tôi ít thì kiếm được năm ba trăm ngàn, có ngày còn lên cả triệu đồng. Nhờ nguồn thu nhập này, gia đình mua và lợp được ngôi nhà trước đây đã bán cho người ta”.

Năm nay cá kèo giống bắt đầu xuất hiện nhiều vào đầu tháng 5, trễ hơn 1 tháng so với năm ngoái. Chị Lâm Thị Nhung, một hộ chuyên thu mua cá kèo giống ở ấp Sân Chim, xã Vĩnh Châu, cho biết: “Nguồn lợi cá kèo giống năm nay không nhiều bằng năm ngoái. Nên đầu vụ đến nay, tôi chỉ thu gom được khoảng trên dưới 800 kg cá giống. Số lượng này không đủ cung ứng cho các hộ nuôi ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Bến Tre...”. Chỉ dựa vào nguồn giống tự nhiên nên giá cá kèo giống ở Sóc Trăng từ đầu vụ đến nay liên tục biến động ở mức cao. Giá cá giống vào cao điểm (theo con nước rằm hoặc ba mươi) khoảng 400.000 - 600.000 đồng/kg (từ 20.000 - 40.000 con giống/kg), rồi tăng lên 700.000 - 800.000 đồng/kg. Hiện nay, 10 điểm thu gom cá kèo giống Vĩnh Châu vẫn không đáp ứng yêu cầu thả nuôi của người dân trong và ngoài tỉnh. Theo nhận định của các chủ thu gom, trong những ngày tới, giá cá kèo giống có thể lên trên 1 triệu đồng/kg.

Hấp dẫn cá kèo thương phẩm

Song song với việc cá kèo giống hút hàng và giá bán buôn đứng ở mức cao, việc nuôi cá kèo thương phẩm đã và đang trở nên phổ biến ở vùng tôm tỉnh Sóc Trăng. Năm ngoái, sau vụ tôm sú thất bại, ông Nguyễn Hoàng (Sáu Hoàng) ở xã An Thạnh III, huyện Cù Lao Dung thả nuôi 500.000 con cá kèo giống ở 5 ao (khoảng 4.000m2/ao). Hơn 4 tháng thả nuôi, ông thu hoạch được 5 tấn cá (bình quân 40 con/kg), với giá bán 32.000 đồng/kg, trừ chi phí (khoảng 30 triệu đồng, chủ yếu do mua con giống), ông Sáu Hoàng lời hơn 110 triệu đồng. Đây là mức lợi nhuận mà theo ông từ trước đến nay chỉ có nuôi tôm mới có. Ông Sáu Hoàng nói: “Đúng là cá kèo giờ đã không còn bèo như trước nữa mà sẽ là nguồn thu nhập không nhỏ tại vùng đất nuôi tôm này”. Năm nay, ông tiếp tục đầu tư thả nuôi cá kèo theo mô hình quảng canh ở toàn bộ diện tích ao hiện có.

Còn ở vùng tôm Vĩnh Châu, mô hình nuôi cá kèo thương phẩm (vài ha) xuất hiện vào khoảng năm 2003. Sau vài vụ tôm thất bại, nhiều hộ chuyển sang nuôi cá kèo thương phẩm, hoặc cho thuê đất (vì không còn vốn sản xuất) để những “đại gia” của các địa phương khác đến thuê nuôi cá kèo. Hiện nay, diện tích nuôi cá kèo quảng canh ở Vĩnh Châu đã lên đến khoảng 100 ha. Đây là vụ thứ hai ông Ba Bình, một “đại gia” nuôi tôm ở Bến Tre, đến thuê đất ở ấp Châu Khánh, xã Khánh Hòa, huyện Vĩnh Châu để nuôi cá kèo thương phẩm. Năm vừa qua, với 7 ao nuôi (khoảng 4.000m2/ao), ông thu hoạch được khoảng 30 tấn cá thương phẩm. Giá bán dao động từ 38.000 - 40.000 đồng/kg (40 con/kg), sau khi trừ hết chi phí, ông Bình có lời gần 300 triệu đồng. Ông Ba Bình đã tiếp tục thuê 8 vuông tôm sú ở ấp Châu Khánh, xã Khánh Hòa, đầu tư thả nuôi trên 300.000 con cá kèo giống. Do nguồn con giống không đủ yêu cầu nên các “vuông” cá kèo của ông Ba Bình không thả giống được đồng loạt. Mặt khác, năm nay do thời tiết không thuận lợi, nên tỷ lệ hao hụt cá kèo giống của ông khá lớn. Song, ông vẫn tiếp tục thu gom giống để thả nuôi bù lượng hao hụt, vì như ông nói: “Bây giờ thị trường cá kèo thương phẩm đã gần 50.000 đồng/kg. Cho vào vụ thu hoạch rớt xuống còn từ 35.000 - 40.000 đồng/kg, người nuôi vẫn có lời”.

Theo tính toán của Phòng Kinh tế huyện Vĩnh Châu, giá thành đầu tư cho 1 kg cá kèo thương phẩm (50 - 70 con/kg) khoảng 20.000 đồng. Do được người tiêu dùng ưa chuộng nên giá cá kèo thương phẩm trên thị trường ít dao động theo chiều hướng giảm (cá biệt có lúc giá cá kèo thương phẩm đạt trên 65.000 đồng/kg). Tuy nhiên, để chất lượng cá kèo nuôi đảm bảo gần với tự nhiên đạt hiệu quả kinh tế cao, ngành thủy sản Sóc Trăng khuyến cáo, nên nuôi cá kèo theo hình thức quảng canh cải tiến, tận dụng mùn bã hữu cơ sau vụ nuôi tôm sú để tiết kiệm chi phí, thức ăn và góp phần cải tạo môi trường ao nuôi tôm cho vụ sau.

HÀ TRIỀU

 


Thức ăn phòng bệnh cho cá thay kháng sinh

Nguồn tin: TT, 01/09/2006
Ngày cập nhật: 2/9/2006

Tập đoàn Cargill VN vừa đưa ra thị trường loại thức ăn Immunofeeds tăng cường sức kháng bệnh cho thủy sản nuôi trồng, có khả năng chống stress và hạn chế bệnh đối với cá.

Theo ông Scott Ainslie - tổng giám đốc Cargill VN, đây là loại thức ăn có khả năng kích thích hệ miễn dịch của cá, giúp cá chống stress (trong điều kiện nuôi mật độ cao) và dịch bệnh một cách tự nhiên thay vì phải dùng kháng sinh để phòng hoặc trị bệnh.

H.ĐĂNG

 


Tôm càng Thạnh Phú lên ngôi

Nguồn tin: Btre, 01/09/2006
Ngày cập nhật: 2/9/2006

Sau thời gian đã cho thấy: con tôm càng xanh ở Thạnh Phú (Bến Tre) không chỉ sống trong mương vườn, ruộng lúa, ao đầm mà còn lấn sang ao nuôi tôm sú. Không chỉ quản canh, nay có cả hình thức nuôi công nghiệp. Không chỉ con giống từ thiên nhiên, mà có cả trại ươm đàng hoàng. Ông Lê Văn Gặp, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện nói: “Con tôm càng đã góp phần làm sáng tỏ bước đi làm giàu của vùng nước lợ”.

Từ người nuôi …

Con tôm càng xanh vốn là loại tôm “hoang”, thích vẫy vùng trong sông, rạch, ao, hồ, … ngao du đây đó, tự sinh ra và tự lớn lên, chứ không chịu sống một chỗ được con người o bế, nâng niu, chìu chuộng. Bảy năm về trước, ở phường 8 thị xã Bến Tre, ông Ba Cang, đại tá quân đội về hưu, nổi tiếng là làm kinh tế giỏi, bỏ ra mấy trăm triệu đồng xây bể ươm tôm càng giống, nhưng rồi cũng phải dẹp vì không ai nuôi thành công. Mấy năm gần đây, cũng có nhiều người ở Bến Tre nuôi tôm càng xanh có hiệu quả, nhưng chỉ với hình thức quảng canh trong mương vườn, ao, hồ, còn con giống thì thu gom từ những người đi chày, đi lưới, có bao nhiêu nuôi bấy nhiêu, thả hồ lớn xuống ao, nên không chủ động về mùa vụ, quy mô, hiệu quả không theo ý muốn. Vừa rồi, trong một chuyến công tác, anh Lê Phong Hải, Bí thư Huyện ủy đã mách với tôi: “Tôm càng xanh nuôi quảng canh hay lắm. Ông đi mà xem”. Theo lời anh, tôi về thị trấn, gặp anh Phạm Thắng, trước đây anh nuôi tôm sú, cũng có ăn, nhưng vài năm trở lại đây gặp khó khăn vì môi trường không thuận lợi, nên chuyển sang nuôi tôm càng xanh. Anh nuôi 20.000 con, được 2 tháng, đang lớn xôi xổi, bằng ngón tay cái, trong một cái ao 5.000 mét vuông. Ham quá, anh vừa bắt thêm 15.000 con nữa. “Anh chuyển từ “sú” sang “càng” do túng quẩn hay thấy ai làm trước?”– tôi hỏi vui. Anh cười và nói: “Tôi thấy anh Lớn, nhà bên cạnh, năm rồi nuôi 20.000 con trong một cái ao 4.000 mét vuông mặt nước, 5 tháng thu được 30 triệu đồng, lời gần 25 triệu, nên tôi làm theo”.

Xem thực tế, anh nuôi chỉ là “tiền” quảng canh mà thôi, còn đi vào bài bản của quảng canh, mà có “hơi hám” của cách nuôi công nghiệp, thì phải đến nhà anh Nguyễn Văn Hiệu ở xã An Quy. Năm rồi, anh nuôi 15.000 con, thu về 22 triệu đồng, trừ tiền giống và thức ăn khoảng ba triệu, lời 19 triệu đồng. Sở dĩ tiền thức ăn có ít, là vì 3 tháng đầu chưa biết, chày lên thấy không có tôm, tưởng đâu chết hết, đến tháng thứ tư thấy còn mới cho ăn, tôm chậm lớn. Năm nay, anh nuôi 30.000 con đã trên 3 tháng tuổi, con nào con nấy bằng ngón chân cái người nông dân, anh vừa thả thêm 15.000 con nữa. Về cách nuôi của anh Hiệu có khác, anh nói “tôi có 4 cái ao, trước đây nuôi tôm sú. Rút kinh nghiệm năm rồi, năm nay nuôi hết 4 ao, đầu tiên thả vào chung một ao, sau hai tháng kéo hết lên, tôm đựt chuyển sang ao bên, con cái giữ lại. Sau một tháng ao tôm đựt tiếp tục được lựa ra, loại nhỏ để lại, loại lớn chuyển sang ao thứ ba. Vừa rồi tôi thấy việc chuyển ao như vậy, tôm lớn nhanh hơn, nên quyết định luân chuyển tiếp toàn bộ tôm theo tuần tự đến ao thứ tư, cho nên trống ao thứ nhất, tôi bắt thêm 15.000 con nữa là vì vậy”. Còn con giống, thức ăn, cách cho ăn và bán tôm thịt? Anh Hiệu cho biết: “Giống mua ở trại giống Cô Sương. Còn thức ăn cho tôm càng xanh gồm có ruốt, cám, tắm và gạo lức. Ruốt, cám, tắm nấu chung vắt từng cục, bỏ vào chong để xuống đáy ao cho tôm ăn, nếu không có ruốt thì ngâm gạo lức cho ăn xen kẻ. Hai tháng đầu, ngày cho ăn hai lần, sau đó mỗi tháng tăng thêm một lần. Đến hết tháng thứ tư là bắt đầu thu hoạch, cứ 20 đến 25 ngày kéo lên bán một lần, chọn loại một bán trước, mỗi ký từ 8 đến 10 con theo thời giá hiện nay là 170.000 đồng, nếu túng tiền thì bán luôn loại hai từ 11 đến 15 con giá 135.000 đồng, còn không thì để lại sau 20 ngày nữa bán giá loại một, trên 15 con là tôm sô từ 80 đến 100.000 đồng/kg, bán sau cùng, nhưng không để quá năm tháng rưởi, tôm sẽ rũ (chết)”. Như vậy, ta có một so sánh: so với tôm sú, thì tôm càng có “5 cái hơn”, mặc dù thu nhập thấp hơn nhưng đầu tư ít hơn, dễ nuôi hơn, ít rũi ro hơn mà hiệu quả lại cao hơn, vì chi phí cao lắm cũng không quá một phần năm của tổng thu mỗi vụ.

… Đến nhà làm giống.

Về Thạnh Phú, hỏi “trại giống tôm càng Cô Sương” ai cũng biết. Trại cách thị trấn chừng năm cây số, thuộc xã Mỹ Hưng. Đây là một trong mười trại giống đang hoạt động ở huyện. “Cô Sương” hiện là hiệu trưởng của trường tiểu học ở xã, tên vợ của chủ trại. Sở dĩ lấy tên vợ đạt tên cho trại là vì người gầy dựng nên trại tên Bù – Năm Bù. Vì tên Bù mà người nuôi sợ xui, tôm không lớn, ngại đến mua - Hồ Bảo Ngân, con Cô Sương đã nói về “lai lịch” trại giống của cha mẹ mình như vậy. Trại rộng 1,2 ha, hơn 140 bể ươm và làm tôm giống. Trước đây trại này chuyên ươm tôm sú, ba - bốn năm trở lại đây chuyển sang tôm càng xanh. Sự chuyển hướng này một mặt là do môi trường tôm sú ngày càng khắc nghiệt, khó nuôi, nhưng mặt khác cũng là do bản tính của anh Năm Bù cần cù, năng động và không ít thông minh, luôn muốn làm cái gì đó đóng góp cho quê hương, xứ sở. Hiện tại, trại luôn có từ 3 đến 5 triệu con giống, mỗi ngày bán từ vài trăm ngàn đến một triệu con, suốt ba bốn tháng nay ngày nào cũng vậy. Tôm cho đẻ chiếm khoản 50%, số còn lại nhập Post từ Trung Quốc về dưỡng. Theo cháu Hồ Bảo Ngân, việc cho tôm càng xanh đẻ là do chính cha mình tìm tòi trong sách vở và suy nghĩ trong thực tế mà làm nên. Nhưng “gian nan lắm” – cháu Ngân nói. Vì thời gian đầu, “làm năm lần, bảy lượt mới thành công, nhưng đến khi được rồi thì không có ai đến mua về nuôi, Ba phải đem cho bà con xung quanh nuôi thử, không lấy tiền, sau thời gian thu hoạch thấy có kết quả, lúc đó mới bán được giống”. Còn con giống mẹ lấy từ đâu? – anh Phan Văn Hùng, kỷ thuật của trại cho biết “từ các hộ nuôi tôm thịt, mình đưa cán bộ kỷ thuật đến các ao nuôi tôm cái, lựa những con đúng chuẩn đem về, giá gắp đôi tôm cái thịt”. Đó là chuyện làm giống, nhưng chưa hết, cuối trại của anh Năm Bù là một vuông tôm khoảng 2.000 mét vuông, anh thả 60.000 con đã 3 tháng nay, dự tính bốn tháng rưởi là bán, hoàn toàn theo mô hình công nghiệp như nuôi tôm sú, tôm lớn xôi xổi, khoảng 20 con một ký, đang hứa hẹn trong tương lai mở ra triển vọng mới cho nghề nuôi tôm càng xanh ở huyện. Hỏi anh kỷ thuật đang trực tiếp đứng nuôi tại ao: “ông chủ nuôi như thế này để làm gì?”, thì được trả lời: “hình như ổng làm thí điểm cho bà con làm theo”.

Nuôi tôm càng xanh hiệu quả nhất là con tôm đựt. Thông thường một con tôm cái giũ trứng, từ post nuôi đến bán tôm thịt cho thấy 60% đựt và 40% cái. Với trình độ hiện có, thì người tạo giống chỉ kiểm soát được chất lượng giống, còn “đựt” hay “cái” thì hoàn toàn thuộc về người nuôi tính toán sao cho hiệu quả nhất, mà anh Nguyễn Văn Hiệu đã giúp cho chúng ta “giải mã” được trong thực tế.

Một viễn cảnh tươi sáng.

Tôm càng xanh đã “sống” được trong môi trường ở Mỹ Hưng từ năm 2004 với mô hình: chính giữa trồng lúa, xung quanh nuôi tôm, trên bờ trồng cỏ nuôi bò trong một diện tích 1,5 ha. Từ lợi thế có con giống tại chỗ, đến nay con tôm càng xanh đã có mặt khắp các ấp trong xã gần 500 ha mặt nước. Với 10 trại giống hiện có và từ kinh nghiệm ở Mỹ Hưng, con tôm càng xanh đã “bò” sang các xã Bình Thạnh, Mỹ An, An Thạnh, An Thuận, An Điền, … với diện tích, mà theo Ông Lê Văn Gặp thì đã lên đến trên 1.000 ha. Nếu đúng như vậy, thì rõ ràng Thạnh Phú đang đứng nhất tỉnh và bằng một phần sáu số diện tích nuôi tôm càng xanh của cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng điều đặc biệt là trong số đó, mô hình nuôi và trồng kết hợp như trên đã có khoảng hơn 400 ha, và nhất là qua khảo sát cho thấy, trên 75% số hộ thực hiện mô hình này có lời trên 60 triệu đồng/ha/năm. Đó là một viễn cảnh tươi sáng, đã “giải mã” được bài toán hốc búa đặt ra từ mấy năm nay đối với vùng nước lợ của Bến Tre, bức phá đi lên.

Nhìn vào các xã có tôm càng xanh ở Thạnh Phú cho thấy con tôm càng sống được cả ba môi trường ngọt, lợ và vùng có độ mặn đến 15%o. Thực tế, con tôm càng không chỉ sống, mà còn lớn lên được trong ao nuôi tôm sú công nghiệp, nghĩa là tôm càng xanh đã lấn tôm sú. Không phải do động lực của giá cả, mà là vì môi trường và trình độ của con người. Từ thực tế này cho thấy việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi không chỉ dựa vào “quy hoạch” trồng cây gì, ở đâu, nuôi con gì, ở đâu. Mà cái chính là tạo kiến thức cho người dân, đồng thời kiểm soát chặt chẽ giống cây, con với môi trường sống./.

Lê Quang Nhung

 


Một doanh nghiệp ở Bến Tre nuôi tôm sú thành công bằng phương pháp sinh học

Nguồn tin: Btre, 01/09/2006
Ngày cập nhật: 2/9/2006

Đó là Công ty Thông Thuận đã nuôi hơn 0,9 triệu con tôm sú trên diện tích 14.500m2 mặt nước bằng qui trình sinh học, tại Ấp An Ninh, xã An Nhơn (huyện Thạnh Phú). Đây còn được gọi là mô hình nuôi tôm công nghiệp cao sản sinh học đầu tiên và rất thành công ở Bến Tre hiện nay.

Trong suốt quá trình nuôi không sử dụng các chất kháng sinh, thức ăn cho tôm phải là thức ăn vi lượng, kết hợp với tỏi và VitaminC. Đáy ao phải đạt độ sâu từ 1,8 - 2m và được thiết kế hệ thống cung cấp ôxy. Với mật độ nuôi rất cao so với nuôi thâm canh và bán thâm canh phổ biến hiện nay (55 con/m2), nhưng nhờ áp dụng qui trình sinh học, nên chẳng những tôm không bị nhiễm bệnh, tăng trưởng nhanh, kích cỡ đồng đều, mà sản lượng đạt rất cao, giảm chi phí và môi trường nuôi được đảm bảo. Chỉ sau hơn 4 tháng nuôi, tôm đạt trọng lượng 42 con/kg, năng suất bình quân 11,4 tấn/ha. Trong khi nuôi thâm canh thông thường năng suất chỉ đạt trên 5 tấn/ha. Từ thành công này, Công ty Thông Thuận đang tiếp tục nuôi khoảng 16.000m2 nữa tại xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú. Mô hình này cần được khuyến khích nhân rộng khi mà nuôi tôm công nghiệp thông thường từ trước đến nay đang đứng trước nguy cơ thiếu tính bền vững và rủi ro cao do dịch bệnh đốm trắng gây ra.

Văn Tông


Hậu Giang: 4 tỉ đồng phát triển vùng nuôi cá thác lác tập trung

Nguồn tin: CT, 31/8/2006
Ngày cập nhật: 1/9/2006

Ông Nguyễn Văn Đồng, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Hậu Giang, cho biết: Công ty TNHH Phú Thạnh, Công ty thủy sản xuất khẩu Côn Đảo và siêu thị Co.opMart Cần Thơ đã ngỏ ý đăng ký bao tiêu cá thác lác Hậu Giang trong thời gian tới.

Nhằm tạo vùng nguyên liệu ổn định để xây dựng thương hiệu “cá thác lác Hậu Giang” và cung ứng cho thị trường, Sở NN&PTNT đã lập dự án vùng nuôi cá thác lác tập trung 500 ha tại thị xã Vị Thanh và 2 huyện Vị Thủy, Long Mỹ. Tổng kinh phí dự kiến khoảng hơn 4 tỉ đồng, gồm xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư sản xuất con giống, chuyển giao kỹ thuật.

P.K

 


Ương cá măng giống trong bể xi măng: Tạo thuận lợi cho người nuôi trồng thủy sản

Nguồn tin: BĐ, 31/8/2006
Ngày cập nhật: 1/9/2006

Loài cá măng được đề cập trong bài viết này có tên gọi là cá măng biển, tên khoa học là Chanos chanos, tên địa phương thường gọi là cá chua. Đề tài nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật ương cá măng giống trong bể xi măng từ nguồn cá măng bột vớt tự nhiên do kỹ sư Lê Văn Sinh- Phó Trạm thực nghiệm nghiên cứu nuôi trồng thủy sản Cát Tiến- làm chủ nhiệm, đã giúp cho người dân nâng cao chất lượng cá măng giống thay vì ương nuôi trong ao đất như trước đây.

Từ trước đến nay, nguồn cá măng giống vẫn được vớt từ tự nhiên nên người dân thường không chủ động được số lượng nguồn cá giống thả nuôi, chất lượng cá cũng không được bảo đảm trong quá trình vớt và vận chuyển. Kỹ sư Lê Văn Sinh cho biết: “Tỉnh Bình Định là một trong những nơi có nguồn cá măng bột dồi dào, nhưng chúng ta chưa tận dụng hết tiềm năng này. Ngoài nguồn cá măng xuất hiện theo mùa vụ, một số hộ nuôi đã chủ động ương nuôi cá măng giống trong ao đất nhưng tỷ lệ cá sống không cao vì người nuôi chỉ nuôi theo kinh nghiệm là chính nên những yếu tố về độ mặn, mật độ, loại thức ăn... không đảm bảo cho quá trình sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá măng giống”.

Qua quá trình tìm hiểu về mùa vụ, địa điểm xuất hiện, những thí nghiệm về các ngưỡng độ mặn khác nhau, quá trình nuôi đối chứng giữa ao đất và ao xi măng... nhóm nghiên cứu đã đưa ra những kết luận: cá măng bột xuất hiện vào tháng 4- 9 hàng năm, nhiều nhất tại vùng cửa Đề Gi (Phù Mỹ), ngưỡng độ mặn của cá măng bột và cá măng giống là 0-650/00, mật độ thích hợp ương trong bể xi măng từ giai đoạn cá bột lên cá giống là 200 con/m2... Đồng thời, qua quá trình nghiên cứu, nhóm thực hiện đề tài đã xây dựng quy trình ương nuôi cá măng giống trong bể xi măng từ xây dựng bể ương, kỹ thuật vận chuyển cá, đến quá trình nuôi và thu hoạch cá măng giống.

Tại Bình Định, cá măng (còn gọi là cá chua) bột phân bố tự nhiên ở nhiều khu vực khác nhau nhưng nhiều nhất là ở khu vực đầm Đề Gi (Phù Mỹ). Hoạt động nuôi cá măng của ngư dân trong tỉnh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống, từ khâu vớt cá bột trong tự nhiên đến việc ương thành cá giống và nuôi thương phẩm. Cá măng là loài cá ăn tạp, thức ăn chủ yếu của chúng là các sinh vật nhỏ, mùn bã hữu cơ, tảo khuê, rong câu… Với những đặc điểm của cá măng như: nhanh lớn, ít dịch bệnh, có thể nuôi ghép, chất lượng thịt của cá cao, dễ tiêu thụ… nên cá măng là một trong những loài thích hợp cho mục đích đa dạng hóa các đối tượng trong nuôi trồng thủy sản.

Kỹ sư Hồ Phước Hoàn- Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư và nghiên cứu kỹ thuật thủy sản tỉnh- cho biết: “Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi đã cung cấp một số lượng đáng kể cá măng giống cho người dân ở Quy Nhơn, Tuy Phước và ở ngoài tỉnh. Theo thông tin phản hồi thì cá măng giống khi chuyển sang nuôi thương phẩm phát triển rất tốt. Chúng tôi sẽ chuyển giao quy trình cho các trại sản xuất tôm giống và những hộ dân có nhu cầu nhằm đảm bảo nguồn cá măng cung cấp cho người nuôi. Đây là nỗ lực nhằm giảm thiểu áp lực cho các vùng nuôi tôm bị dịch bệnh và đa dạng hóa các đối tượng thủy sản được nuôi”.

Những năm gần đây, vấn đề dịch bệnh tôm bùng phát, gây thiệt hại lớn về kinh tế. Một trong những nguyên nhân là do sự mất cân bằng sinh thái từ các hoạt động nuôi trồng thủy sản mang tính độc canh. Do vậy, vấn đề đa dạng hóa hình thức và đối tượng nuôi là một trong những biện pháp mang lại tính ổn định và góp phần tạo cân bằng sinh thái trong các vùng nuôi. Ngoài cá rô phi đơn tính, cua,... cá măng là một sự lựa chọn nữa mà người dân có thể nuôi xen với tôm.

Mai Hồng

 


Cà Mau: Hội thảo về Tự do hoá thương mại- Đói nghèo nông thôn và Môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản

Nguồn tin: CM, 31/8/2006
Ngày cập nhật: 1/9/2006

 


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang