• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Nuôi cua luân canh trong ao tôm sú

Nguồn tin: BThuan, 11/08/2006
Ngày cập nhật: 16/8/2006

Xã Tân Thắng, huyện Hàm Tân là xã ven biển có diện tích nuôi thủy sản nước mặn, lợ khoảng 187ha chủ yếu tập trung ở các thôn Gò Găng, Hiệp Hòa, Thắng Hải, Hà Lãng. Cũng như nhiều vùng nuôi khác, diện tích nuôi tôm sú xã Tân Thắng nói riêng và các vùng nuôi tôm sú tỉnh Bình Thuận nói chung trong các năm qua liên tục được mở rộng. Tuy nhiên thời gian gần đây, nghề nuôi tôm sú luôn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là trong vụ nuôi II (vụ phụ) do môi trường ao nuôi xuống cấp, ý thức cộng đồng về quản lý môi trường còn hạn chế, … do đó hiện tượng dịch bệnh luôn xảy ra trên đối tượng nuôi gây thiệt hại đáng kể cho người nuôi.

Trạm Khuyến ngư Hàm Tân hàng năm luôn đưa ra các khuyến cáo cho người nuôi như chỉ nên nuôi tôm sú một vụ – vụ chính, vụ còn lại nên cải tạo lại thật kỹ ao hồ hoặc có thể nuôi các đối tượng khác ít rủi ro hơn như cá chẽm, đặc biệt là cá rô phi đơn tính để cải thiện lại môi trường nhằm nuôi tốt hơn trong vụ nuôi sau. hơn ba năm trở lại đây, Trung tâm Khuyến ngư Bình Thuận nói chung và Trạm Khuyến ngư Hàm Tân nói riêng đã triển khai nhiều mô hình nuôi cá rô phi đơn tính trong ao nuôi tôm, kết quả được người nuôi đánh giá cao do cá rô phi mang lại không chỉ lợi ích về mặt kinh tế mà quan trọng hơn là vấn đề môi trường như các chất thải tích tụ đáy ao được phân giải, môi trường ao nuôi được cải thiện đáng kể… qua đó đã giúp cho nhiều hộ nuôi thành công con tôm sú trong vụ sau (vụ chính). Ngoài một số đối tượng nuôi trong vụ II nói trên thì hiện nay trên địa bàn thôn Hà Lãng và thôn Thắng Hải của xã Tân Thắng, huyện Hàm Tân còn xuất hiện một đối tượng nuôi mới, đó là nuôi cua luân canh trong ao nuôi tôm sú khi vụ nuôi I (vụ chính) kết thúc. Đây là đối tượng người dân nuôi tự phát trong thời gian gần đây và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Theo bác Phúc – một người nuôi cua tại thôn Thắng Hải cho biết, tại 2 thôn này trong vụ II vừa qua có khoảng 10ha diện tích nuôi cua, trong đó diện tích đã thu hoạch khoảng 7ha, đa số người nuôi đều có lãi và hiện tại còn khoảng 3ha đang thu tỉa. Bác Phúc cho biết thêm: nuôi cua trong vụ II bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 11 người nuôi thả giống. Một số ít hộ khi thu tôm xong cải tạo lại ao hồ rồi mới thả giống, nhưng đa số hiện nay bà con thu tôm xong là mua cua giống về thả trực tiếp nên chi phí cải tạo ao hầu như không có. Tùy kích cỡ con giống lớn hay nhỏ mà thời gian nuôi có khác nhau vì nguồn giống cua nuôi hiện nay chủ yếu được mua gom từ tự nhiên tại địa phương và các vùng lân cận của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Thông thường cua giống nuôi ở địa phương cỡ 15-35 con/kg, qua thời gian nuôi khoảng 2-3 tháng khi cua đạt 3-4 con/kg là có thể thu hoạch. Ở vụ nuôi cua vừa rồi, ao của bác Phúc có diện tích 0,5ha khi thu hoạch tôm sú xong bác thả trực tiếp khoảng 150kg con cua giống cỡ 30 – 35con/kg (giá giống 30.000đ/kg). Hàng ngày bác cho cua ăn 1 lần, thức ăn là chằng chằng, cá tạp. Qua thời gian gần 2 tháng nuôi bác bắt đầu thu tỉa cho đến lúc 3 tháng là thu hoạch xong. Sản lượng thu hoạch 750kg cua thương phẩm cỡ 3 – 4 con/kg. Theo giá thị trường, cua gạch cỡ 3 – 4 con/kg có giá khoảng 150.000đ/kg, cua Y (cua đực) có giá khoảng 90.000đ/kg. Trừ các khoản chi phí ở vụ nuôi cua đó bác lãi hơn 40 triệu đồng.

Hiện nay, nhu cầu nuôi cua trong ao nuôi tôm vụ II của các hộ nuôi tại xã Tân Thắng là rất lớn. Tuy nhiên, vấn đề kỹ thuật vẫn chưa được bà con quan tâm đúng mức, do đó thời gian tới Trung tâm Khuyến ngư Bình Thuận sẽ hỗ trợ về mặt kỹ thuật để giúp cho người nuôi đạt hiệu quả cao hơn. Một trở ngại lớn trong việc nuôi cua hiện nay là vấn đề con giống. Trong các vụ nuôi gần đây, hầu hết giống nuôi đều được mua gom ngoài tự nhiên có kích cỡ giống không đồng đều, do đó gây hao hụt đáng kể trong quá trình nuôi, do cua lột xác phát triển chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau. Vì vậy hiện nay Viện nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản III sản xuất thành công cua giống sẽ đáp ứng nhu cầu cho các hộ nuôi.

LÊ ĐÌNH KHANH

 


Vĩnh Phúc nuôi cá rô đồng công nghiệp cho thu nhập 100 triệu đồng/ha

Nguồn tin: Fistenet, 14/8/2006
Ngày cập nhật: 16/8/2006

Từ đầu năm đến nay, Trung tâm khuyến nông tỉnh Vĩnh Phúc được Sở khoa học và công nghệ giúp đỡ đã thực hiện thành công mô hình nuôi cá rô đồng theo hướng công nghiệp tại hai hộ dân cho thu nhập cao và đang mở ra diện rộng.

Tại mỗi ao nuôi thí điểm khoảng 1.000 m2, sau 160 đến 180 ngày sẽ cho thu nhập khoảng 4.500 kg, giá bán lúc thấp nhất cũng đạt 10.000 đồng/kg, cho thu nhập từ 45 đến 50 triệu đồng/vụ. Nếu tính theo ha sẽ thu nhập từ 80 đến 100 triệu đồng/ha.

Theo Econet, 14/8/2006


BRVT: Chuyển giao khoa học - kỹ thuật bằng mô hình trình diễn khuyến ngư

Nguồn tin: BRVT, 15/8/2006
Ngày cập nhật: 16/8/2006

Những năm gần đây, nhờ sự chuyển giao khoa học-kỹ thuật của Trung tâm Khuyến ngư đến với bà con nông, ngư dân, nghề nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh, sản lượng nuôi trồng đạt 6.300 tấn/năm. Trong chuyển giao khoa học-kỹ thuật khuyến ngư, vai trò công tác xây dựng mô hình trình diễn khuyến ngư rất hiệu quả.

Nghề nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh hiện đang phát triển mạnh. Bên cạnh việc nuôi cá nước ngọt, phong trào nuôi tôm sú, hàu, ốc hương, cá mú đã phát triển mạnh và thu hái kết quả khả quan. Diện tích nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh đã tăng lên 8952 ha, trong khâu nuôi đã có chuyển biến đáng kể về kỹ thuật nuôi. Với vai trò cầu nối giữa kiến thức khoa học- kỹ thuật với nông, ngư dân, Trung tâm Khuyến ngư tỉnh tập trung chuyển giao kỹ thuật cho nông dân các xã có điều kiện nuôi cá nước ngọt như: Châu Pha, Tóc Tiên, Mỹ Xuân, Tân Phước, Phước Hòa, Tân Hải (huyện Tân Thành), Long Tân, Láng Dài, Lộc An (huyện Đất Đỏ), An Ngãi, thị trấn Long Điền, An Nhứt (huyện Long Điền) phường 8 (TP. Vũng Tàu), các phường Phước Hưng, Long Hương, xã Long Phước (TX. Bà Rịa)…

Phong trào nuôi tôm cũng phát triển mạnh với tổng diện tích 7.368 ha, trong đó, diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh chiếm 590 ha. Một số vùng nuôi tôm công nghiệp hình thành tự phát từ những vùng đất ngập mặn hoang hóa nay đã hoàn thiện dần cơ sở hạ tầng và ổn định về năng suất như Phước Thuận (huyện Xuyên Mộc), Lộc An (huyện Đất Đỏ), Long Hương (TX. Bà Rịa), An Ngãi (huyện Long Điền). Năng suất tôm đạt khá cao, bình quân từ 5-7 tấn/ha (nuôi công nghiệp); đối với những diện tích nuôi quảng canh cũng đạt 2 tấn/ha. Đã có những hộ nông, ngư dân nuôi tôm sú công nghiệp cho thu nhập cao như hộ ông Ngô Văn Lượng, ở xã Mỹ Xuân (huyện Tân Thành), nuôi tôm sú quảng canh cải tiến, đạt doanh thu 1,2 tỷ đồng/năm. Hộ ông Nguyễn Văn Hoa, ở xã An Ngãi (huyện Long Điền) nuôi thâm canh 2,5 ha tôm sú, năng suất đạt 4 tấn/ha/vụ.

Thành công trong nuôi tôm, cá không ngoài sự hỗ trợ đắc lực trong việc chuyển giao khoa học-kỹ thuật nuôi từ khâu chuẩn bị ao đến khâu chọn giống, chăm sóc, trị bệnh tôm, cá của Trung tâm Khuyến ngư. Qua chuyển giao khoa học-kỹ thuật khuyến ngư, mô hình trình diễn khuyến ngư đã cung cấp cho bà con nông ngư dân về quá trình cải tạo ao, chọn giống, quy trình kỹ thuật nuôi, chăm sóc, chi phí và kết quả hiện tại. Riêng từ đầu năm 2006 đến nay, Trung tâm Khuyến ngư đã xây dựng và thực hiện 12 mô hình trình diễn về nuôi cá rô đồng, cá rô phi đơn tính, nuôi ếch lồng, nuôi tôm sú ở các xã vùng sâu, vùng xa như: Mô hình nuôi cá rô phi đơn tính của ông Phú Văn Ngợi, ở ấp 5, xã Hòa Hội (huyện Xuyên Mộc); mô hình nuôi ếch lồng của ông Phạm Văn Toán, ở khu vực Len, ấp Núi Nhọn, xã Láng Dài (huyện Đất Đỏ); mô hình nuôi cá rô phi đơn tính của ông Bùi Văn Xồi, ở thôn Tam Long, xã Kim Long (huyện Châu Đức)…

Việc chọn đối tượng để thực hiện mô hình được Trung tâm Khuyến ngư xem xét rất kỹ lưỡng, chủ mô hình phải là những người có tâm huyết đối với việc nuôi trồng thủy sản, có khả năng tiếp nhận được khoa học-kỹ thuật, có tính cộng đồng, có khả năng vận động mọi người làm theo, có khả năng hợp tác tốt với Trung tâm Khuyến ngư và các cơ quan liên quan, có công trình nuôi đạt yêu cầu.

Thu Phong

 


23 công ty sẽ thoát việc xét lại mức thuế tôm

Nguồn tin: VNN, 15/08/2006
Ngày cập nhật: 16/8/2006

 


Thừa Thiên – Huế: Mưa lũ tại TT-Huế đã gây thiệt hại đáng kể cho sản xuất nông nghiệp, thủy sản.

Nguồn tin: TP, 15/08/2006
Ngày cập nhật: 16/8/2006

 


Thu hoạch hơn 100.000 tấn tôm

Nguồn tin: SGGP, 15/8/2006
Ngày cập nhật: 15/8/2006

Vụ Nuôi trồng thủy sản (Bộ Thủy sản) cho biết, cả nước đang bắt đầu bước vào nuôi thả tôm vụ 2. Tính đến ngày 14/8, diện tích tôm giống được thả nuôi tại 23 tỉnh đã đạt tới 559.648 ha (trong đó Bến Tre thả giống được 32.292ha, Sóc Trăng: 44.657ha, Bạc Liêu: 120.407ha, Cà Mau: 247.00ha).

Đồng thời, việc thu hoạch tôm vụ 1 cũng sắp kết thúc. Theo báo cáo sản lượng tôm nuôi thương phẩm thu hoạch đã đạt sản lượng hơn 100.000 tấn. Trong đó các tỉnh có sản lượng lớn là: Bến Tre: 10.428 tấn, Sóc Trăng: 14.844 tấn, Bạc Liêu: 14.476 tấn, Cà Mau: 37.000 tấn ...

V.PH.

 


Vụ việc ông Bửu Huy, Phó GĐ Afiex bị bắt giữ tại Bỉ: Bài học đắt giá cho hội nhập

Nguồn tin: VTV, 14/8/2006
Ngày cập nhật: 15/8/2006

 


Khánh Hoà: Sản lượng tôm hùm lồng tăng 19%

Nguồn tin: TTXVN, 13/8/2006
Ngày cập nhật: 15/8/2006

Theo Sở Thủy sản Khánh Hòa, năm nay thời tiết thuận lợi nên nghề nuôi tôm hùm lồng, bè ở Khánh Hòa đạt sản lượng khá; đến trung tuần tháng 8, toàn tỉnh đã thu hoạch được hơn 500 tấn tôm hùm, tăng 19% so với cùng kỳ năm ngoái.

Các huyện Vạn Ninh, Ninh Hòa, Cam Ranh và Nha Trang đều tăng sản lượng tôm hùm từ 15% đến 22% nhờ phát triển mạnh số lồng bè trong những năm gần đây. Hiện toàn tỉnh có gần 27.700 lồng bè tôm hùm, tăng hơn 3.000 lồng so với cuối năm ngoái.

Năm 2006, toàn tỉnh ước đạt doanh thu từ 700 đến 800 tỷ đồng từ tôm hùm nuôi./.

 


Diện tích nuôi thủy sản trên địa bàn toàn tỉnh đạt trên 2.150 ha

Nguồn tin: AG, 14/8/2006
Ngày cập nhật: 15/8/2006

Theo thống kê của các ngành chức năng, tổng diện tích nuôi thủy sản trên địa bàn toàn tỉnh từ đầu năm đến nay đạt trên 2.150 ha, tăng khoảng 160 ha so với cùng kỳ năm 2005, trong đó diện tích thả cá 1.400 ha, diện tích sản xuất cá giống hơn 134 ha. Riêng nuôi tôm càng xanh đã mở rộng diện tích trên 620 ha, tăng 136 ha so vời cùng kỳ năm trước do giá cả ổn định. Bên cạnh đó các ngân hàng thương mại trong tỉnh đã đầu tư vốn cho vay theo chương trình phát triển thủy sản trên 336 tỷ đồng, trong đó có 320 hộ nuôi cá bè, hơn 3.900 hộ nuôi ao hầm... với tổng dư nợ cho vay theo chương trình phát triển thủy sản trong toàn tỉnh hơn 551 tỷ đồng, giúp cho ngư dân có điều kiện để đầu tư mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản, nhất là các mô hình đạt hiệu quả kinh tế cao trong mùa nước nổi.

Thiện Son

 


Xây dựng Trung tâm cảnh báo môi trường thủy sản

Nguồn tin: TTXVN, 14/08/2006
Ngày cập nhật: 15/8/2006

Bộ trưởng Bộ Thủy sản vừa ký quyết định đầu tư gần 69 tỷ đồng xây dựng Trung tâm quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thủy sản khu vực miền Bắc, tại xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Mục tiêu của dự án là cung cấp thông tin thường xuyên về môi trường và dịch bệnh cho nuôi trồng thủy sản, giám sát phòng ngừa dịch bệnh và cảnh báo môi trường, xây dựng hệ thống lưu trữ và phân tích dữ liệu chất lượng môi trường và dịch bệnh làm cơ sở chứng minh cho hàng rào chất lượng sản phẩm.

Trung tâm sẽ cung cấp thông tin làm cơ sở quy hoạch, phân phối vùng nuôi trồng góp phần hoạch định hướng phát triển ngành thủy sản và nông nghiệp, hình thành chương trình kiểm sóat môi trường và dịch bệnh vùng nuôi trọng điểm và xây dựng chiến lược phát triển bền vững cho ngành nuôi trồng thủy sản tại miền Bắc.

Trước mắt, dự án sẽ xây dựng 1 trạm Trung tâm và 4 trạm vùng, 46 điểm đo cố định, đảm bảo việc quan trắc và cảnh báo các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường nuôi trồng và dịch bệnh thủy sản toàn miền Bắc./.


Saigon Petro hợp tác sản xuất Bio-Diesel từ mỡ cá tra

Nguồn tin: VNN, 14/8/2006
Ngày cập nhật: 14/8/2006

Lãnh đạo Saigon Petro vừa ký kết bản ghi nhớ với Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản An Giang (Agifish) về việc thành lập Công ty Liên doanh sản xuất diesel sinh học (Bio-Diesel) từ mỡ cá tra, cá basa.

Ông Nguyễn Đình Huấn, Phó Tổng giám đốc Agifish, cho biết, một nhà máy sản xuất dầu diesel sinh học từ mỡ cá tra sẽ được xây dựng tại An Giang, với công suất khoảng 10.000 tấn/năm. Thiết bị của nhà máy sẽ được nhập ngoại.

Trong tuần này, hai bên tiếp tục đàm phán về đối tác tham gia liên doanh, tỷ lệ góp vốn cũng như địa điểm xây dựng nhà máy.

Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Lâm Minh Chiếu cho rằng, đây là dự án tốt khởi đầu cho hàng loạt các dự án hợp tác liên doanh giữa TP.HCM và An Giang và sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để dự án được triển khai trong đầu quý IV/2006.

Hiện mỗi năm ĐBSCL tiêu thụ khoảng 400.000 tấn cá basa, cá tra nguyên liệu. Trong đó, mỡ cá khoảng 60.000 tấn (chiếm 15%), số lượng này càng ngày càng nhiều theo từng năm - nguồn nguyên liệu chính để sản xuất Bio-Diesel. Sau hơn 2 năm nghiên cứu thử nghiệm, Công ty Agifish đã sản xuất thành công dầu diesel sinh học từ mỡ cá tra cá basa, với những tính năng vượt trội so với dầu diesel sản xuất từ dầu mỏ, ít khí thải, không độc hại.

Hà Yên

 


Dự án nuôi tôm tại Ninh Thuận: Tiếp tục lãng phí!

Nguồn tin: TP, 14/08/2006
Ngày cập nhật: 14/8/2006

Mục tiêu là xây dựng hoàn chỉnh khu nuôi tôm công nghiệp 113 ha, sản lượng 700 tấn/năm, vốn đầu tư gần 43 tỷ đồng, thực hiện từ quý 3/2000 đến 2004. Sau 2 năm, Thanh tra tỉnh phải vào cuộc, kết luận có quá nhiều sai phạm...

Đìa tôm… thả cừu

Sau 2 năm thi công, Thanh tra tỉnh phải vào cuộc, kết luận có quá nhiều sai phạm trong quá trình triển khai dự án và UBND tỉnh Ninh Thuận đã xử lý kỷ luật các đơn vị và cá nhân liên quan.

Giữa tháng 8/2006, chúng tôi trở lại vùng dự án, chưa thấy có hạng mục công trình nào hoàn chỉnh: Hồ chứa nước núi Một mới làm được cái máng dẫn nước; hệ thống kênh nước ngọt bị sạt lở nhiều đoạn; hệ thống ống dẫn nước mặn bị xì đầu nối; các ống dẫn nước bằng sắt phơi mưa nắng…

Gặp một chủ đìa tôm đang nuôi 0,5 ha, ông cho biết các chủ đìa tôm Sơn Hải bị thất bại liên tiếp: Năm 2003 bị bão lũ phá đìa và năm 2004 bị dịch bệnh. Cuối năm 2005 và đầu năm 2006, bà con nuôi khoảng 35 ha tôm và nhiều hộ có lãi từ vài chục đến vài trăm triệu.

Khó khăn nhất của bà con hiện nay là lấy nước mặn từ biển: Nuôi 0,5 ha phải bơm nước biển 6 ngày 6 đêm mới đủ nước vì máy bơm công suất thấp, ống dẫn nhỏ. Mới đây, khi vận hành thử trạm bơm nước mặn thì máy bị hỏng, còn đường ống dẫn bị xì các đầu nối…

Trao đổi với Chủ tịch UBND xã Sơn Hải, ông Phạm Thanh Bình cho biết chỉ còn 1 hộ trong vùng dự án chưa thỏa thuận đền bù mặt bằng được vì hộ này đòi giá cao hơn quy định.

Theo ông Bình, để tạo điều kiện cho bà con sản xuất trong khi chờ dự án hoàn thành, trước mắt cần hoàn chỉnh 2 trạm bơm cũng như hệ thống kênh dẫn nước mặn, còn nước ngọt thì bà con tiếp tục lấy từ giếng khoan.

Một dự án đã tiêu tốn mấy chục tỷ đồng chưa đâu vào đâu thì ngừng thi công hai năm nay, gây nhiều lãng phí và làm mất lòng tin của nhân dân đối với chủ trương đúng đắn của Nhà nước.

Hy vọng rằng tỉnh Ninh Thuận sớm có kế hoạch tiếp tục thi công để nhanh chóng đưa khu nuôi tôm công nghiệp Sơn Hải vào hoạt động, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Nguyễn Huỳnh

 


Sông Cầu: Đa dạng hóa các đối tượng nuôi trồng thủy sản

Nguồn tin: PY, 14/8/2006
Ngày cập nhật: 14/8/2006

Các vùng nuôi thủy sản Sông Cầu (Phú yên) đang đẩy mạnh chương trình đa dạng hóa đối tượng nuôi trồng. Bên cạnh con tôm hùm và tôm sú là đối tượng chủ lực, trong 7 tháng qua, bà con đã thả nuôi 25 ha vẹm xanh, 220 ha rong câu sụn, 5 ha cá mú cùng hàng chục hecta tôm thẻ chân trắng, cá hồng, ốc hương, cua, ghẹ, ba ba. Đáng chú ý trong năm nay diện tích nuôi vẹm xanh tăng lên gấp 5 lần, rong câu tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Bà con đã thu hoạch được 10 tấn vẹm xanh (giá bán từ 7.500 đến 8.000/ký), 190 tấn rong câu sụn (giá bán từ 9.000 đồng đến 10.000 đồng/ký).

KIỀU BA


Giá cá tra nguyên liệu tăng trở lại

Nguồn tin: CT, 12/08/2006
Ngày cập nhật: 13/8/2006

 


Tỷ phú nhờ nuôi cá điêu hồng

Nguồn tin: BT, 12/08/2006
Ngày cập nhật: 13/8/2006

Cá điêu hồng (còn gọi là cá rô phi đỏ), là một trong những loài cá được nuôi phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long, giống cá này có nguồn gốc từ Thái Lan được du nhập vào nước ta vào năm 1985. Hơn 5 năm qua, giống cá điêu hồng được nông dân Bến Tre đầu tư nuôi để phát triển kinh tế hộ gia đình, kết quả rất khả quan nhất là những hộ nuôi theo mô hình lồng bè trên sông Tiền. Diện tích nuôi cá điêu hồng hiện nay phát triển khá nhanh, nhất là ở xã Phú Túc (Châu Thành), điển hình nhất là hộ chị Phạm Thị Bé Ba, ở cồn Tân Mỹ thuộc ấp văn hóa Phú Mỹ (Phú Túc), thu lợi nhuận về gần 1,6 tỷ đồng/năm.

Vào năm 2000, chị Bé Ba bắt đầu nuôi cá điêu hồng bằng lồng bè, do tiền vốn có giới hạn nên chị chỉ đóng 1 bè có thể tích 216m3, thả nuôi khoảng 40.000 con, sau 6 tháng thu hoạch được gần 16 tấn cá thịt thu về gần 371 triệu đồng, trừ chi phí đóng bè, con giống, thức ăn, còn lại gần 100 triệu đồng.

Từ thắng lợi ban đầu, đến nay chị Bé Ba đã phát tiển lên đến 11 bè nuôi cá điêu hồng, nâng thể tích 1.500m3, tổng số cá nuôi hàng năm hơn 480.000 con (tương đương với khoảng 240 tấn). Cũng từ năm 2000 đến nay, mỗi tháng chị Bé Ba cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh khoảng 20 tấn cá thịt (mỗi con nặng 400gram đến gần 1kg) thu lợi nhuận về hơn 720 tiệu đồng/năm. Được hỏi về kinh nghiệm nuôi cá điêu hồng, chị Bé Ba vui vẻ không giấu kinh nghiệm: “Thật ra nuôi cá điêu hồng không phải dễ, nếu ai nuôi lần đầu thì không thể tránh mùi thất bại, cho nên phải kiên nhẫn đừng nản lòng. Qua 5 năm nuôi cá điêu hồng, tôi cũng vài lần bị thất bại (thất bại ở đây là cá chết nhiều, lợi nhuận có nhưng ít thôi). Tôi thường xuyên tìm hiểu kỹ thuật nuôi cá điêu hồng từ các tài liệu, các kỹ sư ngành thuỷ sản và báo, đài, kết hợp với quá trình nuôi mà rút kinh nghiệm. Thấy rằng, cá điêu hồng dễ bị bệnh, nhất là vào thời điểm giao mùa mưa và nắng, có khi chúng chết còn phân nửa. Nguyên nhân do bệnh ký sinh trùng tác động đến cá con trong lúc ươm giống (dễ thấy nhất là cá con bị bệnh đốm trắng). Để trị bệnh này, thì tắm cho cá bằng formol nồng độ 25 - 30ml/m3 trong thời gian dài, nếu trị trong vòng 15 - 30 phút thì tăng nồng độ lên từ 100 - 150 ml/m3, có thể sử dụng phèn xanh (CuSO4) nồng độ 2 - 5g/m3 trị thời gian dài và 20 - 50g/m3 trong thời gian từ 15 - 30 phút (cách này chỉ sử dụng duy nhất 1 lần). Cách thứ 3 là sử dụng muối ăn để phòng trị bệnh cho cá với nồng độ 1% trị thời gian dài và 1 - 2% trong thời gian 10 - 15 phút. Bệnh thứ 2 là xuất huyết do vi khuẩn Aemomas hydrophia hoặc Edwardsiella tarda gây ra, bệnh này cá có dấu hiệu toàn thân xuất huyết, hậu môn sưng lồi, bụng trương to, có dịch vàng hoặc hồng, đầu và mắt cá sưng lồi ra, cần sử dụng kháng sinh Oxytetracycline 20 - 25g/m3 tắm trong vòng 60 phút hoặc trộn 20 - 25g/100kg thức ăn. Có thể sử dụng Tetracycline từ 20 - 25g/m3 tắm trong 60 phút hoặc trộn 100mg/1kg thức ăn. Hoặc sử dụng Rifamycine 10 - 29g/m3 tắm trong 60 phút. Nên thường xuyên định kỳ bón và khử trùng nơi cho cá ăn, bằng cách bón vôi, khử trùng nước,có thể trộn Vitamin C vào thức ăn cho cá tỷ lệ tùy theo tình trạng bệnh nặng hay nhẹ. Để cho cá tránh trường hợp trương bụng do thức ăn, không nên cho cá ăn bằng thức ăn tự pha chế mà phải sử dụng thức ăn công nghiệp dành cho cá, góp phần giảm ô nhiễm môi trường nước và trong thức ăn nên bổ sung men tiêu hóa như: probiotic. Nguồn nước nuôi cá cần phải trong, phù sa nhiều quá cá sẽ chết. Khi cá đạt trọng lượng từ 0,4 đến 1kg thì thu hoạch đồng loạt.”

Bên cạnh nuôi cá điêu hồng lấy thịt, từ đầu năm 2006 đến nay, chị Bé Ba nuôi cá giống điêu hồng, nguồn cá bột chị lấy từ Long An và Tiền Giang, sau 45 đến 60 ngày ươm khi cá có kích cỡ đồng đều, bơi khỏe màu sắc đẹp, mỗi kg từ 60 đến 70 con là xuất ao. Với diện tích 3ha nuôi cá giống, mỗi tháng chị xuất khoảng 15 tấn cho các hộ nuôi ở Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp… giá bán hiện tại 24.000đồng/kg, sau khi trừ chi phí còn lợi nhuận ước tính gần 900 triệu đồng/năm. Hiện nay, chị đang đào mới 3ha từ vườn nhãn kém hiệu quả để nâng diện tích ao ươm cá giống điêu hồng.

Ngoài việc, nuôi cá phát triển kinh tế hộ gia đình, chị Bé Ba còn góp phần tạo việc làm ổn định cho 40 lao động tại địa phương với mức thu nhập từ 600.000 đồng đến hơn 1 triệu đồng/tháng. Đặc biệt, hộ anh Bùi Ngọc Linh thuộc hộ nghèo, từ đầu năm đến nay được chị Bé Ba, cho thuê lại 1.000m2 ao nuôi để ươm cá giống điêu hồng, mỗi tháng thu về 5 triệu đồng. Anh Linh quá vui mừng: “Nhờ chị Bé Ba đây mà gia đình tôi thực sự thoát nghèo, trong năm 2006 này ước tính thu nhập riêng từ cá giống của tôi được 60 triệu đồng, số tiền này trước đây tôi nằm mơ cũng không thấy, có thể nói chị Bé Ba là vị cứu tinh của gia đình tôi.”

Theo ông Trần Văn Út – Chủ tịch UBND xã Phú Túc, từ mô hình nuôi cá điêu hồng của chị Bé Ba, đến nay toàn xã có 13 hộ nuôi cá giống điêu hồng, mỗi năm xuất khoảng 324 tấn cá giống (trong đó có 6 hộ cá điêu hồng lấy thịt, cung cấp cho thị trường hơn 2.500 tấn cá/năm). Hiện nay, xã đang vận động nhân rộng mô hình nuôi cá điêu hồng ở 2 cồn còn lại của ấp Phú Mỹ là cồn Thùng và cồn Bồn Thôn.

Hoàng Vũ


Nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo lưới

Nguồn tin: BT, 12/08/2006
Ngày cập nhật: 13/8/2006

Đến thăm trang trại của chị Phan Thị Vân ở ấp 3 xã Thạnh Trị, huyện Đình Đại, nằm bên dòng Ba Lai hiền hòa vào những ngày cuối tháng 7 đã thật sự thu hút tôi bởi màu xanh của cây lá mà trước đó vài năm là một vùng đất cằn cổi không trồng được gì bởi nước mặn. Lối vào đã rợp bóng mát của hàng cây so đủa mà chị trồng để cải tạo đất và lấy lá để nuôi dê. Nhưng điều làm tôi thật sự chú ý lại là những vèo lưới lớn, nhỏ đủ cở được giăng dưới những ao mà trước đây là nơi nuôi cá lóc công nghiệp. Và khi bắt chuyện tôi mới biết đó là những vèo đang nuôi cá lóc chứ không phải là những vèo ươm cá giống như các trại cá khác.

Nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo, một mô hình thật lạ và nó có lợi gì hơn so với trong ao, trong hầm? Nhớ lại 3 năm trước, năm 2003 chị Vân bắt tay vào nghề nuôi thủy sản nước ngọt với nhiều loại như: Rô phi, Điêu hồng, Rô đồng, cá lóc, cá sấu, ba ba… nhưng đối tượng được chị chọn nuôi chủ lực để tập trung đầu tư chính là con cá lóc. Năm 2004, chị Vân bắt tay vào nuôi thử nghiệm cá lóc môi trề có nguồn gốc từ An Giang và Đồng Tháp. Bước đầu gian nan và gặp không ít khó khăn do chưa có kinh nghiệm nên cá hao hụt nhiều và thường hay mắc bệnh. Trầy trật mãi cuối cùng chị cũng gặt hái được thành công. Vụ nuôi đầu tiên, 2 ao cá lóc cho sản lượng hơn 20 tấn trị giá trên 400 triệu đồng, trừ hết chi phí chị lãi được trên 100 triệu đồng.

Thừa thắng xông lên, năm 2005, chị Vân tăng lên 4 ao nuôi với diện tích hơn 10.000m2, với lượng cá giống thả nuôi trên 300 ngàn con. Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc công nghiệp không khó lắm, điều quan trọng là yếu tố con giống, nguồn nước, thức ăn và phòng trị bệnh; nếu mua con giống không đồng đều, cá bị xây xát, có lượng cá lóc đồng pha trộn thì sẽ bị hao hụt nhiều hoặc chậm lớn. Năm 2005, sau 6 tháng nuôi, chị Vân lại trúng đậm, trọng lượng bình quân mỗi con đạt trên 1kg, sản lượng của 4 ao nuôi đạt 57 tấn, giá bán bình quân 18.000đồng/kg, chị đã thu về trên 1 tỉ đồng, lãi 270 trịêu đồng tương đương với thực lãi 1 ha mặt nước nuôi tôm sú thâm canh, nhưng mức độ thiệt hại và rủi ro không đáng kể. Tuy liên tục thắng lợi nhưng chị vẫn băng khoăn về con giống hao hụt, chậm lớn và kích cỡ không đều, bị tư thương ép giá làm chị trăn trở mãi, thôi thúc chị đến tận An giang, Đồng Tháp để học hỏi.

Năm 2006 này, chị quyết định ứng dụng mô hình nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo lưới, trong ao đất 2000m2 trước đây, chị cho đặt nhiều vèo lưới theo độ tuổi của cá bao gồm vèo ươm, vèo nuôi cá tăng trưởng và vèo nuôi cá thương phẩm. Tuỳ theo độ tuổi của cá mà mật độ mỗi vèo khác nhau. Vèo nuôi cá thương phẩm với mật độ là 50 con/m2. Vèo được xây dựng hình vuông hoặc hình chữ nhựt, đáy vèo đặt cách đáy ao khoảng 5 tấc, độ sâu nước trong vèo phải đạt từ 2,5m trở lên. Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc trong vèo có nhiều ưu điểm như mật độ nuôi cao để có sản lượng lớn, thức ăn được tập trung, cá không bị cọ sát đáy ao hoặc không chui được xuống bùn nên ít bị xây xát, cá tập trung ăn và ngủ rồi lại ăn, ít nhiễm bịnh nên tỉ lệ hao hụt thấp và nhất là việc xử lý thuốc phòng trị bịnh cho cá thuận lợi và ít tốn kém hơn trong ao đất. Đặc điểm cá nuôi trong vèo lưới tăng trọng nhanh và kích cỡ đồng đều. Gía trị thương phẩm cao hơn cá thả lan. Đồng thời, bên ngoài vèo lưới thả thêm các loại cá ăn tạp nhằm cải tạo ao, tận dụng thức ăn thừa, đây cũng là nguồn thu không nhỏ.

Tâm sự với chúng tôi, chị cho biết toàn bộ lượng cá lóc đang nuôi trong các vèo lưới hơn 117 ngàn con đều là cá giống được chị cho sinh sản và ươm nuôi tại các ao nuôi của chị từ 180 con cá lóc bố mẹ đã được tuyển chọn, nuôi dưỡng cho đẻ. Với những con cá lóc bố mẹ có trọng lượng mỗi con từ 3 đến 4 kg cho đẻ trứng trong các ổ nhân tạo, sau khi cá đẻ, trứng được vớt lên ấp nở rồi ươm lên cá giống. Tuy tỉ lệ ươm cá giống chỉ đạt hơn 5%, nhưng những gì thành công bước đầu cũng đã mở ra triển vọng cho chị và ngưới nuôi trong tỉnh.

Việc thành công nuôi cá lóc trong vèo lưới của chị Vân làm tôi nhớ lại những thử nghiệm của anh Lê văn Nhỏ ở ấp 2 xã Phú Long, huyện Bình Đại, cũng nuôi cá lóc trong vèo lưới với qui mô nhỏ hơn, mỗi vèo lưới chỉ 30m2 ( mật độ 100con/m2), cũng bằng thức ăn cá biển xay. Sau 4 tháng nuôi đạt trọng lượng bình quân 700g/con, thu được 2,5 tấn, trừ chi phí anh Lê văn Nhỏ còn lãi 26 triệu đồng và lượng cá nuôi xen ngoài ao đất.Tương tự chú Nguyễn văn Long ấp Tân Hưng xã Hưng Khánh Trung, huyện Chợ Lách, năm 2005 cũng đã tận dụng mương vườn nuôi cá lóc trong vèo lưới với qui mô nhỏ cũng đã có lãi. Điều này, cho thấy đây là mô hình có thể nhân rộng và phát triển qui mô nuôi theo khả năng của từng hộ gia đình.

Vẫn là người đi dầu trong nghề nuôi cá lóc thương phẩm thâm canh ở Bến tre, chị Vân lại một lần nữa minh chứng cho sự nhạy bén, năng động trong phát triển kinh tế và tinh thần lao động sáng tạo trong sản xuất, chị cho biết, mới đây chị vừa thu hoạch ao cá lóc bông, sản lượng 13 tấn và trong tháng 8 này sẽ thu tiếp một ao cá lóc bông ước sản lượng khoảng 25 tấn và cũng vừa thả nuôi thêm một ao cá lóc bông nữa.

Có thể nói, trong quá trình chuyển dịch kinh tế thủy sản vùng nuớc ngọt ở Bến Tre, nhiều mô hình nuôi thuỷ sản đã đem lại hiệu quả cho người nông dân, trong đó mô hình nuôi cá lóc công nghiệp thâm canh trong vèo lưới của chị Vân đã mở ra cho Tỉnh một tiềm năng mặt nước ở vùng nước ngọt và nhất là hai bên dòng Ba Lai một nghề nuôi không thua gì con tôm sú miệt biển./.

Trần Tâm

 


Nuôi lươn mùa nước nổi mang lại hiệu quả kinh tế cao

Nguồn tin: AG, 11/8/2006
Ngày cập nhật: 12/8/2006

Hàng năm, tận dụng nguồn thức ăn phong phú trong mùa nước nổi, hàng trăm hộ dân trên địa bàn tỉnh đã đầu tư mô hình nuôi lươn trong bồn mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Bình quân mỗi bồn nuôi có diện tích 4 x 6 m, sau 5 tháng nuôi người nuôi lơn thu lợi nhuận khoảng 4 triệu đồng. Đây là mô hình nuôi phù hợp với nhiều gia đình nông dân vì chi phí đầu tư không nhiều nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Anh Nguyễn Văn Triều ở xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn là nông dân nuôi lươn nhiều vụ liền cho biết, do tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có trong mùa nước nổi như : cá tạp, ốc bươu vàng … nên giảm được chi phí thức ăn trong quá trình nuôi lươn. Mùa nước nổi năm nay anh Triều đã đầu tư xây thêm 3 bồn nuôi lươn, nâng tổng số hiện nay gia đình anh có 7 bồn nuôi lươn. Mùa nước nổi năm trước chỉ với 4 bồn nuôi lươn, sau khi trừ tất cả các khoản chi phí anh Triều lãi gần 15 triệu đồng. Nghề nuôi lươn mùa nước nổi đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động nhàn rổi trong và ngoài địa phương bằng nghề bắt ốc bươu vàng làm thức ăn cho lươn.

Nguyễn Hậu

 


Mô hình nuôi cá rô ở xã Vĩnh Phú cho hiệu quả kinh tế cao

Nguồn tin: AG, 8/11/2006
Ngày cập nhật: 12/8/2006

Trong mùa nước năm nay, nhiều hộ nông dân xã Vĩnh Phú, huyện Thoại Sơn đã tận dụng diện tích ao hầm để nuôi cá rô đồng, mang lại hiệu quả kinh tế khá cao.

Năm nay là năm thứ 3 liên tiếp ông Trần Hữu Phước, ở ấp Trung Phú 1, xã Vĩnh Phú, huyện Thoại Sơn thực hiện mô hình nuôi cá rô đồng. Năm 2004 ông chỉ nuôi thí điểm 1.000 m2 mặt nước, thu hoạch được 3,5 tấn cá, sau khi trừ chi phí còn lời gần 50 triệu đồng. Năm 2005 ông tăng diện tích lên 3.000 m2, thu hoạch được gần 20 tấn cá. Nhờ có nhiều kinh nghiệm, lại được địa phương giới thiệu tham dự một số lớp tập huấn kỹ thuật nuôi thủy sản nên trong mùa nước năm nay ông tăng diện tích nuôi lên 7.500 m2 mặt nước, hiện cá rô đã nuôi 4 tháng, đang chuẩn bị thu hoạch. Đây là một trong những mô hình cho hiệu quả kinh tế cao hiện nay.

Tuấn Khanh

 


Tàu xa bờ có nguy cơ nằm bờ hàng loạt

Nguồn tin: LĐ, 11/8/2006
Ngày cập nhật: 12/8/2006

 


Muốn ổn định giá cá tra, cá ba sa: Người nuôi và doanh nghiệp phải liên kết

Nguồn tin: SGGP, 12/08/2006
Ngày cập nhật: 12/8/2006

 


Giá tôm tự nhiên biến động theo thời tiết

Nguồn tin: TN, 09/08/2006
Ngày cập nhật: 11/8/2006

 


Bàn biện pháp kiểm soát kháng sinh trên tôm

Nguồn tin: TT, 11/08/2006
Ngày cập nhật: 11/8/2006

Chiều 10-8 tại TP.HCM, các doanh nghiệp (DN) đã bàn biện pháp ngăn chặn tình trạng có dư lượng chloramphenicol trong sản phẩm mực xuất khẩu vào Nhật. Theo Thứ trưởng Bộ Thủy sản Nguyễn Thị Hồng Minh, chưa xác định rõ nguồn gốc nguyên liệu mực bị nhiễm chất này.

Tuy nhiên, theo các DN, nhiều khả năng ngư dân sử dụng một loại bột có xuất xứ từ Trung Quốc để tẩm mực - với mục đích giữ mực tươi lâu - trong đó có kháng sinh.

DN đã đề nghị các ngành chức năng sớm vào cuộc để điều tra và có biện pháp kiểm soát.

H.ĐĂNG

Lập đội đặc nhiệm kiểm tra dư lượng kháng sinh trong hải sản xuất khẩu

Ngày 10.8, Bộ Thủy sản cùng với Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) tổ chức cuộc họp về tăng cường các biện pháp kiểm soát chất Chloramphenicol trong hải sản đánh bắt.

Theo VASEP, chất Chloramphenicol xuất hiện trong hải sản là do ngư dân và chủ vựa sử dụng chất này để bảo quản mực, cá thay thế nước đá để giảm chi phí. Vừa qua, Nhật Bản đã phát hiện dư lượng chất kháng sinh này trong hải sản của Việt Nam nên quyết định kiểm tra 100% lô hàng của 2 công ty vi phạm và kiểm tra 50% lô hàng của các công ty khác.

Tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Thủy sản Nguyễn Thị Hồng Minh đã yêu cầu các doanh nghiệp phải tăng cường kiểm tra dư lượng Chloramphenicol. Bộ cũng sẽ lập một đội đặc nhiệm kiểm tra dư lượng kháng sinh tại các vựa hải sản từ Bình Thuận đến Kiên Giang đồng thời gửi thư kiến nghị Đại sứ quán Nhật Bản, Bộ Y tế Nhật Bản để yêu cầu giảm nhẹ mức độ kiểm tra mà phía Nhật đang áp dụng.

Q.Thuần (TN, 10/8/2006)

 


Nuôi ếch tại Sóc Sơn (Hà Nội)

Nguồn tin: NNVN, 8/8/2006
Ngày cập nhật: 11/8/2006

Tới thăm cơ sở nuôi ếch của anh Lê Hồng Sơn ở thôn Bắc Vọng, xã Bắc Phú (Sóc Sơn, Hà Nội), hết sức ngạc nhiên vì trong lúc một số cơ sở nuôi ếch còn băn khoăn trong việc mở rộng qui mô thì anh Sơn đã tổ chức giăng lồng kín cả 2 cái ao. Anh cho biết, hiện anh đã có 55 lồng. Ếch được xuất đều đều; năm nay ước tính sẽ thu khoảng 4-5 tấn ếch. Anh cũng nhân giống ếch cho bà con trong vùng. Riêng tiền giống, anh đã thu được trên 70 triệu đồng. Tháng này, anh còn xuất thêm vài lứa nữa...

Nghề nuôi ếch khởi đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước. Lúc đó, thị trường Trung Quốc hé mở; bao nhiêu thứ ngon, vật lạ nối nhau ào sang thị trường nước bạn. Ếch, ba ba, lươn, cua biển... được vét sạch. Tình trạng cạn kiệt trông thấy. Vì vậy, chúng tôi đã bắt tay vào việc nghiên cứu qui trình nuôi chúng để vừa phục vụ XK, vừa tránh tuyệt chủng. Đặc biệt, sau khi chúng ta học tập được cách nuôi ếch lồng từ Thái Lan, việc nuôi ếch càng được mở rộng. Hàng nghìn hộ nông dân đã nuôi ếch lồng. Kết quả rất khả quan. Tuy nhiên, cũng có người không làm được như ý muốn. Phần lớn những người này còn nặng tư tưởng bao cấp. Họ cứ nghĩ rằng, nuôi xong là có người đến tận nơi mua ngay! Trong cơ chế thị trường, người nông dân cũng phải năng động. Phải có bè, có bạn; phải có phường, có hội để hỗ trợ lẫn nhau. Yêu cầu về thịt ếch ngày một tăng, khả năng để XK là rất tốt. Vì vậy, nếu biết tổ chức khéo thì nghề nuôi ếch cũng là nghề rất nhiều triển vọng.

Ta có thể nuôi ếch theo 2 cách: Cách nuôi trong vườn, trong ao hoặc cách nuôi bằng lồng. Tùy điều kiện của từng gia đình mà chúng ta chọn cách nuôi cho phù hợp. Nếu không có ao, ta có thể nuôi trong vườn nhưng với điều kiện phải có các hố nước hoặc rãnh nước trong khu vực đó. Ếch là loài lưỡng cư (sống cả ở dưới nước, cả ở trên cạn). Trong cơ thể ếch có nhiều “kho” dự trữ nước. Chỉ mất 30% lượng nước dự trữ là ếch chết. Vì vậy, ếch phải luôn luôn nhảy xuống nước để duy trì lượng nước này. Ta làm “mà” cho chúng ở. “Mà” là các hang hốc. Có thể dùng gạch, ván gỗ xếp lại để làm hệ thống “mà” cho ếch chui vào. Khu vườn 1 sào ta có thể nuôi tới vài tạ ếch. Điều quan trọng là xung quanh vườn phải có tường hoặc có lưới quây để tránh ếch bỏ đi mất. Ta phải luyện cho ếch quen dần với việc ăn thức ăn tĩnh.

 


Bến Tre: Liên kết tiêu thụ sản phẩm tôm nuôi

Nguồn tin: NNVN, 8/8/2006
Ngày cập nhật: 11/8/2006

Sở Thủy sản tỉnh vừa thành lập ban vận động và tổ chức liên kết “4 nhà”: Sở Thủy sản, DN chế biến, cung cấp thức ăn, HTX, nông dân nuôi tôm và nhà khoa học bao tiêu sản phẩm theo hướng có lợi cho bà con. Thông qua mô hình này đã có 9 hộ nuôi tôm, diện tích 130 ha, ký hợp đồng bán tôm cho DN chế biến với giá tại thời điểm thu hoạch và bao giá. Hiện tôm loại 40 con/kg có giá 83.000đ. Tháng 8, Sở sẽ triển khai mô hình này đến những hộ nuôi cá da trơn XK và bước đầu đã có 10 hộ đăng ký, diện tích khoảng 5 ha.

PHẠM ĐOÀN

 


Trà Vinh: Dịch vụ nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh

Nguồn tin: CT, 9/8/2006
Ngày cập nhật: 10/8/2006

Đến nay, tỉnh Trà Vinh đã đầu tư mở rộng và phát triển mới được hơn 45.000 ha mặt nước nuôi thủy sản ở cả 3 vùng nước mặn, lợ và ngọt. Theo đó, các dịch vụ phục vụ nuôi thủy sản cũng phát triển mạnh.

Hiện tại, có hơn 215 cơ sở cơ khí lắp đặt trên 7.000 máy quạt nước cho ao nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp; nhiều người đầu tư hơn 300 xe cuốc, xáng cạp, trên 3.200 máy nổ sên vét và bơm nước cải tạo ao mương. Toàn tỉnh có hơn 115 trại sản xuất và 130 cơ sở ương dưỡng giống tôm sú cung ứng được trên 1,5 tỉ con tôm - cá giống. Mạng lưới đại lý, cửa hàng đã cung cấp hơn 30.000 tấn vôi và hóa chất phục vụ cải tạo ao nuôi và trên 25.000 tấn thức ăn công nghiệp cho tôm – cá…

Từ đầu năm đến nay giá trị dịch vụ phục vụ thủy sản đạt trên 158 tỉ đồng, tăng gấp 2,2 lần so với cùng thời điểm năm trước.

Q.D

 


Cà Mau: Kiểm dịch tôm giống bố mẹ từ đầu tháng 8

Nguồn tin: SGGP, 10/8/2006
Ngày cập nhật: 10/8/2006

Theo Sở Thủy sản tỉnh Cà Mau, trước tình hình tôm nuôi thường xuyên bị chết trong thời gian qua, ngành thủy sản tỉnh này vừa triển khai kế hoạch kiểm dịch tôm sú bố, mẹ đến ngư dân. Bắt đầu từ tháng 8 năm nay, tất cả tôm sú bố, mẹ được khai thác từ biển phải được kiểm dịch sạch bệnh mới được đưa vào trại ươm tôm giống.

Nghề khai thác tôm sú bố, mẹ phát triển mạnh hơn 5 năm qua tại xã Tân An, huyện Ngọc Hiển (Cà Mau) - nơi có lượng tôm sú bố, mẹ được đánh bắt nhiều nhất ở vùng biển Tây - Nam. Giá 1 cặp tôm sú bố mẹ những lúc khan hiếm có thể đến hơn 10 triệu đồng.

T.M.T - ĐM

 


Chuyện nuôi tôm ở Hà Tĩnh

Nguồn tin: ND, 8/8/2006
Ngày cập nhật: 10/8/2006

Những ngày này, ở Hà Tĩnh người ta nói nhiều về chuyện nuôi tôm. Trong các hội nghị bàn về kinh tế, xuống các huyện Kỳ Anh, Nghi Xuân, Thạch Hà, Cẩm Xuyên hay vùng ven thị xã là những nơi nuôi nhiều tôm đã đành, ngay trong các công sở, quán nhậu, đâu đâu cũng nghe người ta bàn chuyện nuôi tôm.

Phần vì vụ tôm sú năm nay Hà Tĩnh đạt năng suất, sản lượng cao nhất từ trước đến nay, nhưng cái chính là có sự hiện diện của con tôm he chân trắng. Con tôm he chân trắng được nuôi thử nghiệm từ năm 2003 với kết quả rất thuyết phục. Năm nay, Hà Tĩnh mới chính thức được Bộ Thủy sản cho nuôi và đã đạt được kết quả đáng khích lệ.

Với 137 km bờ biển, Hà Tĩnh thuộc diện có tiềm năng, thế mạnh kinh tế biển. Từ bao đời, người dân Hà Tĩnh đã mày mò khai thác tiềm năng, thế mạnh của biển. Cũng đun te, lưới chài, tìm ngao, bắt tôm, cá; choãi chân còng lưng làm muối, từng có đội tàu thuyền đánh bắt xa bờ. Dăm bảy năm nay lại hì hụi tìm mọi cách tạo dựng những thương hiệu bãi tắm Thiên Cầm, Nghi Xuân... Nhưng, xét một cách tổng thể, Hà Tĩnh cho đến hôm nay vẫn là tỉnh thuần nông với lúa, lang, lạc, lợn. Biển Hà Tĩnh vẫn chưa đãi người. Kể cả từ khi cách đây mươi năm, người dân ven biển biết nuôi con tôm sú.

Ngẫm lại, chuyện con tôm sú trên đất Hà Tĩnh cũng như chuyện của các địa phương khác. Vẫn là nuôi tôm sú được hai ba vụ lại mất một vụ. Vẫn là bệnh đốm trắng là kẻ thù số 1. Vẫn là, nuôi tôm sú không phải quá khó. Sẽ thành công nếu có giống tốt, được nuôi thả theo đúng quy trình kỹ thuật. Chỉ có điều, cũng như mọi nơi khác, người nào biết kiên nhẫn, ăn mỏng, nuôi thả theo lối quảng canh mươi con trên một mét vuông diện tích thì gần như chắc thắng. Người ham giàu nhanh, cơ sở vật chất quảng canh hoặc bán công nghiệp lại thả tôm giống theo mật độ công nghiệp, cộng với không có gan đánh tỉa dặm thì coi như chơi bạc.

Vụ tôm sú năm nay, Hà Tĩnh nuôi thả được 300 triệu con giống trên diện tích 2.600 ha. Nhưng, diện tích lớn nhất từ xưa đến nay đó cũng không được như mong muốn của những người đề ra kế hoạch. Theo kế hoạch, Hà Tĩnh năm nay phải có 3.100 ha. 3.100 ha vẫn là con số quá bé so với diện tích có khả năng nuôi tôm sú của Hà Tĩnh.

Diện tích có khả năng đưa vào nuôi tôm sú đó là hơn hai mươi nghìn ha nhiễm mặn ven biển vốn lâu nay vẫn là đất lúa cho năng suất thấp. Người trồng lúa trên những chân đất này chỉ lấy công làm lãi. Nghĩa là đổi mồ hôi lấy hạt gạo. Song, biến ruộng lúa thành ao đầm nuôi tôm không phải là chuyện muốn là được. Bước đầu tiên phải làm là việc dồn điền đổi thửa trên một diện tích rộng. Rồi sau đó có tiền mới biến ruộng thành ao. Một vùng nuôi tôm phải có mương dẫn nước mặn bên mương dẫn nước ngọt. Và rồi còn biết bao khâu kế tiếp mà khâu nào cũng đòi hỏi không những có tiền mà phải có nhiều tiền. Ngay khâu nuôi thả cuối cùng cũng yêu cầu vốn không nhỏ.

Muốn có lãi mươi, mười lăm triệu đồng một vụ tôm sú, người nuôi quảng canh cũng phải có hai mươi triệu đồng ứng trước. Nuôi tôm sú bán công nghiệp, người nuôi phải bỏ ra mỗi vụ trên dưới chín mươi triệu đồng mới có thể thu lãi về trăm triệu đồng. Ông Hoàng, Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư của Sở Thủy sản là người nắm rất sát phong trào đã "tổng kết cách làm ăn" nói chung của người nuôi tôm ở Hà Tĩnh là "bóc ngắn cắn dài". Nghĩa là, người chỉ có vốn nuôi quảng canh thì thả tôm giống theo mật độ bán công nghiệp. Người nuôi tôm bán công nghiệp lại thả tôm giống theo mật độ công nghiệp. Thậm chí có người đầu tư vốn theo cấp độ quảng canh, nhưng quá ham đã thả tôm giống với mật độ nuôi công nghiệp. Đây chính là nguyên nhân đầu tiên và chủ yếu dẫn tới việc thất bát.

Hôm Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư đưa chúng tôi đi thăm vùng nuôi tôm sú tập trung ở thị trấn Thiên Cầm, xe vừa dừng đã thấy một người từ trong nhà xộc ra, vẻ mặt đầy lo lắng, hỏi chẳng kịp chào. Đó là anh Trình, người cũng mới nhập nghề đến vụ này là hai. Mấy hôm nay, tôm của anh có hiện tượng nổi đầu. Anh Trình cũng như mọi người dân nuôi tôm ở đây chẳng biết vì sao tôm nổi đầu. Chẳng ai có kinh nghiệm. Cũng chẳng ai có dụng cụ gì để kiểm tra thực trạng, chất lượng môi trường nuôi tôm, ngoài cái hộp đo nồng độ pH, giá 180 nghìn đồng bán đầy ngoài chợ. Giả dụ có, cũng chưa biết đằng nào mà lần. Hỏi ra mới biết, trên diện tích có bốn trăm mét vuông ao, anh Trình đã thả tới mười một vạn con tôm giống.

Mặt anh Trình chỉ giãn ra khi anh Hoàng cho biết, nguyên nhân tôm nổi đầu gần như chắc chắn là do mật độ tôm quá dày, thiếu ô-xy, nhất là mấy ngày hôm nay trời nắng, gió tây nam oi bức đến phát ngốt như thế này. Anh Hoàng còn hứa, ngày hôm sau sẽ cho cán bộ kỹ thuật xuống đo giúp nồng độ ô-xy. Nếu đúng như vậy, anh Trình phải cấp tốc bổ sung cho tôm ô-xy và đánh tỉa bớt tôm. Nghe nói tới biện pháp bắt tỉa bớt tôm, nét mặt anh Trình nhăn nhó lại. Thì ra, hôm đầu tiên tôm mới nổi đầu anh đã đem chài ra quăng, bán bớt một ít. Nhưng, do nghe nói tôm bị nổi đầu, đầu nậu đã ra cái giá bắt chẹt đến buốt ruột.

Ngay bên cạnh ao nhà anh Trình là ba cái ao cộng lại tròn một ha của nhà ông Bình. Ông Bình cũng mới vào nghề đến vụ này là thứ hai. Năm ngoái do khâu chuẩn bị ao, tôm giống chậm cho nên ông chỉ thả được tám mươi nghìn con giống. Cuối vụ, số tôm đánh bắt được 1,2 tấn. Bán xong trừ vốn giống, công đầu tư biến ruộng thành ao, máy móc... còn thiếu ba triệu đồng. Như thế, kể như thắng lớn. Năm nay, ông Bình thả ba trăm nghìn con tôm giống. Đến cuối vụ, nếu giá thu mua tôm vẫn ở mức tám mươi, một trăm nghìn đồng mỗi kg tôm thì gia đình ông đúng là thắng lớn. Được lệnh của bố, thằng con ông Bình hớn hở bắt tôm lên khoe. Không dùng chài, nó lấy cái vó thả xuống ao, ném nhúm thức ăn và cất lên liền. Một vốc tôm sú đầy chặt hai nắm tay ông Bình. Nhìn mà thấy mê. Hệt như cảm giác lúc trước ở "trại" nuôi tôm he chân trắng thử nghiệm của Trung tâm Khuyến ngư. Mỗi mẻ chài quăng xuống, hai ba vốc tôm đầy.

Quanh đề tài nuôi tôm sú, tôm he chân trắng, nói chuyện với Giám đốc Sở Thủy sản Hà Tĩnh Bùi Tùng Phong càng thấm cái điều, nuôi tôm, nhất là nuôi tôm he chân trắng mau đổi đời, nếu có chút kỹ thuật và quan trọng nhất là làm theo đúng khuyến cáo của Trung tâm Khuyến ngư. Gia đình ông Lưu ở Thạch Châu, huyện Thạch Hà là một thí dụ điển hình. Năm ngoái, trên diện tích một ha, ông nuôi thả ba đợt 250 nghìn con tôm giống. Kết cục, ông thu về một trăm ba mươi triệu đồng tiền lãi. Năm nay, chắc chắn ông sẽ thu lãi ròng hơn nữa. Khả năng để trở thành tỷ phú của hộ ông Lưu không còn là chuyện quá khó.

Song, chấp nhận đổi nghề trồng lúa ở vùng đất nhiễm mặn vốn chỉ lấy công làm lãi, không thể làm giàu và ít rủi ro chuyển sang nuôi tôm cũng cần một sự tính toán, đầu tư vốn liếng, một chút dũng khí để chấp nhận sự rủi ro nếu có.

Người Hà Tĩnh giỏi tính toán. Dũng khí của người Hà Tĩnh không thiếu. Có thiếu chăng, đối với nông dân Hà Tĩnh đó chính là vốn.

Quang Hoàn


Ngư dân Phú Yên đổi đời nhờ nuôi tôm hùm

Nguồn tin: ND, 9/8/2006
Ngày cập nhật: 10/8/2006

Nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên có sức hấp dẫn kỳ lạ, giúp nhiều ngư dân các xã ven biển vốn trước đây nghèo khó có cơ hội đổi đời. Từ đầu năm đến nay, tỉnh Phú Yên thả nuôi 18.300 lồng tôm hùm; thu hoạch hơn 300 tấn tôm hùm thương phẩm, với giá bán 650-700 nghìn đồng/kg. Đây là vụ thu hoạch đạt sản lượng và giá bán tôm hùm cao nhất trong hơn mười năm qua.

Thiên thời, biển lợi

Về thôn Phú Dương, xã Xuân Thịnh (Sông Cầu), ai cũng biết đến tiếng ông "Vua" nuôi tôm hùm Trần Văn Tới, người vừa được Bộ Thủy sản tặng bằng khen vì có thành tích nuôi tôm hùm giỏi. Gặp chúng tôi anh cho biết:

“Nghề nuôi tôm hùm không chỉ giúp tôi mà còn giúp nhiều người dân ở đây đổi đời. Đời sống của bà con khá giả nhiều nhưng ít ai biết cách đây hơn mười năm là vùng nghèo khó, thường xuyên được Nhà nước cứu đói".

"Năm 2005, tôi nuôi hơn trăm lồng tôm hùm (nuôi cả tôm hùm giống và thương phẩm), trừ hết chi phí tôi có lãi 500 triệu đồng. Số tiền đó tôi lại tiếp tục mua tôm nuôi tiếp.”

Ông Chế Bá Hùng, Phó giám đốc Sở Thủy sản, kiêm Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Phú Yên cho biết: Huyện Sông Cầu được thiên nhiên ưu đãi với hơn 80 km bờ biển, có nhiều dãy núi ăn sâu ra biển, tạo nên nhiều vịnh kín gió như đầm Cù Mông, Xuân Đài.

Từ năm 2000, nghề nuôi tôm hùm thực sự phát triển mạnh khi giá tôm hùm thương phẩm bán trên thị trường tăng cao. Sản lượng tôm hùm của Phú Yên không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nếu năm 1992, huyện Sông Cầu có vài chục lồng nuôi tôm hùm thì đến năm 2000 tăng lên 7.500 lồng.

Nghề nuôi tôm hùm đến nay phát triển tại 8/11 xã, thị trấn của huyện Sông Cầu. Năm 2000, giá trị sản lượng tôm hùm của huyện đạt 30 tỷ đồng, năm 2005 tăng lên 280 tỷ đồng (bằng 50% GDP của huyện). Số hộ nghèo theo tiêu chí mới giảm từ 16,1% (năm 2001), xuống còn 3,8% (2005).

Nghề nuôi tôm hùm không chỉ phát triển tại huyện Sông Cầu mà con lan nhanh đến các huyện Đông Hòa và TP Tuy Hòa. Đến nay, tỉnh có 18.300 lồng nuôi tôm hùm; trong đó, huyện Sông Cầu có 16 nghìn lồng. Sản lượng tôm hùm thương phẩm đạt 600-700 tấn/năm.

Nếu như trước đây, người dân nuôi tôm hùm chủ yếu bằng lồng chế tạo từ tre, nưa thì những năm gần đây chuyển sang nuôi bè với nhiều lồng được làm kiên cố bằng sắt.

Về kỹ thuật nuôi tôm hùm, theo anh Tới, quan trọng nhất là phải bảo đảm độ sâu. Đối với ương tôm hùm giống thì nuôi ở độ sâu 3 mét, lồng cách lồng khoảng 2-3 m. Nuôi tôm thương phẩm tốt nhất ở độ sâu 4 m, với tỷ lệ 60 con/lồng có thể tích 3 m3, lồng cách lồng 4 m. Khi nuôi tôm giống được khoảng ba tháng to bằng ngón chân cái mới chuyển sang lồng nuôi thương phẩm là tốt nhất. Người nuôi cần siêng năng, theo dõi chặt chẽ chế độ ăn của tôm.

Tôm hùm có nhiều giai đoạn phát triển, tôm con bắt ngoài biển gọi là tôm trắng, phải ương vài tháng mới to bằng ngón chân cái, nuôi tiếp 18 tháng mới thành tôm thương phẩm. Để có được tôm thương phẩm bán ra thị trường phải mất gần hai năm.

Ông Lâm Duy Dũng, Chủ tịch UBND xã Xuận Thịnh (Sông Cầu) cho biết: Hiện xã có hơn 2.000 hộ dân thì số hộ nuôi tôm hùm chiếm 95%. Xã Xuân Thịnh giáp biển, có đầm Cù Mông nên việc nuôi tôm hùm lồng rất thuận lợi. Hiện nay, tôm hùm giống vẫn dựa vào khai thác tự nhiên và lượng tôm hùm giống xuất hiện tại vùng biển địa phương rất nhiều.

Từ đầu năm đến nay, ngư dân trong xã khai thác được 150 nghìn con tôm hùm giống, tăng hơn 50%. Giá tôm trắng bán 80-100 nghìn đồng/con, tôm to bằng ngón chân cái bán 200 nghìn đồng/con. Giá tôm hùm loại 1 (0,8-1 kg/con) dao động 650.000-700.000 đồng/kg. Nhờ được mùa, được giá nên người nuôi tôm hùm đều có lãi, trung bình mỗi hộ có lãi vài trăm triệu đồng/năm.

Nhưng nhân chưa hòa

Trao đổi với chúng tôi, anh Trần Văn Tới cho biết, từ vài năm nay, tình trạng ăn trộm tôm giống và tôm hùm thương phẩm liên tục xảy ra. Năm 2005, anh mất ba lồng (trị giá 50 triệu đồng). Từ đầu năm đến nay anh bị mất tiếp hai lồng, trị giá 40 triệu đồng.

Chủ tịch UBND xã Xuân Thịnh nói: "Bọn “tôm tặc” sử dụng bình dưỡng khí lặn đến cắt các lồng nuôi tôm hùm. Đa số người dân đều nuôi tôm ngoài biển, cách xa nhà nên rất khó khăn trong việc bảo quản".

Xã đã tiến hành điều tra và sẽ đề nghị truy tố nếu số lượng ăn trộm tôm lớn. Tuy nhiên, với thực trạng phát triển nghề nuôi tôm hùm không theo quy hoạch như hiện, cộng với sự di cư từ các vùng khác thì việc quản lý, bảo vệ tài sản của nhân dân rất khó khăn.

Theo ông Chế Bá Hùng, Phó giám đốc Sở Thủy sản, nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên đã manh nha nhiều nguy cơ, trong đó đặc biệt có nguy cơ ô nhiễm môi trường. Cho đến nay, nước ta vẫn chưa sản xuất được thức ăn công nghiệp cho tôm hùm. Hầu hết người nuôi tôm hùm vẫn tự chế thức ăn cho tôm hùm từ cá tạp. Nguy cơ ô nhiễm môi trường vùng nuôi tôm hùm rất cao.

Ngoài ra, với tình trạng khai thác tôm hùm giống như hiện nay, chắc chắn nguồn tôm giống sẽ cạn kiệt. Không biết khi nguồn tôm hùm giống mai này sẽ hết thì người dân lấy đâu ra tôm hùm giống để nuôi.

Nhiều vùng nuôi tôm hùm trở thành điểm nóng do việc tranh chấp diện tích mặt biển, trộm cắp tôm hùm và nhiều tệ nạn xã hội khác. Vì vậy nghề nuôi tôm hùm cần phải được tổ chức lại.

Thành lập các tổ tự quản

Ông Lương Công Tuấn, Trưởng phòng kinh tế UBND huyện Sông Cầu cho biết: UBND tỉnh Phú Yên đã lập quy hoạch tổng thể phát triển vùng thủy sản ven bờ đầm Cù Mông, Xuân Đài giai đoạn 2001-2010. Trên cơ sở đó, UBND huyện Sông Cầu tiến hành lập quy hoạch chi tiết mặt nước nuôi trồng cụ thể cho từng vùng giai đoạn 2006-2010, nhằm chủ động quản lý, giao diện tích mặt biển cho các hộ dân nuôi tôm hùm.

Chương trình phát triển nghề nuôi tôm hùm đã được UBND huyện Sông Cầu vừa được xây dựng với các nội dung: quy hoạch chi tiết mặt nước biển tại vùng nuôi nhằm giao diện tích mặt biển đến từng hộ dân sử dụng; xây dựng các vùng nuôi tôm hùm có sự quản lý cộng đồng; xử lý rác thải và môi trường vùng biển nuôi tôm hùm; đưa các đối tượng nuôi có tác dụng xử lý, giảm thiểu ô nhiễm môi trường như vẹm xanh, rong sụn, hải sâm; khôi phục rừng ngập mặn.

Theo ông Tuấn, việc thành lập tổ tự quản sẽ giải quyết được các vấn đề về ý thức bảo vệ môi trường, thị trường tiêu thụ. Huyện sẽ thành lập các tổ tự quản tại các thôn Vũng La, Từ Nham và Phú Dương (Xuân Thịnh), với mục đích tạo sự đồng thuận cao trong cộng đồng nuôi tôm và bền vững về mặt môi trường.

Các hộ dân cần có sự liên kết chặt, tạo ý thức cộng đồng trong vấn đề quản lý, thống nhất với nhau về thời gian cho tôm ăn, thời gian ở trên bè, để hạn chế tình trạng trộm tôm.

Chủ tịch UBND xã Xuân Thịnh Lâm Duy Dũng nói: Trước đây để bà con tự phát nuôi tôm nên đã xảy ra dịch bệnh, không thông thoáng luồng lạch, ghe ra vào hoặc người vận chuyển lồng, thức ăn sẽ bị vướng. Xã đang triển khai quy hoạch mặt biển nuôi tôm hùm lồng với diện tích 150 ha. Xã đã tổ chức cắm mốc phân vùng, diện tích luồng lạch và diện tích vùng nuôi.

Viện nghiên cứu nuôi trồng hải sản 3 đã thử nghiệm thành công mô hình nuôi tôm hùm xen canh vẹm xanh tại xã Xuân Tự (Sông Cầu) từ ba năm nay. Ngoài vấn đề môi trường thì con vẹm xanh còn phục vụ cho tiêu dùng.

Nuôi vẹm xanh khoảng 5-6 tháng là thu hoạch được. Nuôi xen canh đối tượng còn giải quyết tình trạng dư thừa thức ăn cho tôm.

Để cải tạo đáy thì nên nuôi nhuyễn thể, xử lý trong lồng hoặc bè nuôi thì trồng rong sụn. Nhưng xử lý môi trường có hiệu quả nhất là nuôi vẹm xanh. Hiện nay giá vẹm xanh thương phẩm bán trên thị trường khoảng 8.000 đồng/kg.

Tuy nhiên, mô hình nuôi tôm hùm xen canh vẹm xanh, rong sụn, hải sâm rất khó áp dụng tại các vùng nuôi tôm hùm trọng điểm vì lợi nhuận của nuôi tôm hùm quá cao, có sức hấp dẫn lớn với người dân; trong khi đó nuôi các đối tượng này lại mất nhiều thời gian và hiệu quả chưa cao.

Nuôi tôm hùm hiện đang trở thành nghề hấp dẫn, giúp ngư dân các xã ven biển có cơ hội đổi đời. Nghề nuôi tôm hùm còn giúp ngư dân chuyển từ nghề khai thác vốn đang gặp nhiều khó khăn như hiện sang nuôi trồng thủy sản.

Để nghề này phát triển bền vững rất cần có sự quan tâm, thực hiện đồng bộ của các bộ, ngành, chính quyền các cấp. Điều quan trọng là người nuôi tôm hùm cần có ý thức trong việc quản lý cộng đồng, bảo vệ môi trường biển và nguồn lợi hải sản.

Tạ Quang Dũng

 


Bạc Liêu: Nghêu giống xuất hiện, "nghêu tặc" lộng hành

Nguồn tin: Lao động, 8/8/2006
Ngày cập nhật: 9/8/2006

Liên tiếp trong 3 ngày qua, tại bãi biển Nhà Mát (thị xã Bạc Liêu) - xã Long Điền Đông (huyện Đông Hải), nghêu giống xuất hiện với trữ lượng lớn đã kéo theo hàng trăm người ra biển cào nghêu, bất chấp chính quyền địa phương ngăn cản.

Trước tình hình này, UBND tỉnh chỉ đạo cho Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản cùng với chính quyền địa phương quản lý tốt bãi nghêu, nhưng "nghêu tặc" vẫn ngang nhiên đi cào.

Được biết, tỉnh quy hoạch diện tích nuôi nghêu trên 12.000ha, giao cho các HTX nuôi nghêu quản lý, nhưng hầu hết xã viên đều nghèo, không có tư liệu sản xuất; họ chưa có ý thức bảo vệ bãi nghêu, thậm chí còn tham gia vào đội quân cào nghêu vì món lợi kiếm được từ 200.000 - 300.000 đồng/ngày/người.

Nhật Hồ

 


Bình Thuận: Thả thêm 2 triệu con giống tôm sú ra biển

Nguồn tin: Nhân dân, 8/8/2006
Ngày cập nhật: 9/8/2006

Tiếp tục tạo nguồn tôm sú bố mẹ dồi dào từ tự nhiên, năm nay, tỉnh Bình Thuận sẽ thả thêm 2 triệu con tôm sú giống đã qua ương nuôi, đạt kích cỡ từ 35 - 40 mm ra một số vùng biển trong tỉnh. Kinh phí thực hiện chương trình này khoảng 314,5 triệu đồng, trong đó ngân sách tỉnh hỗ trợ 140 triệu đồng, số còn lại vận động từ các cơ sở sản xuất tôm giống trong tỉnh. Chi cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức thả tôm giống, theo dõi sự phát triển của chúng và tuyên truyền, vận động ngư dân cùng tham gia bảo vệ các vùng thả tôm sú giống.


Bình Định: Nuôi cá trong ruộng lúa: Đầu ra còn lắm khó khăn

Nguồn tin: BĐ, 9/8/2006
Ngày cập nhật: 9/8/2006

Nhằm mở lối thoát cho những vùng độc canh cây lúa để hướng đến cánh đồng 50 triệu đồng/ha/năm, trong các năm qua Trung tâm Khuyến nông Bình Định đã xây dựng thành công mô hình nuôi cá trong ruộng lúa. Tuy nhiên, mô hình này khó nhân rộng được, vì nông dân cho rằng một khi nhiều địa phương cùng trồng lúa nuôi cá thì con cá sẽ không có đầu ra.

Liên tiếp 3 năm trở lại đây, các mô hình khuyến nông thực hiện nuôi cá trong ruộng lúa tại các vùng trũng lâu nay chỉ độc canh cây lúa đều đạt hiệu quả cao, được nông dân đồng tình. Điều đáng nói là diện tích lúa ở các ruộng nuôi cá đều giảm (do phải đào hào sâu cho cá) nhưng sản lượng lúa đều tăng, do áp dụng IPM và tác động của cá làm tăng năng suất lúa, tăng thu nhập. Lãi từ con cá và tăng lãi của cây lúa làm cho hiệu quả nuôi cá trong ruộng từ 1,8 đến 3 lần so với chuyên trồng lúa. Tại Nhơn Lộc (An Nhơn) ông Phạm Văn Minh với 8 sào ruộng kết hợp nuôi cá trong ruộng lúa (liên tiếp 3 năm nay) bình quân đã tăng lãi 13,1 triệu đồng/năm. Các ông Nguyễn Văn Tài và Trần Văn Chỉnh ở Kim Châu và Liêm Trực (thị trấn Bình Định - An Nhơn) đạt lãi bình quân trên 20,2 triệu đồng/ha (năm 2004 và năm 2005). Còn các ông Lê Thanh Hải, Hồ Trọng Khả, Nguyễn Tấn Điệp thôn Dương Thiện, Phước Sơn (Tuy Phước) đạt lãi bình quân còn cao hơn (35,5 triệu đồng/ha)…

Trước hiệu quả đạt được và nhận định nhu cầu tiêu dùng cá ngày càng tăng nên 9 hộ nông dân tại Kim Châu cùng thực hiện mô hình nuôi cá ruộng lúa. Tuy nhiên, hàng chục tấn cá thu hoạch đã lâm vào cảnh tiêu thụ rất khó khăn. May nhờ có Lữ đoàn 573 đã bao tiêu toàn bộ số cá của các hộ thu bắt trước, số còn lại phải đưa đi tiêu thụ ở Tây Nguyên, nhưng giá bán đã thấp mà còn rất chậm. Tại Phước Sơn (Tuy Phước), trò chuyện với chúng tôi cùng với 4 hộ nuôi tại cánh đồng Dương Thiện, ông Hồ Trọng Khả, một người nuôi cá ruộng lúa ở đây, cho biết: “Nuôi được cá thì rất mừng, nhưng bán được cá không dễ chút nào. Người nuôi cá lại phải kết thúc vụ nuôi trong tháng 8, phòng lụt sớm nên cũng không thể thu hoạch chậm để chờ giá cao”. Ở Phù Cát, năm 2005 mô hình nuôi cá ruộng tại Cát Hưng đạt lãi trên 24 triệu đồng/ha, đã thúc đẩy huyện có kế hoạch mở rộng mô hình nuôi cá ruộng lúa ra các xã có ruộng trũng ở phía đông nhằm tăng thu nhập, giảm bớt khó khăn cho vùng chuyên lúa. Tuy nhiên, do chưa tìm được đầu ra cho con cá với giá tương đối ổn định cho việc tiêu thụ cá nên huyện Phù Cát cũng đã bỏ chủ trương tổ chức nuôi cá ruộng lúa đại trà. Ở thị trấn Bình Định, từ hiệu quả của vụ nuôi cá năm 2005, UBND thị trấn đã giao cho HTX NN thị trấn Bình Định kiêm việc bao tiêu cá cho nông dân tại địa phương, nhưng điều này cũng chưa trở thành hiện thực, và nông dân vẫn phải tự lo đầu ra cho con cá với lắm vất vả…

Có thể thấy rằng, trong thời gian qua, việc triển khai mô hình nuôi cá ruộng lúa đã đạt được kết quả tích cực. Tuy nhiên, thị trường cá nước ngọt ở tỉnh Bình Định còn hạn chế, nên không phải người nuôi cá nào cũng dễ dàng tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, nếu tìm được đầu ra của sản phẩm thì kết quả của mô hình nuôi cá ruộng lúa mới trọn vẹn.

Nguyễn Đình Thụy

 


ĐBSCL thiếu trầm trọng lao động nghề biển

Nguồn tin: SGGP, 9/08/2006
Ngày cập nhật: 9/8/2006

 


Phải dùng tên Basa khi xuất cá tra sang Australia

Nguồn tin: VNN, 08/08/2006
Ngày cập nhật: 9/8/2006


Tình hình nuôi tôm sú tại 3 huyện vùng biển Bến Tre

Nguồn tin: BTre, 4/08/2006
Ngày cập nhật: 8/8/2006

Ở Bến Tre, tình hình bệnh đốm trắng trên tôm sú tại 3 huyện vùng biển đã từng bước được khắc phục. Từ đầu vụ đến nay, đã có 596 ha tôm nuôi bị bệnh đốm trắng, trong đó Bình Đại bị thiệt hại nhiều nhất là 485 ha. Hiện nay, bà con đang tiến hành thu hoạch. Trong 26.000 ha quảng canh đã có 28% diện tích thu hoạch xong. Riêng nuôi thâm canh và bán thâm canh, một số vùng nuôi tiếp tục thả giống trễ do bị dịch bệnh hồi đầu vụ. Diện tích nuôi tôm bằng hình thức này khoảng 4.861 ha. Ngoài nguồn giống sản xuất tại tỉnh, từ đầu vụ đến nay, ngành thủy sản đã kiểm dịch và cho nhập tỉnh khoảng 1 tỷ post phục vụ người nuôi.

 


Báo động ô nhiễm môi trường nuôi trồng thủy sản

Nguồn tin: VNECONOMY, 7/08/2006
Ngày cập nhật: 8/8/2006

Từ năm 2000 đến nay, nghề nuôi thủy sản ở Bến Tre phát triển khá mạnh theo hướng thâm canh ở vùng nước mặn.

Nhiều tỉnh ở ĐBSCL đang ngày càng bị ô nhiễm môi trường nuôi thủy sản nặng hơn, trong đó có Bến Tre, tôm sú, cá, nghêu, sò... năm nào cũng bị chết, năm sau chết nhiều hơn năm trước. Bến Tre đã có nhưng giải pháp nào giải quyết tình trạng ô nhiễm những vùng nuôi thủy sản?

Bà Trần Thị Thu Nga, Phó giám đốc Sở Thủy sản Bến Tre cho biết, nghề nuôi thủy sản Bến Tre hình thành khá sớm, nhưng phải đến năm 2000, Bến Tre mới thành công trong mô hình nuôi tôm sú thâm canh, năng suất đạt trên 9 tấn/ha, lợi nhuận rất cao, đánh dấu một bước đột phá cho nghề nuôi thủy sản của Bến Tre.

Từ năm 2000 đến nay, nghề nuôi thủy sản ở Bến Tre phát triển khá mạnh theo hướng thâm canh ở vùng nước mặn (tôm sú, nghêu, sò, hến...), ở vùng nước lợ và nước ngọt phát triển nhiều loại hình và đối tượng nuôi khá phong phú như nuôi tôm càng xanh liền canh liền cư, nuôi tôm càng xanh bán thâm canh, nuôi cá tra tăng sản, nuôi cá sấu, baba, cá đồng... mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Tính đến giữa năm 2006, tổng diện tích nuôi thủy sản của Bến Tre đạt 43.000 ha, trong đó chuyên nuôi tôm biển là 32.755 ha, với 6.570 ha nuôi tôm sú thâm canh và bán thâm canh. Sản lượng thủy sản nuôi đạt 70.000 tấn/năm (riêng tôm đạt 25.000 tấn/năm), diện tích nuôi nghêu đạt 4.600 ha, tôm càng xanh 2.000 ha và cá da trơn đạt 60 ha.

Trong 6 tháng đầu năm nay, Bến Tre đã chế biến được 8.420 tấn thành phẩm đông lạnh các loại, tăng 87,54%, xuất khẩu hàng thủy sản đạt 8.109 tấn, tăng 107%, trị giá xuất khẩu đạt hơn 25 triệu USD, tăng 55,31% so với cùng kỳ năm 2005.Số lượng diện tích và sản lượng nuôi trồng tăng mạnh nhưng thiệt hại do ô nhiễm môi trường cũng tăng nhanh không kém.

Theo Sở Thủy sản Bến Tre, tôm sú thâm canh và bán thâm canh thả nuôi trước ngày 1/3/2006 bị thiệt hại 82, 18 ha, chiếm tới 78% diện tích thả nuôi, tập trung ở các xã Thạch Trị, Bình Thới, Định Trung thuộc huyện Bình Đại.

Riêng diện tích thả nuôi sau ngày 1/3/2006 bị thiệt hại 554,10 ha, chiếm 11,42% diện tích thả giống, tăng 253,1 ha so với cùng kỳ năm 2005. Tôm sú nuôi thâm canh và bán thâm canh chết nhiều nhất trong tháng 4/2006 do nhiễm virus đốm trắng ở giai đoạn 20 đến 45 ngày tuổi.

Nguyên nhân là do môi trường nước bị ô nhiễm hữu cơ ở mức độ cao, chất lượng giống không tốt, thời tiết biến đổi thất thường, nhiều hộ nuôi không tuân thủ về lịch thời vụ nuôi đã được UBND tỉnh quy định và không tuân thủ quy trình kỹ thuật nuôi. Hiện ở Bến Tre vẫn còn tình trạng xả thải bùn đáy ao, xả thải mầm bệnh ra môi trường tự nhiên làm cho môi trường nuôi ngày càng ô nhiễm nặng hơn.

Bà Trần Thị Thu Nga cho biết, tỉnh Bến Tre đã chú trọng thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để nghề nuôi thủy sản phát triển ổn định và bền vững như: quy hoạch vùng nuôi, quản lý mùa vụ nuôi, quản lý chặt chẽ chất lượng con giống, cải tiến quy trình kỹ thuật nuôi, đầu tư cơ sở hạ tầng thủy lợi, đa dạng hóa đối tượng nuôi, tổ chức lại sản xuất, nâng cao ý thức quản lý cộng đồng..., trong đó giải pháp tổ chức lại sản xuất, nâng cao ý thức quản lý cộng đồng là một trong những giải pháp quan trọng mang tính nguyên tắc cho nuôi thủy sản bền vững.

Bến Tre là một trong số ít tỉnh đã kịp phát hiện ra rằng muốn nuôi thủy sản bền vững không thể để các hộ riêng lẻ tự phát nuôi mà phải tổ chức lại sản xuất theo hình thức chuyển hộ sản xuất cá thể thành cộng đồng nuôi trên tinh thần tự nguyện với các hình thức tổ hợp tác, ban quản lý vùng nuôi để mọi người chia sẻ trách nhiệm bảo vệ môi trường bằng sự đầu tư hợp tác sản xuất, quản lý môi trường theo tiêu chí hướng dẫn của Bộ Thủy sản, tiến đến việc cấp giấy chứng nhận vùng nuôi an toàn.

Hiện Bến Tre đã có 113 tổ hợp tác nuôi tôm sú và trên 90% số tổ hợp tác sản xuất kinh doanh đạt hiệu qủa khá cao. Tổ hợp tác nuôi tôm có nhiều ưu điểm như: giúp cho việc thực hiện quy hoạch phát triển nuôi thủy sản thuận lợi, hoàn chỉnh hơn, bảo vệ môi trường nuôi, hạn chế dịch bệnh lây lan và việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nuôi thủy sản được tập trung hơn nhiều so với hình thức nuôi nhỏ lẻ, tự phát của người dân.

Những tổ hợp tác này sẽ phát triển thành các hợp tác xã và Liên hiệp các tổ hợp tác nuôi thủy sản. Sở Thủy sản sẽ hỗ trợ các tổ hợp tác về kỹ thuật nuôi, kinh nghiệm quản lý kinh tế hợp tác và những biện pháp bảo vệ môi trường nuôi.Ngoài tổ hợp tác, tỉnh Bến Tre còn thành lập 114 ban quản lý vùng nuôi (một hình thức tổ chức mới) nhằm mục đích nâng cao ý thức quản lý cộng đồng, cộng đồng người nuôi cùng tham gia vào việc quản lý môi trường chung.

Ban quản lý được những hộ nuôi thủy sản trong vùng tín nhiệm bầu ra, là những người có uy tín, có trình độ kỹ thuật, tinh thần trách nhiệm cao, sẵn sàng chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về kỹ thuật, quản lý, thị trường, giá cả... cho những người nuôi trong vùng. Ban quản lý vùng nuôi còn được quyền đình chỉ mọi hoạt động nuôi thủy sản gây ảnh hưởng xấu đến môi trường vùng nuôi.

Hoàng Lộc


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang