• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

ĐBSCL: ngại tái đầu tư phát triển cá da trơn

Nguồn tin: SGTT, 6/8/2006
Ngày cập nhật: 7/8/2006

Hiện nay, giá cá tra nguyên liệu ổn định trở lại. Loại cá nuôi hầm thịt trắng được các doanh nghiệp mua 11.200-11.500 đồng/kg và cá nuôi bè 10.600-11.000 đồng/kg, loại cá thịt vàng 9.000-9.200 đồng/kg. Mỗi ngày cả khu vực ĐBSCL tiêu thụ từ 1.500 - 2.000 tấn cá tra, basa nguyên liệu. Tuy nhiên, do nhiều hộ cố neo cá chờ giá làm cá vượt kích cỡ, khó tiêu thụ. Theo Hiệp hội nghề nuôi và chế biến thuỷ sản An Giang (AFA), suốt 2 tháng rớt giá từ 14.500 đồng/kg xuống còn 11.500 đồng/kg, người nuôi cá ở ĐBSCL mất lợi nhuận trên 200 tỷ đồng. Thậm chí nhiều hộ thua lỗ nên ngư dân ngán ngại đầu tư tái sản xuất, một số hộ khác có nguy cơ bỏ nghề vì chi phí sản xuất cao (con giống, thức ăn liên tục tăng), giá thương phẩm không khích lệ. Nhiều doanh nghiệp cho rằng người nuôi nên tự kiểm soát chi phí và bằng lòng với mức lợi nhuận ổn định để duy trì quan hệ hợp tác với các nhà máy chế biến, vì thị trường cá tra, basa khó đạt được siêu lợi nhuận như mong muốn của người nuôi.

Cao Tâm

 


Mở rộng diện tích nuôi thủy sản: Lời giải bài toán thiếu nguyên liệu?

Nguồn tin: QDND, 6/8/2006
Ngày cập nhật: 7/8/2006

Hiệp Hội chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đã tổ chức Hội nghị toàn thể lần thứ 8. Tại đây, đa số các doanh nghiệp bày tỏ những khó khăn, bức xúc đang phải đối phó trong sản xuất và kinh doanh, đặc biệt là tình trạng khan hiếm nguyên liệu và giá nguyên liệu tăng diễn ra thường xuyên. Họ mong muốn các cơ quan chức năng phải nghiên cứu và tìm những giải pháp hỗ trợ lâu dài tránh lúc thừa, lúc thiếu. Một số ý kiến cho rằng, nên mở rộng diện tích để có nguồn cung ổn định. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra ở đây là mở rộng diện tích đã phải là một giải pháp tối ưu lâu dài hay chỉ là giải pháp trước mắt để “cứu đói” cho việc thiếu mà thôi.

Khó khăn ngay tại “sân nhà”

Vượt qua những khó khăn về thị trường xuất khẩu một cách ngoạn mục trong năm 2005 nhưng ngay ở đầu năm 2006, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản lại vấp phải một số khó khăn trên “sân nhà”- đó là tình trạng thiếu nguyên liệu sản xuất khiến nhiều doanh nghiệp đã phải từ chối những hoạt động đặt hàng ở nước ngoài. Ở khu vực ĐBSCL, tôm nguyên liệu khan hiếm, nhiều nhà máy chế biến đã phải hoạt động cầm chừng (30-40% công suất) ảnh hưởng đến việc làm của công nhân và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bên cạnh đó còn nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.

Ông Đỗ Quang Sáng, Giám đốc Công ty Cổ phần XNK thủy sản Quảng Ninh cho biết, vì thiếu nguyên liệu và có ít hàng xuất khẩu nên công ty đã gộp nhiều mặt hàng trong một lô hàng, do vậy phải chịu khoản chi phí lớn cho việc kiểm tra chất lượng và kiểm tra tại hải quan, thậm chí chi phí kiểm tra tốn đến hàng chục triệu đồng. Ngoài ra, thiếu nguyên liệu còn là cơ hội để nạn bơm chích tạp chất phát triển khiến chất lượng sản phẩm chế biến giảm sút và doanh nghiệp phải tăng chi phí sản xuất.

Nguyên nhân của tình trạng trên một mặt do đầu ra của xuất khẩu được mở rộng, tiêu thụ thực phẩm trong nước đang có xu hướng chuyển mạnh sang sản phẩm thủy sản như một mặt hàng thay thế cho các loại thực phẩm khác, vì dịch lở mồm, long móng ở lợn, bò và cúm gia cầm… Bên cạnh đó sản lượng khai thác tự nhiên không tăng do nguồn lợi đã bị suy giảm và chi phí sản xuất ngày càng cao do giá xăng dầu tăng, nhiều tàu cá phải nằm bờ và các địa phương đua nhau xây dựng các nhà máy chế biến thu hút nguyên liệu.

Nuôi trồng thủy sản (NTTS) đã phát triển mạnh mẽ trong phạm vi cả nước, từ vùng đồng bằng, trung du đến miền núi, trên các loại hình thủy vực nuôi nước mặn, lợ và nuôi thủy sản nước ngọt. Diện tích tăng từ 524.619ha/năm 1999 lên 959.945ha/năm 2005. Kết quả này tăng nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy chế biến, tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu thực phẩm, mang lại lợi ích kinh tế cho những hộ nuôi, sản lượng thủy sản nuôi tăng, nông dân có công việc ổn định và khá giả hơn so với trồng lúa, cây hoa màu... Tuy nhiên, một loạt vấn đề về hệ thống thủy lợi, chất lượng con giống, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường cũng nảy sinh đòi hỏi phải giải quyết một cách thỏa đáng.

Thực tế hiện nay cho thấy, hệ thống thủy lợi còn bất cập trong việc cung cấp nước. Hệ thống hiện có chỉ được xây dựng chủ yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp, còn phục vụ NTTS bị coi là thứ yếu đã dẫn đến tình trạng thiếu nước ở nhiều vùng nuôi… Việc kết hợp giữa quy hoạch, kế hoạch cũng như xây dựng các chiến lược phát triển ngành thủy sản và thủy lợi chưa có sự kết hợp hài hòa, linh hoạt cho các vùng sinh thái khác nhau, đôi khi còn chồng chéo. Vấn đề con giống, đặc biệt là tôm giống chất lượng tốt, sạch bệnh cũng chưa được giải quyết một cách triệt để. Việc nhập con giống một cách tràn lan, quản lý chất lượng tại nơi sản xuất không chặt chẽ dẫn đến người dân mua phải con giống nhiễm bệnh, điều này gây ra tình trạng dịch bệnh, ô nhiễm mà hậu quả là người nuôi phải gánh chịu. Khi bệnh bùng phát, do không nắm vững kỹ thuật phòng và trị bệnh cho những đối tượng nuôi, người nuôi đã tự ý sử dụng hóa chất, kháng sinh nhưng tôm, cá vẫn chết nhiều, gây thiệt hại lớn cho người nuôi. Tình trạng này cũng làm điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm của sản phẩm không được bảo đảm, khiến các nhà chế biến phải chịu chung hậu quả. Cũng với vấn đề dịch bệnh, việc mở rộng diện tích NTTS một cách tự phát không theo quy hoạch làm phá vỡ cân bằng sinh thái, đe dọa hủy hoại môi trường.

Một vài giải pháp

Tại hội nghị “đánh giá kết quả thực hiện chương trình phát triển NTTS giai đoạn 2000-2005 và bàn biện pháp thực hiện đến 2010” Bộ trưởng thủy sản Tạ Quang Ngọc nhấn mạnh: NTTS đã phát triển khá sâu rộng trong những năm qua và có vai trò rất lớn trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước, đang dần trở thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn. Chúng ta sẽ vừa đảm bảo sức tăng trưởng nhanh vừa đảm bảo tính bền vững nếu biết phát huy lợi thế, giải quyết đồng bộ các nhu cầu, khắc phục những khó khăn yếu kém.

Có thể thấy mở rộng diện tích mới chỉ là điều kiện cần. Để chủ động về nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu và tiêu thụ trong nước, cần thực hiện một cách đồng bộ hàng loạt giải pháp, từ nghiên cứu khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, lựa chọn đối tượng nuôi phù hợp với điều kiện sinh thái. Kiểm soát và đảm bảo nguồn giống chất lượng cao, có quy trình chăm sóc hoàn thiện để tạo ra nguyên liệu an toàn vệ sinh trước chế biến. Nghiên cứu các mô hình nuôi ở những vùng chuyển đổi và triển khai có hệ thống các nghiên cứu về thức ăn và dinh dưỡng để tiến tới đảm bảo sản xuất công nghiệp các loại thức ăn. Khuyến khích người dân áp dụng quy tắc phát triển nuôi trồng bền vững như các mô hình thực hành nuôi tốt, nuôi có trách nhiệm cũng như xu hướng phát triển NTTS thân thiện với môi trường và giải quyết bài toán thủy lợi…

Người NTTS cần ý thức được vấn đề bảo vệ, sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn lực về vốn, con người, tài nguyên đất, nước, tạo hiệu quả cao trong nuôi trồng để tạo được một nguồn nguyên liệu an toàn cho các cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu. Điều này tạo nên uy tín về thương hiệu thủy sản Việt Nam trên thị trường quốc tế, tạo sức cạnh tranh ngày càng mạnh, duy trì sự phát triển ngày càng bền vững.

ĐOÀN HỒNG MINH

 


Thị trường ĐBSCL: Giá các loại cá đồng giảm nhanh, các trại sản xuất cá giống lỗ, Thời tiết không tốt cho người nuôi cá tra

Nguồn tin: LĐ, 7/8/2006
Ngày cập nhật: 7/8/2006

Mùa lũ về, giá cá mè vinh và mè trắng 20.000-22.000 đồng/kg, cá linh non xuất hiện. Giá các loại cá đồng giảm nhanh khiến giá giống cá trê vàng lai, rô phi chỉ và điêu hồng giảm 8.000 đồng(27.000-30.000 đồng/kg), tai tượng: 400 đồng/con. Với giá này, các trại sản xuất cá giống lỗ từ 2 - 2, 5 triệu đồng/1 triệu con.

Thời tiết không tốt lắm cho người nuôi cá tra khi các doanh nghiệp xuất khẩu chỉ mua với số lượng nhỏ. Giá các loại cá tra ở mức 10.000 -12.200 đồng/kg khiến nông dân không hăng hái thả nuôi rầm rộ như trước và thận trọng khi nuôi thúc.

Quế Phương

 


Đồng Tháp: Nuôi thành công trai nước ngọt khổng lồ

Nguồn tin: BCT, 4/8/2006
Ngày cập nhật: 6/8/2006

Anh Dương Văn Nhân, ở cồn Ông Bùn thuộc xã An Hiệp, huyện Châu Thành (Đồng Tháp) đã ương nuôi thành công loại trai nước ngọt khổng lồ. Theo anh Nhân: Năm 1995 một dự án nuôi trai nước ngọt lấy ngọc được thử nghiệm ở đây nhưng không thành công. Anh xin 4 con trai nhỏ về thả trong ao của trang trại gia đình, không ngờ loài trai này phát triển nhanh và kích thước ngày càng lớn, mỗi con có trọng lượng từ 1 đến 1,7 kg và hiện đang sinh sôi nảy nở. Thịt trai thơm, có vị ngọt và giòn không thua gì mực ống.

Anh Nhân cho biết đang nhân giống và nuôi đại trà loài trai này với hy vọng là món đặc sản của vùng sông nước Cửu Long.

NG. H. H

 


Tin thủy sản : Nguyên nhân tôm sú chết tại Xuân Trường, Nam Định vụ nuôi 2006

Nguồn tin: Ria 1, 5/8/2006
Ngày cập nhật: 6/8/2006

Vụ nuôi tôm sú 2006 tại hai xã Xuân Vinh, xuân Hòa huyện Xuân Trường được kỳ vọng rất nhiều, nó cũng là nỗi lo canh cánh của những người dân một nắng hai sương nơi đây. Rồi đột nhiên tôm chết, chỉ trong khoảng 1 tháng (từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 5), tỷ lệ số lượng ao nuôi tôm bị chết lên tới 90-95%. Vụ thất thu này là sự mất mát quá lớn đối với người nuôi tôm nơi đây, có những gia đình thua lỗ tới cả tỉ bạc sau vài năm nuôi tôm không thành công. Có nhiều nguyên nhân gây dẫn đến tôm nuôi bị chết, trong nghề nuôi trồng thủy sản ai cũng biết đó là do môi trường nuôi, bệnh, chất lượng con giống, thức ăn và ...

Để trả lời cho câu hỏi đâu là nguyên nhân của tôm chết hàng loạt, chúng tôi đã tìm hiểu thực tế và đi sâu phân tích một số nguyên nhân chính ảnh hưởng trực tiếp tới sự thành công hay thất bại của một vụ nuôi như sau: Đó là yếu tố Vị trí địa lý và môi trường vùng nuôi, quản lý vùng nuôi, dịch bệnh, khí hậu thời tiết và môi trường ao nuôi v.v. Đặc biệt là biến đổi của khí hậu thời tiết đầu vụ nuôi .

1. Những bất lợi về vị trí địa lý và môi trường vùng nuôi Xuân Trường không tiếp giáp với biển nhưng có sông Sò chảy qua, sông là một nhánh nhỏ của sông Hồng chảy ra biển và nó là gianh giới tự nhiên giữa huyện Xuân Trường và Giao Thủy, khu vực ven sông phía hạ lưu chịu ảnh hưởng của thủy triều và nước mặn từ biển nên khu vực này có tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ khá lớn.

Hai xã Xuân Vinh và Xuân Hòa nằm cạnh sông Sò và cách biển chừng 14 - 16km, được tỉnh và địa phương đầu tư chuyển đổi từ trồng lúa sang nuôi tôm công nghiệp từ năm 2003, diện tích khoảng 102 ha. Vị trí khu nuôi được xây dựng trên vùng cao triều, nguồn nước cấp được lấy trực tiếp từ sông Sò.

Đặc điểm của sông Sò: Sông nhỏ, độ sâu thấp, dòng chảy chậm, nước thường xuyên đục, độ mặn thấp do ảnh hưởng của nước ngọt. Nước sông lên xuống phụ thuộc thủy triều nên việc chủ động lấy nước vào khu nuôi gặp khó khăn. Hệ thống kênh cấp và thải hoàn chỉnh và riêng biệt, nhưng kênh thải lại xả nước trực tiếp ra sông, ngay gần cống cấp (nước thải của ao nuôi không qua xử lý), gây ô nhiễm cho nguồn cấp tại chỗ và các khu nuôi khác. Mặt khác nó lại chịu ảnh hưởng nước thải từ các khu nuôi khác thải ra tương tự. Ngoài ra phía thượng lưu còn có nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh, (thuộc huyện Giao Thủy) chất thải của nhà máy được đổ trực tiếp vào sông.

Nền thổ nhưỡng khu nuôi có kết cấu chủ yếu là cát bùn, tỷ lệ khoảng 1/1. Dễ gây màu nhưng nước thường xuyên đục, thích hợp cho vi sinh vật đáy và mầm bệnh phát triển. Không thích hợp cho nuôi tôm sú vì môi trường đáy phù hợp phải là đáy cát.

Mực nước các ao nuôi đều thấp, có ao chỉ khoảng 70 cm, trung bình từ 80 – 90cm. Mực nước ao thấp cũng do người nuôi chủ động giảm thấp để gây màu trong thời gian 1 tháng đầu. Nhưng mức nước cấp đầy tối đa cũng chỉ được 120cm và rất khó duy trì (do khu nuôi ở vùng cao triều nên cao trình đáy khá cao so với mực nước biển).

2. Quản lý vùng nuôi và kết quả nuôi tôm sú từ 2003 đến 2006

Cả hai xã đều không thiết lập được cơ chế điều hành có hiệu quả từ xã, hợp tác xã xuống các hộ nuôi, cán bộ chuyên trách ít kinh nghiệm và không được đào tạo sâu về thủy sản. Mặt khác người nuôi với cách nghĩ thiển cận nên mạnh ai nấy làm, có gia đình các năm trước còn thuê kỹ sư nuôi về làm chuyên gia, tư vấn riêng. Cấp trên như Sở Thủy sản Nam Định, Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Xuân Trường có quan tâm nhưng không thể quán xuyến hết.

Nhận thức của người nuôi còn hạn chế, đa số không chú trọng tới việc kiểm tra môi trường ao nuôi và dịch bệnh. Nguồn giống được mua từ nhiều địa phương khác nhau, hầu hết không qua kiểm dịch về bệnh.

Ao nuôi khi bị bệnh, mặc dù xác định là bị nhiễm virut Đốm trắng nhưng người nuôi không chủ động xử lý tôm bệnh và môi trường nước ao triệt để, thay vào đó họ còn vô tình hoặc cố ý xả nước từ ao bị bệnh ra kênh thải khu nuôi, dẫn tới dịch bệnh lây lan khắp vùng.

Tính đến năm 2006, khu nuôi này đã nuôi tôm sú được 4 năm (4 vụ). Năm đầu tiên nuôi thành công, nhưng từ năm thứ hai trở đi tôm nuôi bắt đầu chết, số hộ nuôi bị chết tăng dần theo các năm. Theo thống kê của hai xã, năm 2004 có khoảng 40-50% số ao nuôi bị chết, năm 2005 có 60-70% và năm nay có 90-95% số ao nuôi tôm bị chết.

Nguyên nhân do nhiều yếu tố tác động như: Khí hậu thời tiết, môi trường ao nuôi, nguồn giống, chăm sóc, thức ăn... Trong đó phải kể tới yếu tố môi trường và bệnh, đặc biệt là bệnh đốm trắng, trong các ao nuôi đã xác định được bệnh Đốm trắng bằng cảm quan và bằng test kiểm tra nhanh.

3. Vấn đề dịch bệnh

Bệnh đốm trắng đã xuất hiện tại đây từ năm nuôi thứ hai, do khâu xử lý bệnh không triệt để nên mầm bệnh còn tồn tại dai dẳng từ đó đến nay và gây hậu quả nghiêm trọng cho những vụ sau. Ngoài ra còn gặp các bệnh khác như: Bệnh MBV, Đầu vàng, Sinh vật bám (SVB)....

Thông thường tôm sú nuôi ở miền Bắc, phải sau từ 2 – 3 tháng nuôi bệnh Đốm trắng mới phát triển. Năm 2006 do điều kiện thời tiết khí hậu khắc nghiệt, nên bệnh Đốm trắng đã xuất hiện sớm hơn, tuy nhiên bệnh không phải là nguyên nhân ban đầu, không phải là nguyên nhân chính làm tôm chết hàng loạt, bệnh Đốm trắng tuy có phát hiện nhưng mới chỉ ở mức độ cảm nhiễm nhẹ hoặc có những mẫu tôm không phát hiện được bệnh. Tôm chết chủ yếu do điều kiện môi trường xấu, thay đổi bất lợi, làm tôm nuôi bị sốc và chết, bệnh chỉ là nhân tố cơ hội.

Kết quả kiểm tra mẫu bệnh của Nhiệm vụ quan trắc ngày 4/5/2006 cho thấy: Tại xã Xuân Vinh kiểm tra 10 ao nuôi, tôm chủ yếu bị nhiễm MBV và Sinh vật bám (SVB), Bệnh Đốm trắng, Đầu vàng không phát hiện. Xã Xuân Hòa kiểm tra 7 ao nuôi, đa số bị nhiễm MBV và SVB tuy nhiên cả 7 ao đều phát hiện bệnh Đốm trắng. Bệnh Đầu vàng không phát hiện. Các bệnh về Nấm, Vi khuẩn, Vibrio tổng số, Vi khuẩn tổng số cả hai xã đều có tỷ lệ nhiễm nhẹ hoặc không bị nhiễm .

Trên thực tế có nhiều ao nuôi, tôm chết hết sau vài ngày (5-7ngày), khi kiểm tra bằng cảm quan, có phát hiện dấu hiệu bệnh đốm trắng trên giáp đầu ngực. Nhưng có những ao tôm chết không hết, trong ao vẫn còn một số lượng nhỏ (ao Ông Năm, xuân Vinh có 3 ao), và không phát hiện được dấu hiệu của bệnh Đốm trắng.

4. Khí hậu thời tiết và Môi trường ao nuôi

Khí hậu thời tiết miền Bắc diễn biến rất phức tạp và ảnh hưởng nhiều tới mùa vụ cũng như kết quả nuôi tôm sú. Vụ nuôi tôm sú miền Bắc thường bắt đầu sau tiết Thanh Minh, thời điểm này vào khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4 dương lịch hàng năm, lúc này thời tiết đã xang mùa hè, những đợt nắng nóng đầu mùa bắt đầu xuất hiện, thời tiết cự kỳ nắng nóng và khó chịu.

Gió mùa đông bắc thường kết thúc muộn và kéo dài tới tận thời điểm này, năm nay giữa tháng 5 dương lịch, (13/5) Bắc Bộ vẫn còn chịu ảnh hưởng của đợt không khí lạnh khá mạnh, Người nuôi tôm miền Bắc rất sợ những đợt gió mùa đông bắc về muộn, có cường độ mạnh trong tháng 4 và 5, làm nhiệt độ thay đổi đột ngột, giảm mạnh trong thời gian ngắn. Theo kinh nghiệm dân gian, thường các năm có 2 tháng nhuận Âm lịch, thì gió bắc thường kết thúc muộn và nuôi tôm sú rất khó khăn, năm nay nhuận tháng 7 âm lịch.

Gió bấc heo may, gió Đông nồm (gió thổi từ phía chính đông) do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, của bão gần bờ cũng là nỗi ám ảnh đối với người nuôi. Nếu thời gian ảnh hưởng tới vùng nuôi ngắn khoảng 3-4 ngày, thì môi trường và tôm nuôi ít bị ảnh hưởng, khả năng tôm hồi phục nhanh. Nhưng thời gian ảnh hưởng kéo dài thì hậu quả khôn lường.

4.1. Diễn biến phức tạp của thời tiết trong vụ nuôi tôm năm 2006 tại Bắc bộ như sau:

• Không khí lạnh kết hợp với trời mưa

Ngày 28/4 không khí lạnh ảnh hưởng đến khí hậu miền Bắc. Trước đó là những ngày nắng nóng kéo dài, buổi chiều cùng ngày Thanh Hóa, Nam Định mưa rất to đến tận 17h chiều. Trời trở lạnh đột ngột, theo số liệu của Nhiệm vụ quan trắc cho thấy: Nhiệt độ nước ao nuôi có sự biến đổi lớn khoảng 7-10oC chỉ trong một ngày đêm: Sáng ngày 28/04 là 29,4oC, đến sáng ngày 29/04 nhiệt độ chỉ là 23,9oC), ban đêm nhiệt độ nước ao nuôi còn xuống thấp hơn nữa. (nhiệt độ nước phù hợp cho tôm sú là 25-33oC). Đây là thời điểm thời tiết bất lợi đầu tiên trong vụ nuôi tôm năm 2006, tôm nuôi đã chết rải rác sau khi trời mưa.

• Đợt nắng nóng tiếp theo

Sau đợt không khí lạnh trên, ngày 03/05 Miền Bắc chịu một đợt áp thấp nóng lục địa và xuất hiện một đợt nắng nóng mới, nhiệt độ không khí ở Đông Bắc Bộ tăng cao từ 34 - 35oC....

• Không khí lạnh kết hợp với bão Chan Chu

Đêm 12 ngày 13/5, Bắc Bộ lại chịu ảnh hưởng của đợt không khí lạnh nữa, hình thái thời tiết: Ngày nắng nóng, chiều và tối có mưa rào và giông, trời trở mát, lạnh về đêm. Nhiệt độ không khí Bắc Bộ từ 24 - 36 độ C, ... Kiểu thời tiết này diễn ra trong vòng 2 đến 3 ngày liền ảnh hưởng rất xấu tới nhiệt độ nước ao nuôi.

Bão Chan Chu là cơn bão mạnh ngoài khơi, với sức gió mạnh và hoàn lưu rộng, kết hợp với đợt không khí lạnh từ ngày 12/05 – 16/05 tạo ra một kiểu thời tiết mát mẻ ở Bắc Bộ, Gió bắc và gió heo may của cơn bão kéo dài từ ngày 12/05 đến tận 20/05 ( 7- 8 ngày).

Trận mưa sau bão Chan chu cướp đi hy vọng cuối cùng của người nuôi tôm, làm cho tỷ lệ ao nuôi tôm chết khoảng 90-95%. Tuy nhiên vẫn còn một số ao nuôi, tôm vẫn khỏe và phát triển bình thường. Nhà ông Phức, Bí thư Đảng ủy xã Xuân Vinh còn 3 ao nuôi tôm su, ông Nhung 2 ao, ông kỷ 1 ao, ông Hạnh... và ông Thiếu xã Xuân Hòa hộ duy nhất còn sót 2 ao.

Tại HTX NTTS Hòa Bình, khu Năm Hòa, Xã Giao Lâm, huyện Giao Thủy, Nam Định, diện tích khu nuôi khoảng 16 ha, sau trận mưa này hầu như tôm bị chết hết, trước đó các ao nuôi tôm vẫn khỏe và chỉ chết lác đác. Sở thủy sản Nam Định kiểm tra test Đốm trắng 3 ao, thì 2 ao bị nhẹ và 1 ao không bị. Đặc điểm khu nuôi này là khu chuyển đổi từ đồng muối sang nuôi tôm (được 3 vụ), độ sâu mực nước thấp, đáy ao chứa phèn...nền đáy cát, nguồn nước lấy trực tiếp từ biển. Nhưng nguồn cấp và thoát dùng chung.

4.2. Tác động của thời tiết đối với môi trường ao nuôi • Tác động của thời tiết nắng nóng: Nhiệt độ cao tạo điều kiện cho quá trình phân hủy yếm khí các chất hữu cơ trong ao nuôi, đặc biệt ở đáy ao, tạo ra nhiều khí độc tích tụ ở đáy (khoảng 20cm trong lớp bùn đáy). như H2S, CH4.... Do pH, nhiệt độ cao và ổn định nên H2S không thể giải phóng vào môi trường nước được.

• Tác động của không khí lạnh, áp thấp nhiệt đới và bão Người nuôi tôm miền Bắc rất sợ những đợt gió mùa đông bắc về muộn, có cường độ mạnh trong tháng 4 và 5, làm nhiệt độ thay đổi đột ngột, giảm mạnh trong thời gian ngắn. Theo kinh nghiệm thường các năm có 2 tháng nhuận Âm lịch, thì gió bắc thường kết thúc muộn và nuôi tôm sú rất khó khăn, năm nay (2006) nhuận tháng 7 âm lịch.

Gió bấc heo may, gió Đông nồm (gió thổi từ phía chính đông) do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, của bão gần bờ hoặc đổ bộ vào bắc bộ cũng là nỗi ám ảnh đối với người nuôi. Nếu thời gian ảnh hưởng tới vùng nuôi ngắn khoảng 3-4 ngày, thì môi trường ít bị ảnh hưởng, khả năng tôm hồi phục nhanh. Nhưng thời gian kéo dài thì hậu quả khôn lường.

Ảnh hưởng của bão Chan chu vừa qua kết hợp với không khí lạnh trước đó làm cho nhiệt độ nước ao nuôi xuống thấp kéo dài, nhiệt độ của đáy ao xuống càng thấp do nền đáy có tỷ lệ bùn cao (cát /bùn =1/1), độ sâu mực nước không đảm bảo (<100cm), tôm không thể vùi mình vào đáy để tránh rét, tôm bị yếu, rét, bị sốc do môi trường, bệnh có cơ hội phát triển dẫn tới chết nhiều trong các ao nuôi.

Các ao nuôi quạt khí hết công suất nhưng số lượng ao chết càng tăng, đến thời điểm ngày 19/05/2006, khu nuôi tôm Xuân Hòa, Xuân Vinh tỷ lệ các ao chết khoảng 70%.

Gió bắc, bão,và áp thấp thường gây mưa và làm nhiệt độ xuống rất thấp.Vì thời điểm này miền Bắc đang đầu mùa nắng nóng nên môi trường nuôi sẽ bị thay đổi đột ngột và gây sốc đối với tôm nuôi như phần trên đã đề cập.

• Tác động của trời mưa to sau nắng nóng do ảnh hưởng của không khí lạnh và bão Ảnh hưởng của hai trận mưa (một trận cuối tháng 4 và một cuối tháng 5) đối với tôm nuôi rất lớn, nó tạo ra những biến đổi bất lợi trong ao và đáy ao: Làm giảm pH nước, giảm độ mặn....Đặc biệt là giảm pH và Nhiệt độ tầng đáy làm tôm bị sốc, mặt khác trời mưa tạo thuận lợi giải phóng H2S từ đáy vào môi trường, ảnh hưởng xấu tới môi trường, làm giảm DO và gây độc cho tôm nuôi.

Hậu quả là tôm bị yếu, tác nhân gây bệnh có điều kiện phát triển, dẫn tới tôm chết rải rác ở trong các ao nuôi tại hai xã Xuân Hòa và Xuân Vinh ngay từ trận mưa đầu tiên (cuối tháng 4) và đến trận mưa cuối tháng 5 thì xóa sổ gần như hoàn toàn các ao nuôi (90-95%).

Số liệu phân tích môi trường cho thấy H2S các ao nuôi thu mẫu tăng cường (ngày 19/05) tại khu nuôi có hàm lượng khá cao, trung bình gần 0,10mg/l.

Ks:Nguyễn Đức Bình

Phòng N/C Môi trường-Viện N/C NTTS I

 


Hậu Giang và TP Cần Thơ: Thị trường cá giống: giá giảm, sức mua yếu

Nguồn tin: CT, 5/8/2006
Ngày cập nhật: 5/8/2006

Hiện nay, giá cá giống tại tỉnh Hậu Giang và TP Cần Thơ đã giảm mạnh so với trước, sức mua cũng giảm mạnh. Nguyên nhân: đã gần hết vụ thả nuôi cá, thị trường cá giống cung đã vượt cầu, đầu ra thủy sản gặp một số khó khăn... Việc cá giống giảm giá và sức mua yếu đã làm nhiều cơ sở sản xuất và cung cấp cá giống giảm lợi nhuận, thậm chí có khả năng lỗ...

HẾT VỤ

Tỉnh Hậu Giang hiện có 57 cơ sở bán cá giống, tập trung nhiều ở các huyện Long Mỹ, Vị Thủy, Châu Thành và thị xã Tân Hiệp. Hiện nay, thời vụ thả giống thủy sản đã gần hết, sức mua cá giống yếu dần. Nhiều chủ cơ sở bán cá giống không khỏi thấp thỏm lo âu. Ông Phan Văn Long, chủ trại cá giống Đức Tài ở phường Ngã Bảy, thị xã Tân Hiệp, nói với vẻ lo lắng: “Ngay từ đầu năm, tôi đã ương hơn 10 triệu con cá bột chuẩn bị nguồn cá giống cung ứng cho nông dân. Nhưng thị trường cá giống năm nay giá cả thật bất thường, giảm từ 5-10% so với năm trước, sức mua cũng yếu hơn. Mọi năm, vào thời điểm này, mỗi ngày tôi bán khoảng 300 kg cá giống. Nhưng nay hôm nào bán được khoảng 100 kg là coi như đắt lắm rồi. Hiện trong bể ương còn hàng ngàn kg cá giống các loại. Với giá bán như hiện nay, thu nhập của tôi bị giảm hơn 100 triệu đồng so với năm trước”.

Theo anh Tô Văn Tửng, chủ trại cá giống Tư Mềm ở xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, từ đầu năm đến nay anh chỉ bán được hơn 100 kg cá giống, bằng 1/5 so với cùng kỳ năm trước. Giá các loại cá giống đều thấp hơn năm trước. Cụ thể giống cá trê vàng lai, rô phi chỉ và điêu hồng có giá 30.000 đồng/kg, giảm 8.000 đồng so với hồi đầu năm; giá cá tai tượng lồng 12 (2,5 phân) chỉ còn 400 đồng/con; cá thác lác cườm kích cỡ 5-6 phân chỉ có giá 2.000 đồng/con, giảm khoảng 10% so với năm trước. Anh Trần Ngọc Tuấn, chủ cơ sở cá giống Thảnh Mập ở phường Ba Láng, TP Cần Thơ - có 3 đại lý cung ứng cá giống ở Hậu Giang cũng cho biết: “Nông dân ở Hậu Giang có tập quán nuôi cá trên ruộng vào mùa nước nổi. Cá giống được chọn thả nuôi trong vụ này là chép và mè vinh, nay do đã gần hết vụ nuôi nên giá đang giảm. Nhìn chung, thị trường cá giống năm nay sức mua yếu hơn các năm trước”.

TP Cần Thơ hiện có khoảng 100 cơ sở chuyên sản xuất, cung cấp cá giống có đăng ký với ngành thủy sản. Trong đó, các cơ sở cá giống ở Ô Môn cung cấp số lượng lớn cá giống cho TP Cần Thơ và nhiều tỉnh ĐBSCL như: An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Vĩnh Long... Hiện nay, ở Ô Môn có trên 37 cơ sở cá giống có năng lực sản xuất khoảng 50% lượng cá giống trong tổng lượng cá giống cung cấp cho khách hàng, số còn lại các cơ sở này thu mua từ các trại sản xuất cá giống trên địa bàn huyện Cờ Đỏ và Nông trường Sông Hậu để cung cấp cho người nuôi. Các chủ cơ sở cá giống tại đây cho biết: Những ngày gần đây, thỉnh thoảng mới có khách hàng tìm đến mua cá về thả nuôi. Phần lớn những người nuôi cá đã chuẩn bị xong lượng cá giống để thả nuôi trên ruộng mùa nước nổi sắp đến. Hiện tại, chỉ còn một số ít nông dân ở các huyện đầu nguồn lũ có nhu cầu mua cá giống về chuẩn bị thả trên ruộng. Theo các chủ cơ sở cung cấp cá giống ở Ô Môn, bây giờ còn bán được lai rai, khoảng nửa tháng nữa sẽ hết cơ hội cung cấp cá giống cho đối tượng khách hàng này. Các cơ sở cá giống ở Ô Môn hoạt động cung cấp cá giống quanh năm, nhưng thường mùa kinh doanh của họ là cung cấp cá giống cho khách hàng ở các huyện đầu nguồn lũ của TP Cần Thơ. Vì vậy, khi không còn cung cấp cho đối tượng khách hàng này, các cơ sở sẽ chuyển qua cung cấp cá giống cho khách hàng ở một số tỉnh ĐBSCL và cung cấp cho khách hàng tại TP Cần Thơ thả nuôi cá ao.

Mặc dù sức mua yếu trở lại, nhưng từ đầu năm đến nay giá cá giống do các cơ sở cá giống ở Ô Môn cung cấp vẫn ổn định. Cụ thể: cá trê đang có giá dao động từ 30.000-35.000 đồng/kg, cá mè vinh và mè trắng 20.000-22.000 đồng/kg, cá chép 35.000-37.000 đồng/kg... Tuy nhiên, giá cá giống ở đây hiện nay đã giảm 30-50% (tùy theo loại cá) so với thời điểm cùng kỳ năm trước.

CUNG VƯỢT CẦU

Theo nhiều chủ cơ sở cá giống ở Ô Môn, năm nay giá cá giống giảm là do thị trường cá giống cung đã vượt cầu, ngày càng có nhiều người sản xuất và cung cấp cá giống trên thị trường, trong khi đó phong trào nuôi cá ở một số tỉnh ĐBSCL có dấu hiệu chựng lại. Ông Lê Thanh Khiết, chủ cơ sở cá giống Năm Khiết ở Ô Môn, cho biết: “Mấy năm trước, nơi đây chỉ có hơn chục cơ sở cung cấp cá giống, còn bây giờ đến mấy chục cơ sở. Mấy năm nay, ở các tỉnh ĐBSCL phong trào ương sản xuất cá giống cũng phát triển mạnh. Không quản lý được nguồn cung và khi sản xuất đại trà một loại cá nào đó dễ bị dội hàng. Lúc đó, các cơ sở buộc phải tự hạ giá xuống, coi như tự làm khó mình. Chính điều này đã làm cho giá cá năm nay giảm mạnh”.

Nhiều chủ cơ sở cá giống ở Ô Môn cho biết, với giá cá giống như hiện nay mức lời rất meo, chỉ khoảng 2.000-3.000 đồng/kg. Trong khi đó, thức ăn cho cá và xăng dầu tăng giá đã làm cho chi phí ương sản xuất cá giống tăng lên. Giá cá giống giảm mạnh không những các cơ sở cung cấp cá giống ở Ô Môn gặp khó khăn, mà các trại sản xuất cá giống cũng lỗ nặng. Ông Trần Đình Chuyển, chủ cơ sở cá giống Tư Chuyển ở Ô Môn, cho biết: “Với giá cá trê giống 25.000-27.000 đồng/kg như hiện nay mà các trại sản xuất cá giống bán cho các cơ sở cung cấp cá giống bán lại cho nông dân, cứ ương 1 triệu con bột lỗ từ 2-2,5 triệu đồng. Còn ương 1 triệu con cá mè vinh bột bán với giá 16.000-17.000 đồng/kg, các trại cá giống sẽ lỗ từ 1 triệu đồng trở lên. Cơ sở của tôi năm trước bán được cả chục tấn cá giống, nhưng từ đầu năm đến nay chỉ bán được chừng 4 tấn...”.

Tỉnh Hậu Giang có hơn 54.000 ha thích hợp nuôi thủy sản. Chi cục Thủy sản tỉnh Hậu Giang cho biết, nhằm khai thác tiềm năng này, tỉnh đã đề ra kế hoạch thả nuôi 9.500 ha thủy sản các loại, tăng 500 ha so với năm trước. Tuy nhiên, đến nay nông dân chỉ mới thả giống được khoảng 9.000 ha. Dự báo diện tích nuôi thủy sản năm nay không tăng mà thậm chí giảm so với năm trước. Kỹ sư Ngô Quốc Phúc, Chi cục Phó Chi cục Thủy sản tỉnh Hậu Giang, nhận định: Đầu ra một số mặt hàng thủy sản như: cá tra, ba sa, trê vàng lai, thác lác luôn bấp bênh, giá cả không ổn định, làm nhiều nông hộ bị thua lỗ, nên không dám đầu tư nuôi lại. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến diện tích nuôi thủy sản giảm; tác động mạnh đến các cơ sở bán cá giống.

Như vậy, điều đó cũng đồng nghĩa với việc thị trường giống thủy sản không còn bấp bênh khi giá cả và đầu ra của các mặt hàng thủy sản chế biến được giải quyết tốt ở cả thị trường trong và ngoài nước.

PHÚ KHỞI - HỒNG BẢO


Đồng Tháp: Nuôi thành công trai nước ngọt khổng lồ

Nguồn tin: CT, 4/8/2006
Ngày cập nhật: 5/8/2006

(CT)- Anh Dương Văn Nhân, ở cồn Ông Bùn thuộc xã An Hiệp, huyện Châu Thành (Đồng Tháp) đã ương nuôi thành công loại trai nước ngọt khổng lồ. Theo anh Nhân: Năm 1995 một dự án nuôi trai nước ngọt lấy ngọc được thử nghiệm ở đây nhưng không thành công. Anh xin 4 con trai nhỏ về thả trong ao của trang trại gia đình, không ngờ loài trai này phát triển nhanh và kích thước ngày càng lớn, mỗi con có trọng lượng từ 1 đến 1,7 kg và hiện đang sinh sôi nảy nở. Thịt trai thơm, có vị ngọt và giòn không thua gì mực ống.

Anh Nhân cho biết đang nhân giống và nuôi đại trà loài trai này với hy vọng là món đặc sản của vùng sông nước Cửu Long.

NG. H. H

 


Tháng chín tiêu thụ cá tra sẽ khả quan hơn

Nguồn tin: TT, 05/08/2006
Ngày cập nhật: 5/8/2006

 


Cá kèo - dễ nuôi, dễ bán

Nguồn tin: SGGP, 04/08/2006
Ngày cập nhật: 5/8/2006

Anh Lê Minh Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Hiệp Phước huyện Nhà Bè, cho biết: “Sau mấy đợt dịch cúm gia cầm, bệnh lở mồm long móng gia súc, nhiều nông dân chuyển sang nuôi cá, nhất là cá kèo. Xã Hiệp Phước hiện có 15 hộ tận dụng mặt nước gần sông rạch để nuôi cá kèo, cho thu nhập khá hơn nuôi gia súc hay gia cầm”.

Anh Nguyễn Văn Cu ở ấp 4 xã Hiệp Phước là một trong những nông dân đi đầu nuôi cá kèo và thành công. 4.000m2 đất ruộng cạnh sông rạch, mỗi năm làm được 1 vụ lúa, gia đình anh tằn tiện lắm cũng chỉ đủ ăn.

Những năm 2000-2002, khi nuôi tôm sú ở huyện Nhà Bè phát triển, anh cũng gia cố bờ bao, vét ao nuôi tôm, trừ hết chi phí còn lời 14-15 triệu đồng/ năm. Đến năm 2003, tôm sú bị dịch bệnh chết hàng loạt, anh chuyển sang nuôi cá kèo.

Năm đầu tiên anh thả 200.000 cá giống, do thả dày và không cho ăn mồi nên cá lớn chậm, thu hoạch 1,6 tấn bán được 64 triệu đồng, lời 55 triệu đồng. Đợt sau anh thả 150.000 cá giống (mật độ 35-40 con/m2) và cho ăn cám nên cá mau lớn. Trung bình một năm thả 2 đợt với khoảng 300.000 cá giống, thu 3-3,5 tấn cá thịt, bán 120-140 triệu đồng, trừ các chi phí còn lời 100-120 triệu đồng.

Anh Nguyễn Văn Cu tâm đắc: “So với nuôi tôm sú hoặc chăn nuôi thì nuôi cá kèo khỏe hơn nhiều, do ít dịch bệnh. Cá kèo có tập tính đi theo nước ngược nên thu hoạch cũng dễ dàng, chỉ cần canh vào các ngày giữa tháng hoặc cuối tháng âm lịch nước thủy triều lên, đặt lộp phía ngoài bọng rồi mở bọng cho nước từ ngoài sông tràn vào, cá kèo sẽ đi ngược nước vào lộp. Gần như lúc nào cá kèo trên thị trường cũng được giá, nhiều lúc hút hàng, thương lái đến tận nơi mua giá 60.000 đồng- 70.000 đồng/ kg vẫn không đủ bán”.

Khó khăn hiện nay là con giống cá kèo phải khai thác từ thiên nhiên nên giá khá cao (100.000 con giá 4-4,5 triệu đồng).

TRẦN CÔNG TẠO

 


HẠ NGUỒN SÔNG ĐỒNG NAI: MÔI TRƯỜNG KÊU CỨU!

Nguồn tin: BR-VT, 4/8/2006
Ngày cập nhật: 5/8/2006

 


Nuôi tôm ở Thạnh Phước – đã có tín hiệu khởi sắc

Nguồn tin: BTre, 25/07/2006
Ngày cập nhật: 4/8/2006

Thạnh Phước là xã có diện tích nuôi tôm lớn nhất huyện Bình Đại (3.609 ha), với sản lượng tôm bình quân khoảng 6.000 tấn/năm. Thời điểm tôm chết do ô nhiễm đã khiến dư luận xôn xao bàn tán. Giờ đây đến Thạnh Phước, chuyện tôm chết đã khép vào quá khứ. Con tôm hiện đang có giá và người dân địa phương đang trong khí thế sản xuất mới, đạt sản lượng cao…

Nét mặt hân hoan, anh Hai Đồng (ấp 5) cho biết: “Tôi mới thu hoạch cũng được kha khá. Làm nghề này phải chịu cực bám đất, theo dõi sát thì mới có lãi”. Vụ mùa rồi, anh nuôi 7 công lãi hơn 150 triệu. Một số hộ khác như anh Nhân (ấp 5), các anh Ba Tịnh, Ba Tiên (ấp 4), anh Trường (ấp 6)… mỗi người thu lãi từ 60 đến trên 140 triệu (theo thời giá hiện tại, tôm loại 40 con/kg giá có giá từ 87.000 đến 88.000/ kg). Các anh đều có tay nghề lâu năm, am hiểu rõ về điều kiện sinh thái ở nơi này.... Nhận xét về vấn đề tôm chết trước đây, Bí thư Đảng ủy xã Thạnh Phước – anh Nguyễn Văn Rê, cho biết: “Do một số ít người thiếu ý thức bảo vệ môi trường nên đã bơm nước thải ở các vuông tôm chết ra, làm ảnh hưởng tới nguồn nước chung… Hơn nữa, do bà con không lựa chọn giống kỹ lưỡng, phải nhầm tôm xấu đã dẫn đến lây bệnh trên diện rộng. Hiện địa phương đã khắc phục xong, ổn định sản xuất”.

Thạnh Phước có 715 ha đất dùng cho nuôi tôm công nghiệp. Do ảnh hưởng ô nhiễm nguồn nước trước đây, vụ mùa 2006 nông dân chỉ nuôi 370 ha và đang thu hoạch khoảng 20% diện tích thả tôm. Kết quả bước đầu cho thấy, đa số hộ nuôi đều có lãi – thậm chí lãi cao, nhất là khu vực đê Đông (có 150 ha tôm công nghiệp). Một trong những yếu tố giúp cho người nuôi lãi cao là ý thức bảo vệ môi trường của họ. Người dân rất tự giác, giữa tổ, ấp, quần chúng có mối quan hệ chặt chẽ nhau…, hễ nghe có tiếng máy bơm là họ chạy đi kêu nhau đến kiểm tra liền, bất kể ngày hay đêm. Rút kinh nghiệm sau đợt nguồn nước bị ô nhiễm, chính quyền địa phương đã kết hợp cùng các ngành chức năng khẩn trương thực hiện các biện pháp: khoanh vùng những vuông tôm bệnh xử lý ngay, tái tạo môi trường sinh thái mới; kiểm tra, xử phạt nghiêm việc bơm bùn ra sông rạch; thực hiện nghiêm việc kiểm soát nguồn tôm giống, thả giống…, nhờ vậy đã Hahn chóng chặn đứng dịch bệnh.

Người nuôi tôm ở Thạnh Phước giờ đây đã qua hồi lận đận vì dịch tôm bệnh hoành hành. Song nỗi đau của những người bị thua lỗ vì tôm, nhất là ở những khu vực như cánh đồng Bé, gò Tranh, rạch Chim có hơn 300 ha tôm bị chết, thiệt hại hơn 6 tỉ đồng và dư nợ của ngân hàng khoảng 30 tỉ đồng (dù tài sản của người vay luôn đảm bảo nợ vay) vẫn còn âm ĩ và cần phải có một thời gian để khắc phục. Băn khoăn về vấn đề này, anh Sáu Rê (Bí thư Đảng ủy xã Thạnh Phước) cho biết: “Với Thạnh Phước, thời điêu đứng vì tôm chết đã qua. Chúng tôi rất mong được các ngành chức năng quan tâm hơn, không nên nhìn phiến diện để đánh giá… Cần tạo điều kiện để giúp người dân vượt qua khó khăn trước mắt, tái sản xuất và lại làm giàu từ chính nơi họ đã từng làm giàu”. Theo phản ánh của một số nông dân: do nuôi tôm thấy có lãi, bà con tập trung vốn liếng nhiều hơn, lãi cao nhưng lại vẫn chưa muốn trả dứt nợ ngân hàng mà muốn kiếm thêm nữa…, nhưng họ không ngờ chuyện rủi ro đã xảy ra… Theo số liệu thống kê của Phòng Thủy sản Bình Đại, đến ngày 19-7-2006 tổng diện tích nuôi thủy sản toàn huyện là 14.792,8 ha (trong đó diện tích mặt nước nuôi tôm là 12.103 ha), đã thu hoạch 782,7 ha diện tích mặt nước được sản lượng 4.139,5 tấn tôm, hầu hết các hộ nuôi tôm đều có lãi .

Có thể khẳng định: đã có những tín hiệu vui mang đến từ việc nuôi tôm không riêng gì ở Thạnh Phước mà là của chung huyện Bình Đại. Tin rằng, với sự quan tâm của các ngành chức năng, nghề nuôi tôm ở nơi đây sẽ có bước phát triển hoàn thiện hơn trong tương lai. Điều này, cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ an toàn môi trường sinh thái, chọn lựa con giống tốt, có kế hoạch thả tôm nuôi theo đúng thời vụ, đúng điều kiện của từng vùng nước… để mang lại hiệu quả cao nhất

Đức Chính

 


Phát triển mô hình nuôi lươn trên cạn mùa lũ

Nguồn tin: AG, 4/8/2006
Ngày cập nhật: 4/8/2006

Sau 3 năm phát triển, mô hình nuôi lươn trong bồn nilon trên cạn của nông dân An Giang đang ngày càng lan rộng, nhất là khi mùa lũ về. Riêng mùa lũ năm 2005 toàn tỉnh đã có 290 hộ nuôi lươn với 400 bồn, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Chỉ cần vài chục mét vuông sau hè, quanh nhà hay khoảnh sân là có thể quây bồn nuôi lươn cạn, chỉ sau 6 tháng nuôi đã có thể kiếm được từ vài triệu đến vài chục triệu.

Dự kiến mùa lũ năm nay, diện tích bồn lươn ở An Giang sẽ tăng lên 20.000m2, giải quyết việc làm cho khoảng 1.000 lao động. Qua khảo sát cho thấy, lợi nhuận từ mô hình này đem lại hiệu quả cao, đặc biệt lươn không sợ ế, giá luôn cao.

Theo Nông thôn ngày nay

 


Người lính già và đàn cá “đẻ trứng vàng”

Nguồn tin: TP, 04/08/2006
Ngày cập nhật: 4/8/2006

Thấy khu đất đầm lầy bị nhiễm phèn nặng, cỏ mọc um tùm bỏ hoang, tiếc của giời, người lính già Điện Biên năm xưa đến xin thuê lại 1,4 ha đất để biến thành hồ cá "đẻ trứng vàng".

Từng là chiến sĩ Điện Biên, trải qua 2 cuộc kháng chiến, nay ông Thân Đức Cường đã 82 tuổi. Tuổi cao nhưng đều đặn mỗi ngày cứ sau giờ bắt mạch, bốc thuốc cho bệnh nhân tại phòng khám, vợ chồng ông lại dắt nhau ra vườn ngắm nhìn đàn cá vẫn ngày ngày “đẻ trứng vàng” cho ông...

Năm 2001, thấy khu đất đầm lầy bị nhiễm phèn nặng, cỏ mọc um tùm bỏ hoang, tiếc của giời ông Cường đến gặp Chủ tịch phường Phú Thọ (TX Thủ Dầu Một, Đồng Nai) xin thuê lại 1,4 ha nằm cạnh rạch Ông Tía.

“Nghe tôi trình bày kế hoạch phục hồi, khai thác cánh đồng chết thuộc cánh đồng Miễu Trắng này các chú trên ủy ban băn khoăn lắm. Nhưng cuối cùng HĐND phường cũng chấp nhận cho tôi thuê.

Tôi chỉ xin thuê trong vòng 15 năm, sau đó sẽ trả lại toàn bộ đất đai, cùng với công trình đã có trên mặt đất cho phường và chỉ nhận lại 1 USD danh dự”- Ông Cường kể.

Nhận đất, ông bắt tay vào cải tạo cánh đồng chết để thả cá. Ông quyết để đàn cá “đẻ trứng vàng”. Vụ đầu tiên (năm 2001) ông Cường thả 5 tạ cá giống, đầu tư 30 tấn thức ăn, chỉ sau 4 tháng nuôi, ông thu hoạch trên 30 tấn cá thịt.

Bình quân 1 tấn thức ăn cho 1 tấn cá thịt. Lúc này người ta mới tin rằng: Không có loại đất chết mà do ta không biết cách làm cho đất sinh lợi mà thôi.

Ông Cường cho biết, để có được những hồ cá như ngày nay, ông đã phải thuê xà lan mang đất từ ngoài vào bù đắp lại bề mặt, tốn kém tiền tỷ. Ngoài ra, ông còn bón hàng tấn phân hữu cơ để hạ phèn, tạo tảo, nhằm làm nguồn thức ăn tự nhiên cho cá. Nhờ thành phần này mà đàn cá phát triển tốt, lại ít tốn thức ăn.

Sau hơn 3 năm tẩy phèn lớp đất mặt mới trở lại bình thường, một vài loại cây chịu phèn: tràm bông vàng, bạch đàn, sả… bắt đầu sống được tại đây.

“Sắp tới tôi sẽ kết hợp với một vài người nữa đầu tư trồng cây thuốc Nam, thuốc Bắc như trầm gió, quế… nuôi thêm một số con như hươu, nhím… vừa cung cấp dược liệu làm thuốc vừa phù hợp để mở ra khu nghỉ dưỡng dành cho những người lớn tuổi, người bệnh vào tham quan, nghĩ ngơi chữa bệnh. Vì không khí ở đây rất trong lành và bình yên” - Ông Cường cho biết.

Sau khi được phường cho thuê 1,4 ha, gia đình ông Cường mua thêm 1ha và tiến hành đắp bờ bao cải tạo được khoảng 1,5 ha mặt nước để nuôi cá. Mỗi vụ thả nuôi từ 500 đến 600 ký cá giống như diêu hồng, chép, rô phi đơn tính….

Sau 3 tháng nuôi với khoảng 30 tấn thức ăn, cá đạt trọng lượng từ 0,6 - 1 kg. Tổng thu hoạch trên 30 tấn/vụ. Giá bán từ 16 - 17 triệu đồng/tấn cá thịt. Nếu nuôi liên tục mỗi năm có thể thu hoạch đến 3 vụ. Liên tục 3 năm nay đàn cá của ông Cường đã cho “trứng vàng” vì được mùa, được giá.

Duy Chí

 


Cảnh báo người tiêu dùng: Bắt ếch bằng thuốc sát trùng !

Nguồn tin: NLĐ, 3/8/2006
Ngày cập nhật: 4/8/2006

Đây là một kiểu săn ếch đang được nhiều người áp dụng. Ăn phải thịt ếch này có thể bị ngộ độc

Mới đây, về Cai Lậy (Tiền Giang), tôi nghe nhiều người kháo nhau về mùa soi ếch đồng. Thế nhưng, khác với cách soi thông thường, nay người ta phải pha chế mồi thật bắt mùi, trong đó sử dụng cả thuốc sát trùng. Ếch soi được họ bán cho mối, chuyển về các chợ ở TPHCM để tiêu thụ.

Mồi càng độc càng hiệu quả

Chiều tối trời bắt đầu lắc rắc mưa, nhiều người ở ấp 5, xã Tân Bình (Cai Lậy) bắt đầu pha mồi để đi soi ếch. Nguyên liệu là đầu cá, cua hoặc ốc băm nhuyễn từ hôm qua, khi đầu cá có mùi thối thì mang ra cho thêm vào vài viên thuốc ngủ cộng một ống vani, ống dầu chuối tạo thành một thứ mồi hỗn hợp. Ra đồng tìm nơi có nhiều cỏ, rậm rạp, dọn một chỗ trống rồi dùng cây nhọn khoét một lỗ nhỏ để đặt mồi, khoảng một tiếng sau quay lại bắt ếch (mồi này bắt mùi nên “dụ” ếch đến ăn, rồi chúng bị say thuốc nằm khờ, người đi soi chỉ cần tìm nhặt). Tuy nhiên, nếu không nhặt kịp, hết thuốc, ếch tỉnh lại sẽ nhảy đi mất. Vì vậy để chắc ăn, nhiều người đã cho thêm vào mồi nhử loại thuốc sát trùng tím (có tên khoa học là Puradance, công dụng để diệt mầm sâu bệnh). Với loại mồi có thêm thuốc sát trùng thì ếch không thể tự tỉnh thuốc, nhưng để lâu quá ếch sẽ chết. Khi ếch bị khờ, bắt được, muốn cho chúng tỉnh lại, người ta lấy lá rau lang non bỏ vào thau, rồi cho ếch vào, lá rau lang sẽ làm ếch tỉnh lại rất nhanh.

Một người chuyên soi ếch bằng mồi nhử cho biết: “Thấy ai cũng nhử ếch bằng thuốc nên cũng làm theo, còn độc hay không thì không biết, nhưng mỗi lần ăn những con ếch chết (không bán được) thấy bị nóng trong người”.

Gián tiếp ăn thuốc độc

Khảo sát một số chợ tại TPHCM, chúng tôi nhận thấy ếch đồng khá nhiều. Tại chợ Trần Chánh Chiếu (Q.5), giá bán ếch loại nhỏ (lột da) 35.000 đồng- 40.000 đồng/kg, loại lớn 50.000 đồng/kg. Một chị bán ếch ở chợ này quả quyết “ếch này từ Long An, Tiền Giang mang lên, bảo đảm là ếch đồng do người dân đi soi mà có”. Còn tại chợ Kiến Đức 2 (Bình Tân), nhiều người bán ếch cũng khẳng định là ếch tự nhiên (ếch đồng – không phải ếch nuôi) nên thịt chắc, thơm ngon hơn, giá 45.000 đồng/kg. Tuy nhiên, khi để ý kỹ sẽ thấy những con ếch này có bụng rất to. Theo nhiều người từng đi soi ếch, bụng ếch soi bằng mồi thường rất to do trong bao tử còn nhiều thức ăn vốn là mồi nhử, bụng ếch luôn có màu đen.

Theo bác sĩ Nguyễn Xuân Mai, Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh Y tế công cộng, ăn ếch bị soi bằng thuốc sát trùng như thế chẳng khác gì gián tiếp ăn thuốc độc. Vì khi vào cơ thể ếch, thuốc sát trùng sẽ ngấm, không đào thải được ra ngoài, nên khi con người ăn vào rất dễ bị ngộ độc. Hiện tượng nóng, khô cổ họng... chính là do bị trúng độc của thuốc sát trùng. Tốt nhất là không ăn những loại ếch này.

Sơn Nhung

 


Bảo vệ các loài thủy hải sản có nguy cơ tận diệt

Nguồn tin: SGGP, 3/08/2006
Ngày cập nhật: 4/8/2006

Theo Chi cục Bảo vệ môi trường Tây Nguyên và Đông Nam bộ, tại các nhà hàng ở tỉnh Kon Tum, giá cá chình nước ngọt đã gia tăng đột biến từ 120.000 đồng/kg vọt trên 350.000 đồng/kg, song hầu như vẫn không kiếm được cá chình tự nhiên để phục vụ các thực khách khó tính!

Khu vực 3 xã có khả năng đánh bắt được cá chình nơi thượng nguồn các dòng suối lớn là Ngok Tem, Xã Hiếu, Măng Bút (huyện Kon Plong, Kon Tum) trong thời gian qua đã bị “cày xới” dữ dội bằng những biện pháp đánh bắt mang tính hủy diệt như xung điện, hoặc dùng các loại cây độc trộn với vôi bột, hóa chất... rải xuống những nơi có cá chình sinh sống. Hệ quả là không chỉ có loài cá này mà hàng loạt thủy sinh vật khác cũng có nguy cơ bị tuyệt diệt.

Không chỉ có Việt Nam, nhiều nước trong khu vực cũng đang phải “đau đầu” vì tình trạng khai thác thủy hải sản bừa bãi để... phục vụ thực khách ham của lạ. Hải quan Indonesia mới đây đã bắt giữ một lô hàng khá đặc biệt: những con cá chình điện còn sống (Humphead Wrasse, một loại cá khổng lồ đặc hữu ở các rạn san hô).

Loại cá này có tên trong Phụ lục II của Công ước CITES, tức thuộc loại chỉ được khai thác và kinh doanh dưới sự kiểm soát rất chặt chẽ, song lại là loại hàng hóa thường xuyên bị buôn bán bất hợp pháp để phục vụ các nhà hàng sang trọng ở Hồng Công, Malaysia, Singapore và Trung Quốc... với giá gốc lên tới 100 USD/kg.

Đây là lần thứ 3 từ đầu năm tới nay Hải quan Indonesia bắt giữ những lô hàng bất hợp pháp loại này. Do cá rất đắt nên hầu như được xuất khẩu 100% mà không tiêu thụ tại thị trường nội địa Indonesia. Điều đáng nói là do được ưa chuộng, loại cá này hiếm có cơ hội sống được đến lúc trưởng thành.

Các nhà khoa học cho biết, cá có thể dài tới 2m, nặng 190 kg và sống lâu tới 30 năm, nhưng thường bị đánh bắt và “lên đĩa” khi còn ở độ tuổi “thiếu niên” vì tiêu thụ dễ dàng hơn và vì thói quen thích “dùng cá cả con” của thực khách châu Á. Hồng Công là thị trường tiêu thụ lớn nhất, song các thị trường châu Á khác cũng đang rất “hút hàng”.

Trên thực tế, nghiêm cấm hoàn toàn việc tiêu thụ các sản phẩm thuộc loại này là bất khả thi, song theo các nhà nghiên cứu quốc tế, giải pháp hợp lý nhất là siết chặt và thực hiện nghiêm túc các quy định nhằm kiểm soát chặt chẽ quá trình khai thác và mua bán sản phẩm động thực vật quý hiếm. Khi đó, mối quan hệ “nhiều bên cùng có lợi” sẽ được thiết lập: thương gia vẫn có thể mua bán sản phẩm, người tiêu dùng (có khả năng chi trả) vẫn sẽ được thưởng thức món ăn yêu thích của mình, còn các loài động thực vật quý hiếm vẫn sẽ tiếp tục có cơ hội sinh tồn trên trái đất...

Theo báo cáo mới nhất mà TRAFFIC, một tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế, chuẩn bị công bố chính thức: Xu hướng buôn bán, tiêu thụ động thực vật hoang dã ở Việt Nam hiện nay đang tăng mạnh hơn bao giờ hết.

Đây chính là nguy cơ lớn nhất đối với nhiều loài động thực vật hoang dã, đẩy gần 700 loài tới bờ vực tuyệt chủng ở cấp quốc gia, hơn 300 loài có nguy cơ tuyệt chủng trên toàn cầu. Trong 10 năm qua, Sách Đỏ của Việt Nam “được” bổ sung tới 148 giống loài. So với Sách Đỏ công bố năm 1992, là “nguy cấp” thì nay Sách Đỏ Việt Nam đã phải sử dụng tới cụm từ “tuyệt chủng”. 46 loài khác được coi là ở mức độ “cực kỳ nguy cấp”, trong đó có hổ Đông Dương, bò biển, rắn hổ mang chúa và linh trưởng.

ANH THƯ


Đồng bằng sông Cửu Long: Ngư dân thiệt hại hơn 200 tỉ đồng do giá cá tra, basa sụt giảm

Nguồn tin: NLĐ, 3/8/2006
Ngày cập nhật: 4/8/2006

 


4 thuận lợi và 9 thách thức cho thủy sản hội nhập

Nguồn tin: VNECONOMY, 3/08/2006
Ngày cập nhật: 4/8/2006

Biết rõ “cuộc chơi” sẽ có rất nhiều “lắt léo” để sẵn sàng đối phó, phải gấp gáp “học” và chuẩn bị đầy đủ để đối phó.

Bộ Thủy sản cho rằng: “Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ làm xuất hiện nhiều nhân tố mới. Yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục khai thác tốt các tiềm năng, đầu tư phát triển có hiệu quả, bền vững và tiếp tục hội nhập nhanh với thủy sản khu vực và quốc tế”, đồng thời xác định nhiệm vụ trong 6 tháng cuối năm 2006 là sẽ tổ chức phổ biến kiến thức về hội nhập, hệ thống luật pháp thương mại trong WTO và các nước khác cho các cán bộ quản lý, cho doanh nghiệp và doanh nhân.

Đức Nguyễn - Đức Long

 


Để nuôi tôm đạt hiệu quả

Nguồn tin: Thị trường CN, 23/7/2006
Ngày cập nhật: 3/8/2006

Để khắc phục tình trạng tôm bị bệnh thì việc sử dụng thuốc thú y thủy sản đúng cách là một trong những vấn đề được quan tâm của nhiều hộ nuôi trồng thủy sản. Chúng tôi đã trao đổi với ông Saran Chongchaisit - Giám đốc kỹ thuật nuôi tôm Công ty Diên Khánh thuộc Tập đoàn Kaset Center - Thái Lan xung quanh vấn đề này.

Ông có thể giới thiệu đôi nét về công ty và hướng dẫn cách nuôi tôm hiệu quả? Công ty Diên Khánh là đại diện của Tập đoàn Kaset Center của Thái Lan tại Việt Nam. Chúng tôi là một trong 3 nhà sản xuất thuốc thú y thủy sản hàng đầu của Thái Lan, sau khi các sản phẩm vi sinh giới thiệu tại Việt Nam thì tháng tư vừa qua các sản phẩm của công ty chúng tôi đã được Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Bộ Thủy sản Việt Nam đánh giá cao và công nhận là thương hiệu vàng về chất lượng. Sản phẩm của chúng tôi có mặt trên nhiều thị trường của thế giới như Ấn Độ, Indonesia, Sri-Lanca, Thái Lan ... là nhờ sự khẳng định chất lượng của sản phẩm, cũng như sự hỗ trợ kỹ thuật nuôi tôm sau bán hàng. Các chuyên gia người Thái Lan và các kỹ sư được đào tạo tại Việt Nam sẽ luôn có mặt để tư vấn miễn phí giúp đỡ bà con về kỹ thuật chăm sóc con tôm.

Để nuôi tôm hiệu quả, người nuôi tôm cần lưu ý thêm một số vấn đề sau: đáy ao không được ô nhiễm, nước không bị nhờn và màng béo, gia tăng hàm lượng oxy hòa tan, giảm khí độc NH3, H2S, mê tan ... tăng cường khoáng chất, ổn định pH, màu nước, tảo và khống chế vi sinh gây bệnh, tăng cường vi khuẩn có lợi. Có quy trình kỹ thuật sử dụng thuốc thú y thủy sản hợp lý thì ao, vuông tôm sạch không bị ô nhiễm, tôm khỏe và đạt năng suất cao. Việc quản lý sử dụng các loại thuốc thú y thủy sản phải hợp lý thì mới có ý nghĩa quyết định sự thành công trong nuôi tôm. Ngược lại quản lý sử dụng các loại thuốc thú y thuỷ sản không tốt sẽ dẫn đến lãng phí, tôm chậm lớn, tỷ lệ sống thấp, môi trường ô nhiễm ... Hầu hết các nhà sản xuất thuốc thú y thủy sản đều có hướng dẫn về thành phần hóa học, đặc tính, số lượng, loại thuốc ... cho từng thời kỳ sinh trường của tôm và môi trường. Cần bảo quản các loại thuốc thú y thủy sản nơi thoáng mát, khô ráo và tránh ánh nắng trực tiếp, thường xuyên kiểm tra hạn dùng.

Lam Phương


TP.HCM: nuôi cua thay tôm

Nguồn tin: TT, 02/08/2006
Ngày cập nhật: 3/8/2006

Nhiều hộ dân ở xã Hiệp Phước (Nhà Bè) và các xã lân cận bắt đầu chuyển qua nuôi cua trong đồng thay cho tôm sú. Chị Tư Hoàng ở ấp 2 cho biết: “Cua dễ nuôi hơn tôm nhờ ít nhiễm bệnh, thức ăn cũng dễ kiếm, lại mau thu hồi vốn”.

Các hộ mới nuôi đều mua cua ốp (cua nhẹ thịt, nặng vỏ) bắt ngoài sông về thả trong ao, cho ăn thức ăn chế biến từ còng bắt trong đồng. Nuôi trong hai, ba tuần là đã có thể bán giá 50.000 - 70.000 đồng/kg (mỗi ký khoảng 2-4 con).

KH.NGỌC

 


Bà Rịa - Vũng Tàu: Nguy cơ phá sản phong trào nuôi tôm

Nguồn tin: VNECONOMY, 2/08/2006
Ngày cập nhật: 3/8/2006

Tình hình nuôi tôm ở các vùng đang bị "chững" lại, các hộ dân nuôi thả tôm đang lâm vào hoàn cảnh lao đao.

Nguồn nước ô nhiễm và kỹ thuật nuôi chưa mang tính chuyên nghiệp, đặc biệt là ý thức cộng đồng không cao là những nguyên nhân khiến những hộ nuôi tôm của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bị thất thu. Chính điều này cũng làm cho phong trào nuôi tôm ở đây - một vùng được coi là tiềm năng có nguy cơ phá sản.

Vùng nuôi thủy sản Phước Thuận, Lộc An, Láng Dài (Bà Rịa - Vũng Tàu) nằm dọc theo sông Ray có diện tích tiềm năng khoảng 1.000 ha, là vùng nuôi có khả năng nuôi được 2 vụ/năm và có đủ điều kiện thuận lợi để phát triển vùng nuôi công nghiệp tập trung quy mô lớn trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Thế nhưng từ năm 2005 đến nay, tình hình nuôi tôm ở các vùng đang bị "chững" lại, các hộ dân nuôi thả tôm đang lâm vào hoàn cảnh lao đao.

Diện tích nuôi giảm do nguồn nước bị ô nhiễm

Theo Sở thuỷ sản Vũng Tàu, hiện nay tỉnh có diện tích khai thác thuỷ sản sử dụng với sản phẩm tôm khoảng hơn 500 ha.

Trong đó diện tích nuôi thâm canh, bán thâm canh khoảng hơn 200 ha, diện tích nuôi quảng canh cải tiến khoảng hơn 300 ha. Đối tượng nuôi chính trên vùng nuôi Phước Thuận, Lộc An, Láng Dài là tôm sú, và được một số hộ nuôi kết hợp với cá, ốc...

Trong ba vùng trọng điểm nuôi tôm trên, Phước Thuận có quy mô nuôi thả nhiều nhất với tổng diện tích nuôi tôm công nghiệp trước đây là 286,6 ha gồm: khu nuôi tôm công nghiệp Phước Thuận: 47 ha, khu nuôi tôm công nghiệp Bàu Sinh A: 160 ha, Bàu Sinh B: 79,6 ha. Nhưng diện tích khai thác hiện nay chỉ là 115,8 ha (chỉ gần 1/3 tổng diện tích).

Tuy nhiên, theo báo cáo tình hình sản xuất, các biện pháp khôi phục và phát triển nuôi thuỷ sản trên vùng nuôi Phước Thuận, Láng Dài, Lộc An của Sở thuỷ sản tỉnh cuối tháng 5/2006 thì việc phát triển nuôi thuỷ sản tại các vùng nuôi đang gặp những trở ngại về vấn đề môi trường, nguyên nhân chính là do việc khai thác và sử dụng không hợp lý nguồn lợi tự nhiên làm cho môi trường vùng nuôi bị suy thoái, ô nhiễm nghiêm trọng, tôm nuôi thường xuyên bị bệnh. Hoạt động nuôi trồng bị ngưng trệ trong vụ của quý I/2006.

Trong đó Phước Thuận là khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất.Hiện Phước Thuận có 144 hộ nuôi tôm, trong quý I/2006 có 30 hộ xuống giống với 42,9 ha nuôi công nghiệp; 40 ha nuôi bằng hình thức quảng canh. Đến cuối vụ thu hoạch thì có 20 ha bị bệnh chết (chiếm 50% trên diện tích thả giống). Sản lượng thu hoạch chỉ được 21,5 tấn với năng suất bình quân 0,5 tấn/ha.

Nông dân lao đao vì tôm

Theo anh Hà Văn Thiện - người ấp Ông Tô, Phước Thuận, gia đình anh nuôi tôm với diện tích 2 ha. Vụ nuôi vừa rồi, tôm bị bệnh đốm trắng chết hàng loạt, lỗ gần 100 triệu đồng. Các hộ nuôi tôm ở đây "mạnh ai nấy nuôi", không có sự phối hợp hay có ý thức về lợi ích chung. Con giống thì mỗi người tự đi lấy, khi tôm bị bệnh thì xả nước ra làm các ao tôm khác nhiễm bệnh theo.

Có thể nói, với quy trình nuôi tôm quảng canh thì nguyên nhân làm ô nhiễm nguồn nước như cách nuôi ở Phước Thuận là phổ biến ở nhiều vùng nuôi tôm khác trong cả nước. Ví như khu vực huyện Cần Giờ của Tp.HCM - nơi có điều kiện tự nhiên và đất đai tiềm năng tương đương với Bà Rịa- Vũng Tàu đã từng bị ô nhiễm mguồn nước.

Tuy nhiên, để giải quyết điều này thực không dễ. Anh Thiện cho biết: "Vụ này tôi thả ít hơn (150.000.000 tôm giống) vì nơm nớp sợ dịch bệnh. Nguồn nước ở đây ô nhiễm từ lâu mà chưa thấy chính quyền địa phương, Trung tâm khuyến ngư tỉnh có biện pháp xử lý, quản lý môi trường".

Anh Trần Hữu Lâm, Phó chủ nhiệm HTX dịch vụ và nuôi trồng thuỷ sản Phước Thuận thì tỏ ra lo âu trước tình hình nuôi tôm ngày càng giảm sút do dịch bệnh ngày càng nhiều mà chưa có hướng khắc phục. Trước kia bà con thả 60 con/m2, giờ nguồn nước bị ô nhiễm nên chỉ còn 30 con/m2.

"Trước năm 2002, mỗi vụ thu được 7 tấn/ ha, lãi từ 350-400 triệu, nhưng từ năm 2002 năng suất giảm dần vì nguồn nước đưa vào đìa tôm ô nhiễm. Vụ vừa rồi mới thả được 2 tháng là bán thốc, bán tháo vì nhiễm bệnh do virus, nếu không bán thì chỉ sau vài ngày là chết sạch. Nhiều người nuôi với quy mô lớn, do thua lỗ nặng đành phải bỏ trống hoặc bán đất, không dám nuôi tiếp", anh Lâm nói.

Giải thích tình trạng thất thu vì tôm trên địa bàn, ông Nguyễn Đăng Nhân, Phó phòng kỹ thuật Trung tâm khuyến ngư tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho biết, một phần là do quan niệm nuôi trái vụ có lợi nhuận cao nên nhiều hộ dân ở Phước Thuận, Lộc An, Láng Dài, xuống giống trái vụ (vụ mùa khô), thời điểm giống không hợp lý, điều kiện nuôi không thuận lợi dẫn đến dễ phát sinh dịch bệnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường vùng nuôi. Nguyên nhân chính của việc phát sinh dịch bệnh trên diện rộng là do kế hoạch nuôi giữa các hộ không đồng nhất, do đó việc xả nước và lấy nước không hợp lý, dễ lây lan các mầm bệnh.

Khi phát hiện dịch bệnh khó kiểm soát và khó khăn trong công tác cô lập, phòng chống và dập dịch. Bên cạnh đó, việc nuôi một đối tượng trong nhiều vụ trong nhiều năm làm cho môi trường nuôi bị suy thoái do sử dụng nhiều hoá chất, ao nuôi không có thời gian để tái tạo. Sự suy thoái môi trường trên vùng nuôi Phước Thuận, Lộc An, Láng Dài dẫn đến tình trạng người nuôi không còn "mặn mà" với con tôm, phong trào nuôi tôm tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có nguy cơ bị ngưng trệ do hoạt động sản xuất tiềm ẩn nhiều rủi ro và hiệu quả kinh tế không còn cao.

Tuấn Dũng- Trung Cường

 


Bão số 3 đang mạnh lên và đến gần bờ: Vẫn còn trên 1.500 tàu cá xa bờ trên biển

Nguồn tin: SGGP, 03/08/2006
Ngày cập nhật: 3/8/2006


TP.HCM nâng cao hiệu quả kinh tế của nghề nuôi cá sấu.

Nguồn tin: SGTT, 31/7/2006
Ngày cập nhật: 2/8/2006

Hiện nay, phong trào nuôi cá sấu nước ngọt đang phát triển mạnh trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh với khoảng 170 trang trại và hộ dân tham gia nuôi cá sấu. Tổng đàn cá sấu của toàn thành phố hiện có gần 80.000 con, trong đó có trên 3.000 con cá sấu bố mẹ.

Nhiều trang trại nuôi cá sấu trên địa bàn thành phố có quy mô từ 1.000 con trở lên: trại cá sấu Hoa Cà (quận 12), Công ty TNHH chăn nuôi và kinh doanh cá sấu Tồn Phát (huyện Củ Chi), khu du lịch Suối Tiên( quận 9)... Giá trị thu được từ bán cá sấu đạt hàng chục tỷ đồng/năm và lợi nhuận đạt trên 15 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên theo đánh giá của các nhà chuyên môn, hiệu quả kinh tế từ nuôi cá sấu của thành phố chưa cao, vì hiện nay các trang trại, hộ nuôi cá sấu thu nhập chủ yếu từ việc bán thịt cá sấu và xuất khẩu cá sấu nguyên con, còn việc chế biến, xúât khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, tiêu dùng từ da cá sấu là những sản phẩm đem lại nhiều giá trị gia tăng thì còn khá khiêm tốn. Từ những năm 2000, thành phố đã khuyến khích phát triển phong trào nuôi cá sấu trong các đơn vị kinh tế nông nghiệp, các trang trại và hộ dân ở các quận, huyện vùng ven, ngoại thành có nhiều diện tích mặt nước, đầm lầy... Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học với nhiều nhà chuyên môn để nghiên cứu về quy trình nuôi cá sấu: các kỹ thuật ấp trứng, kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng cá các lứa tuổi, thức ăn cho cá sấu cho đến các quy trình chế biến thịt và xuất khẩu cá sấu... qua đó kết hợp với các đơn vị, trang trại nuôi nhiều cá sấu như: Khu du lịch Suối Tiên, trại cá sấu Hoa Cà, trại cá sấu FORIMEX, trại cá sấu Tồn Phát... phổ biến, hướng dẫn kỹ thuật nuôi cá sấu cho các hộ dân chăn nuôi với quy mô nhỏ (từ vài chục con/hộ). Đặc biệt các trang trại đã cung cấp và bán hàng ngàn con giống (thường là giống Hoa Cà, Cu Ba, Xiêm) cho các hộ chăn nuôi. Từ năm 2003, thành phố đã có quyết định xây dựng làng nghề nuôi cá sấu Sài Gòn (do HTX nông nghiệp Xuân Lộc kết hợp với Công ty cá sấu Hoa Cà) và đã đầu tư trên 1 tỷ đồng và tổ chức trại nuôi cá sấu tập trung với quy mô trên 8.000m 2 tại phường Thạnh Xuân, quận 12. Qua đó làng nghề trên đã tạo điều kiện cho cả trăm hộ dân xung quanh tham gia nuôi cá sấu gia công với số lượng lên trên 10.000 con. Ngoài ra, làng nghề và còn dạy nghề, tạo công ăn việc làm cho hàng chục lao động tại chỗ tham gia làm việc trong các xuởng thuộc da, chế biến thịt cá sấu...của công ty. Qua phong trào nuôi cá sấu, nhiều hộ dân nhận thấy mức lãi của nghề nuôi cá sấu khá từ 30 đến 40%, sau khi trừ mọi chi phí, nên ngoài phần nuôi gia công cho các trang trại, họ đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư xây dựng thêm chuồng trại (khoảng vài chục triệu đồng/trại) và mua con giống về phát triển nuôi riêng cho gia đình, cụ thể như ông Mười Chơi ở phường An Phú Đông (quận 12) đã đầu tư trên 100 triệu đồng mở rộng quy mô nuôi cá sấu từ trên 10 con ban đầu lên trên 100 con hiện nay và bán cá sấu con cùng thịt cá sấu cho lãi 60 đến 70 triệu đồng/năm. Tuy nhiên hiện nay các hộ nuôi cá sấu nhỏ (kể cả các trang trại lớn) thu lợi từ cá sấu chưa cao do thị trường xúât khẩu cá sấu chính hiện nay là Trung Quốc với số lượng cũng chưa nhiều.

Hiện ở thành phố Hồ Chí Minh cũng mới có 4 trang trại được CITES (Tổ chức kiểm soát buôn bán động vật hoang dã quốc tế) cho phép nuôi và sinh sản cá sấu xuất khẩu nên số lượng xuất khẩu cá sấu cững chưa nhiều: 6 tháng đầu năm nay, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã hoàn tất thủ tục xuất khẩu 6.000 con cá sấu và mới có 3.500 con đã xúât khẩu. Do vậy để nâng cao hiệu quả kinh tế của cá sấu, làng nghề cá sấu Sài Gòn (do 2 đơn vị là HTX NN Xuân Lộc và Công ty cá sấu Hoa cà liên doanh) đã tìm được đối tác Trung Quốc phối hợp mở nhà hàng cá sấu và cửa hàng bán đồ tiêu dùng làm từ da cá sấu ở thành phố Nam Ninh (Trung Quốc) với nhu cầu tiêu thụ thịt, da cá sấu với số luợng lớn trong thời gian tới.

Theo TTXVN

 


Kiên Giang: Nuôi cá tra công nghiệp trong ao đất

Nguồn tin: TTXVN, 01/08/2006
Ngày cập nhật: 2/8/2006

Tỉnh Kiên Giang đã triển khai mô hình sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm cá tra công nghiệp trong ao đất tại xã Thạnh Đông (Tân Hiệp), với tổng kinh phí đầu tư gần 2,3 tỷ đồng.

Mô hình nuôi cá tra thương phẩm trong ao đất theo hình thức công nghiệp tạo mô hình nuôi chuẩn trên diện tích 5.000m2 mặt nước với mật độcá thả nuôi 30con/m2.

Mô hình thí điểm trại sản xuất giống gắn với nuôi cá tra thương phẩm do Công ty Xuất Nhập khẩu thủy sản Kiên Giang thực hiện cũng tại địa bàn huyện Tân Hiệp vừa được nghiệm thu đã đạt hiệu quả đáng phấn khởi, tăng hiệu quả kinh tế và thu nhập cho nông dân./.

 


Mở rộng diện tích nuôi thủy sản-lời giải bài toán thiếu nguyên liệu?

Nguồn tin: QĐND, 1/8/2006
Ngày cập nhật: 2/8/2006

 


Bình Định - Nuôi tôm xen các đối tượng thủy sản khác: Một cách làm có hiệu quả

Nguồn tin: BĐ, 1/8/ 2006
Ngày cập nhật: 2/8/2006

Để hạn chế tình trạng dịch bệnh trong nuôi tôm, thời gian qua ngành Thủy sản tỉnh Bình Định đã tăng cường vận động và khuyến cáo người dân chuyển đổi nuôi tôm xen với các đối tượng thủy sản khác, bước đầu đã đem lại kết quả khả quan.

* Tích cực chuyển đổi

Theo các chuyên gia về nuôi trồng thủy sản, hiện nay trên thị trường chưa có loại thuốc đặc hiệu nào để xử lý khi tôm bị bệnh. Bởi vậy, để hạn chế thiệt hại trong việc nuôi tôm, điều quan trọng là cần phải phòng ngừa dịch bệnh bằng cách cải tạo môi trường nuôi. Trong điều kiện tỉnh Bình Định hiện nay, việc cải tạo môi trường nuôi bằng cách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là chưa thể tiến hành ngay được, do nguồn kinh phí quá lớn. Bởi vậy, giải pháp phù hợp mà ngành Thủy sản Bình Định lựa chọn là triển khai nuôi tôm xen với các đối tượng thủy sản khác (nuôi thân thiện với môi trường) nhằm giảm thiểu việc ô nhiễm môi trường nuôi. Nhờ hiệu quả của các mô hình khuyến ngư, cộng với việc tăng cường khuyến cáo của các ngành chức năng, nên việc chuyển đổi hình thức nuôi từ thâm canh-bán thâm canh (TC-BTC) sang nuôi xen với các đối tượng thủy sản khác (cá chua, cá mú, rô phi, cua biển và một số loài thủy sản khác) ngày càng phát triển mạnh ở các vùng nuôi tôm trong tỉnh. Năm 2005, trên địa bàn tỉnh có chưa đến 200 ha nuôi xen, nhưng đến nay con số này đã lên đến 1.200 ha.

Ông Hồ Phước Hoàng - Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư tỉnh - cho biết: "Việc nuôi tôm xen với các đối tượng khác sẽ giúp cải tạo tốt môi trường nuôi, bởi các đối tượng nuôi mới này sẽ ăn thức ăn thừa, chất thải của tôm và những vi sinh vật phù du, làm sạch nguồn nước. Từ năm 2004, chúng tôi đã xây dựng mô hình nuôi xen này ở các vùng nuôi tôm trong tỉnh và đã cho hiệu quả nhất định, hạn chế được dịch bệnh tôm phát sinh mà hiệu quả kinh tế đem lại cũng tương đối cao".

* Hiệu quả thiết thực

Điển hình như ở huyện Tuy Phước, giải pháp nuôi xen các đối tượng nuôi khác nhau đã giảm được tình trạng dịch bệnh trong nuôi tôm, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Ông Nguyễn Bay - Trưởng phòng Kinh tế huyện Tuy Phước, cho biết: "Từ năm 2005 đến nay, việc chuyển đổi từ nuôi TC-BTC sang nuôi xen ở huyện Tuy Phước phát triển rất mạnh. Hiện nay, trong tổng số 968 ha nuôi tôm của huyện, đã có gần 600 ha chuyển sang hình thức nuôi xen. Để nông dân an tâm thực hiện việc chuyển đổi này, chúng tôi đã cử cán bộ kỹ thuật thường xuyên theo dõi, tập huấn kỹ thuật nuôi mới cho người dân. Qua đó, đã có nhiều hộ nuôi thu được kết quả khả quan".

Ngoài một số hộ nuôi tôm ở Phước Sơn, Phước Thuận cố gỡ gạc, vẫn thả tôm với mật độ cao, nuôi TC-BTC, vẫn phải tiếp tục thua lỗ, nhiều hộ khác đã có lãi nhờ nuôi xen. Bà Đỗ Thị Hạnh, một hộ mới chuyển từ nuôi TC-BTC sang nuôi xen ở Phước Sơn, cho biết: "Từ năm 2001 đến năm 2005, năm nào đìa tôm của gia đình tôi cũng bị lỗ. Từ năm 2005 đến nay, tôi chuyển qua nuôi tôm xen với cá chua, cá rô phi theo sự khuyến cáo của huyện, dịch bệnh đã không còn xảy ra và đã có lãi. Tuy lãi của việc nuôi xen này không cao, nhưng được cái là an tâm hơn, vì vốn đầu tư ít". Với diện tích thả nuôi hơn 1,5 ha, vụ nuôi năm 2005 bà Hạnh đã đầu tư khoảng 30 triệu đồng và thu lãi trên 30 triệu đồng. Riêng vụ nuôi 2006 này, cũng với hình thức nuôi xen, đã đem về cho bà trên 40 triệu đồng tiền lãi. Còn anh Tân Nhật Minh (Phước Sơn), sau khi được tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, liền áp dụng nuôi xen trên diện tích tôm nuôi TC-BTC lâu nay của mình. Anh nói: "Mấy năm liên tiếp nuôi tôm thất bát đã đẩy gia đình tôi vào cảnh khó khăn, tưởng chừng sẽ bỏ đìa. Nhờ việc nuôi xen đầu tư ít, các hộ đã nuôi cũng có lãi tương đối khá, nên tôi quyết định chuyển qua hình thức nuôi này, và hiệu quả đã thấy rõ...".

Theo đánh giá của ngành Thủy sản tỉnh, phong trào nuôi tôm xen canh hiện nay phát triển mạnh mẽ ở nhiều vùng nuôi tôm trong tỉnh, đặc biệt là các vùng thường xuyên xảy ra dịch bệnh như Phước Sơn, Huỳnh Giảng, Tam Quan Bắc... Ông Hồ Phước Hoàng nhận xét: "Việc nuôi tôm xen với các đối tượng thủy sản khác đã giúp cải tạo môi trường nuôi và nâng cao hiệu quả kinh tế cho người nuôi tôm. Thông thường việc nuôi tôm TC-BTC ngày trước, 1 ha phải đầu tư khoảng 80 triệu đồng/vụ, nếu trúng thì thu lãi cũng chừng ấy. Còn với việc nuôi xen này, không phải tốn chi phí thức ăn, thuốc... cho cá, bởi cá sẽ ăn các loại côn trùng, rong, bã thực vật mà con tôm thải ra. Như vậy, môi trường nuôi sẽ trong sạch, con tôm có điều kiện phát triển tốt hơn, nhưng chi phí lại thấp. Trung bình 1ha nuôi xen chỉ đầu tư hơn 30 triệu đồng và thu lãi cũng khoảng chừng ấy, nhưng người nuôi sẽ an tâm hơn vì suất đầu tư thấp và hạn chế được dịch bệnh".

Ngọc Thái

 


Quảng Nam: Cá chết trắng hồ, dân hoang mang

Nguồn tin: LĐ, 2/8/2006
Ngày cập nhật: 2/8/2006

Cá nuôi lẫn cá tự nhiên các loại trong hồ chứa nước Phước Hà (thôn Linh Cang, xã Bình Phú, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) bỗng chết trắng mặt hồ. Hiện có rất đông người dân ra bờ đập hồ Phước Hà, tranh nhau vớt cá chết về cho lợn ăn. Chưa rõ nguyên nhân cá chết hàng loạt. 4 hộ dân đã đổ hàng trăm triệu đồng vào bầy cá nuôi bị chết, đang đối mặt với nguy cơ phá sản.

Ngày 1.8, chúng tôi tận mắt trông thấy cảnh đàn đàn lũ lũ cá chết phơi bụng, trôi nổi lềnh bềnh trắng mặt nước, dạt vào khắp bờ hồ Phước Hà, địa phận thôn Linh Cang, xã Bình Phú, huyện Thăng Bình (Quảng Nam). Không chỉ có các loại cá được 4 hộ dân ở đây thả nuôi trong hồ, gồm cá chép, trôi, trắm, chim trắng..., mà cả các loại cá tự nhiên sống trong hồ như cá diếc, tràu và cả ba ba đều lăn ra chết hàng loạt. Cá nhỏ chết rã xác, cá to bằng 2 bàn tay người lớn cũng chết trương phình. Cá chết tấp vào nhiều nhất ở cửa xả hồ chứa nước, bốc mùi tanh tưởi.

Thế nhưng, vẫn có hàng chục người dân tiếc của trời, mang gánh, giỏ, bao tời ra đây chờ cá chết nổi lên để tranh nhau nhặt về làm thức ăn cho heo, có người đi vớt cá chết từ 3 giờ sáng. Ông Nguyễn Văn Duyên - một trong 4 chủ hộ nuôi cá - cho biết: Từ cách đây hơn 1 tháng, cá trong hồ bắt đầu chết rải rác. Đến khoảng 10 ngày trở lại đây, chúng chết đồng loạt, mỗi ngày có đến khoảng 5 tạ cá chết được vớt xác.

Không chỉ ông Duyên, mà 3 chủ hộ khác cùng chung nuôi cá trong hồ Phước Hà là Trương Văn Anh, Trương Công Bình, Nguyễn Vỹ (cùng ở thôn Linh Cang) đều đang méo mặt vì cá chết hàng loạt. Họ được trúng thầu nuôi cá trong vòng 5 năm, trên diện tích 42ha mặt nước hồ Phước Hà, với giá 100 triệu đồng, bắt đầu từ cuối năm 2005.

Người dân hoang mang

Theo người dân địa phương, đây là lần đầu tiên xảy ra hiện tượng cá chết hàng loạt trong hồ Phước Hà. Không chỉ các chủ hộ nuôi cá đang rối bời gan ruột theo bầy cá chết, mà người dân ở đây cũng đang hoang mang lo sợ. Theo họ, khó có chuyện cá chết hàng loạt do nhiễm độc thuốc trừ sâu từ số ít những đám ruộng gần đó. Nhiễm chất độc cyanua từ những hầm vàng trên núi Linh Cang cũng ít có khả năng, bởi mùa này dân đào đãi vàng lậu ở đấy chưa hoạt động. Vả lại, nếu nhiễm độc, thì lợn ăn cá chết cũng đã lăn ra chết theo rồi. Khả năng có kẻ xấu phá hoại cũng được Công an xã Bình Phú loại trừ. Không tìm được nguyên nhân, nên người dân lại càng lo hơn.

Ông Châu Văn Đương - Phó Chủ tịch UBND xã Bình Phú - cho biết: "Ngay sau khi có hiện tượng cá chết bất thường, UBND xã đã làm tờ trình cấp báo lên huyện. Thế nhưng, sau hơn một tuần mới có cán bộ thuỷ sản của tỉnh và huyện xuống kiểm tra hiện trường, xem xét tình hình bằng... mắt thường, cũng chẳng thèm lấy mẫu nước hay cá chết, rồi... im lặng ra về".

Mãi đến ngày 1.8, việc lấy mẫu nước và mẫu cá đem về xét nghiệm mới được 3 cán bộ thuỷ sản của Sở Thuỷ sản và Phòng Nông nghiệp huyện Thăng Bình thực hiện. Theo nhận xét ban đầu của đoàn cán bộ thuỷ sản này, thì nhiều khả năng hiện tượng cá chết hàng loạt là do virus gây nên. Quan sát bằng mắt thường, dễ dàng nhận thấy các loại cá diếc, trôi... có hiện tượng đốm đỏ trên da, bên trong nội tạng có dấu hiệu xuất huyết rất rõ - là một biểu hiện do virus gây hại.

Tuy nhiên, các loại cá khác lại không thấy có biểu hiện này. Ông Nguyễn Văn Duyên hỏi một cán bộ thuỷ sản: "Thế bao giờ chúng tôi có thể biết được nguyên nhân cá chết". Câu trả lời là: "Nếu gửi mẫu vào Nha Trang xét nghiệm, chắc mất hàng tuần, có khi lâu hơn..."!

Trương Tâm Thư

 


“Vua” cá sấu đất Bắc

Nguồn tin: TP, 2/08/2006
Ngày cập nhật: 2/8/2006

Khi Cao Văn Tuyến nhặt nhạnh từng đồng mua cá sấu con thả vào chiếc bể nhỏ với mong ước biến Hải Phòng thành vương quốc cá sấu ở Đông Nam Á thì người dân đất Cảng gọi anh là “Tuyến khùng”...

Thế nhưng, đến khi trang trại cá sấu của anh cho doanh thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm thì tất thảy dị nghị về Cao Văn Tuyến đã tan biến.

Ông chủ nhà hàng Nam Phương Queen trên quốc lộ 5 - Tuyến “cá sấu” giờ đã là tỷ phú đất Cảng nhưng trông vẫn chân chất như một nông dân từng lấm lem bùn đất, dáng người cao lồng ngồng, chiếc thắt lưng da cá sấu vàng chóe khiến người không quen mắt thấy hơi dị.

Cao Văn Tuyến mê cá sấu từ đận chán cảnh lênh đênh biển cả nên du ngoạn một chuyến vào Nam. Hỏi thăm người bạn làm quản giáo ở Long An, lần đầu tiên Tuyến được tận mắt nhìn thấy cá sấu bò lổm ngổm trong cái ao nông choèn. Tuyến cứ bám hàng rào thép gai ngắm nghía chú cá sấu nằm phơi lưng dưới nắng cả ngày.

Người bạn ấy lại mời anh đi nhậu món lẩu cá sấu, cá sấu nướng lộc vừng, chả cá sấu...

Lạ thật, từ bé anh đã xơi đủ loại cá của biển khơi mà chưa thấy loại nào ngọt tận chân răng như cá sấu. Nhất là bát tiết canh, cứ mát lịm từ cuống họng đến dạ dày. Ngay lúc nhấm nháp món thịt cá sấu, Tuyến đã mơ tưởng làm sao đưa được vài con giống ra ngoài Bắc nuôi, rồi làm thịt nhậu cùng bạn bè...

Bàn ý tưởng nuôi cá sấu với gia đình, ai cũng cười. Họ nghĩ cái thằng chỉ mải chơi, suốt ngày lang thang đây đó nên toàn nghĩ ra những chuyện điên rồ. Không có ai đồng thuận, anh đành tự làm. Để có tiền thực hiện “âm mưu”, Tuyến bắt đầu chú tâm làm ăn.

Gia đình thấy “thằng Tuyến đã lớn, biết vun vén gia đình” nên gom góp cho Tuyến 40 triệu đồng để Tuyến mua chiếc xe tải cũ nát chở phế liệu thuê.

Chăm chỉ làm ăn, kinh tế gia đình cũng khấm khá. Khi tích cóp được mấy chục triệu, Tuyến vào Cà Mau mua 50 con cá sấu giống, rồi đóng vào cũi chở ra Bắc. Từ bấy giờ Tuyến quên bẵng cái xe tải, ngày đêm vùi đầu “ngâm cứu” đàn cá sấu.

Ngồi bên chiếc ao bé trước nhà, trông những chú cá sấu nổi lều phều, quẫy đạp trên mặt nước, rồi vật nhau trên bãi cỏ mà Tuyến mơ tưởng đến một tương lai tốt đẹp.

Chăm sóc tốt, đàn cá sấu lớn nhanh như thổi, càng lớn chúng càng đẹp một cách dữ dằn, khiến không biết bao đêm Tuyến mộng mị rồi xuất thần làm thơ lục bát tặng... cá sấu.

Nhưng rồi gió mùa đông bắc mang cái lạnh tê cứng từ phương Bắc xuống. Đàn cá sấu không thấy lên bãi phơi nắng nữa mà cứ lặn hết xuống bùn. Tuyến tưởng nó chê đầu cá, lòng phèo nên mua cả thịt bò, đùi lợn đổi món cho chúng. Tuyến buộc thòng lọng, tóm cổ từng con một, nhét thịt tận miệng, nhưng chúng cứ ngắc ngứ không thèm ăn.

Những ngày rét đậm, chúng thay nhau trương bụng chết. Những con sống sót qua mùa đông cũng không lớn được, mặc dù anh đã tốn không biết bao công chăm sóc. Bực mình, Tuyến bắt từng con giết thịt. Nhưng thịt chúng xơ, tanh, nuốt không nổi.

Đang lúc tan nát ước mơ làm giàu thì Tuyến vô tình gặp một kỹ sư nông nghiệp. Nghe Tuyến kể chuyện, anh ta cười: “Ông ơi, các nhà khoa học nghĩ nát óc mà chưa biết nuôi cá sấu ở miền Bắc thế nào. Cá sấu chỉ sống ở vùng nóng, chịu sao được cái rét của miền Bắc...”.

Rồi anh kỹ sư tặng Tuyến một cuốn sách của tác giả Trần Vĩ (mà sau này anh quý đến nỗi bọc cẩn thận, cho vào tủ kính giữ làm kỷ niệm) mô tả khá kỹ về tập tính cá sấu và dạy cách nuôi cá sấu.

Cuốn sách có điều cốt yếu: Nếu nhiệt độ xuống dưới 15oC, cá sấu sẽ lười ăn, mắc bệnh xơ mỡ và chết. Chúng chỉ phát triển ở nhiệt độ khoảng 30oC. Lúc này, Tuyến mới nhận ra, hiểu biết của mình về giống cá sấu chỉ bằng móng tay. Do vậy, anh bỏ thêm nhiều thời gian nghiên cứu.

Anh lùng mua nhiều loại sách báo, tài liệu về cá sấu; kể cả tài liệu của nước ngoài rồi thuê người dịch.

Tuyến kể cả ngày không hết những truyền thuyết về sự ra đời của cá sấu của người Đông Timor và Indonesia. Anh thuộc cả lịch sử tiến hóa của loài cá sấu bắt nguồn từ giống khủng long gì, ở đâu, hành trình di cư của nó từ Indonesia sang các vùng khác trên thế giới ra sao...

Anh gom tiền đi du lịch Thái Lan, rồi trốn vào một trang trại nuôi cá sấu để nghiên cứu, khiến hướng dẫn viên du lịch một phen hú vía.

Kết thúc tua du lịch, người ta mới thấy anh xuất hiện cùng hàng đống tài liệu kỹ thuật nuôi cá sấu bằng tiếng Thái. Mục đích của anh có vẻ khùng là “bẻ gãy” luận điểm của các chuyên gia về chăn nuôi rằng: Miền Bắc không thích hợp với cá sấu.

Nắm vững kiến thức rồi, Tuyến nghĩ đến chuyện làm ăn với quy mô lớn. Anh dồn hết vốn liếng, tiền bạc mua 6.000 m2 đất ngay quốc lộ 5 (quận Hồng Bàng), cạnh bờ sông Dế, rồi xây dựng hệ thống chuồng trại khép kín: chuồng nuôi cá sấu thịt, chuồng nuôi lấy da, chuồng nuôi tăng trưởng, chuồng nuôi thử nghiệm sinh trưởng, ấp trứng...

Mỗi chuồng đều có tường bao, hàng rào thép gai, mái bạt di động và hệ thống máy sưởi công suất lớn. Với loại chuồng này, mùa hè cá sấu có thể tắm nắng khi mái bạt kéo xuống, mùa đông bạt kéo lên chắn gió lạnh, hệ thống máy sưởi giữ nhiệt luôn trên 15oC.

Với cách làm này, đàn cá sấu lớn như thổi. Số tiền lãi, anh đổ hết vào mua giống, xây dựng chuồng trại. Từ 50 con nuôi thử nghiệm, giờ đây trang trại luôn có vài ngàn con.

Trong khi miền Nam nhiều lúc lao đao với cá sấu vì không tìm được đầu ra thì Tuyến lại ung dung với thị trường miền Bắc rộng lớn. Đàn cá sấu anh nuôi không đủ để xuất khẩu.

Mặc dù chỉ cần xuất nguyên con sang Trung Quốc đã có lãi nhiều, song khát vọng của ông “vua” cá sấu này là biến Hải Phòng thành vùng trọng điểm nuôi cá sấu của Đông Nam Á.

Nhà hàng Nam Phương Queen, nằm ngay tại trang trại, phục vụ các món ăn cá sấu để người dân làm quen với loại thực phẩm bổ dưỡng song còn khá lạ lẫm này nằm trong kế hoạch đó.

Theo anh Tuyến, Hải Phòng và một số tỉnh ven biển nuôi cá sấu là hợp nhất vì có nguồn nguyên liệu khá rẻ. Các nhà máy chế biến thủy hải sản bán đầu cá, các lò mổ gia súc bán lòng phèo giá rẻ thuận lợi cho nuôi cá sấu.

Hiện, Tuyến đã đầu tư trang trại cá sấu hàng chục tỷ đồng. Tuy nhiên, khát vọng của Tuyến “cá sấu” là muốn xuất sản phẩm đặc biệt này sang châu Âu.

Song cá sấu là động vật quý hiếm, đã được ghi trong Sách đỏ nên muốn xuất khẩu được phải có giấy tờ đúng với quy định của Công ước về buôn bán quốc tế các loại động, thực vật có nguy cơ bị diệt chủng (Công ước CITES). Muốn được tổ chức này cấp phép thì trang trại của Cao Văn Tuyến phải có trên 10.000 con cá sấu. Mở rộng trang trại nuôi 10.000 con không phải là tương lai xa.

Sắp tới, ông “vua” cá sấu sẽ khởi công xây dựng xưởng chế tác da cá sấu thành hàng trăm sản phẩm có giá trị như giầy, dây lưng, áo, ví, túi xách... đáp ứng thị trường miền Bắc còn bỏ ngỏ.

Trang trại của anh sẽ thành nơi quy tụ những nhà khoa học, kỹ sư nông nghiệp say mê nghiên cứu về cá sấu, giúp bà con nông dân làm giàu. Hiện có hàng chục hộ ở Hải Dương và các huyện của Hải Phòng (Kiến An, Vĩnh Bảo...) nuôi cá sấu, lãi khá lớn.

Anh sẵn sàng cấp vốn, giống, bảo hiểm cho bà con nuôi giống cá này, rồi thu mua thành phẩm, chế biến xuất khẩu. Giúp người nông dân đất Cảng thoát nghèo bằng cái nghề chưa từng có trong lịch sử nông nghiệp miền Bắc là điều anh nung nấu nhất.

Ghi chép của Nguyễn Phong Cầm

 


Chợ Mới (An Giang) với định hướng phát triển thủy sản

Nguồn tin: AG, 1/8/2006
Ngày cập nhật: 1/8/2006

Hiện nay huyện Chợ Mới (An Giang) có gần 140 ha nuôi thủy sản với trên 1500 hộ tham gia, trong đó cá nuôi ao hầm là 120 ha, đăng quầng 14 ha, số còn lại nuôi vèo và nuôi chân ruộng. Trong năm 2005, sản lượng thuỷ sản của huyện đạt gần 9500 tấn, cao hơn 2600 tấn so với năm 2004, góp phần đưa giá trị sản xuất ngành thủy sản ở huyện cù lao Chợ Mới đạt 143 tỷ đồng, tăng 9 tỷ đồng so với năm 2004 và chiếm 7% tổng giá trị sản xuất nông lâm thuỷ sản của huyện.

Theo nhận định của ngành nông nghiệp huyện Chợ Mới, mặc dù tình hình thủy sản nói chung, nhất là nghề nuôi cá tra nói riêng vẫn còn không ít khó khăn nhưng khả năng phát triển và tăng quy mô nuôi thủy sản của huyện trong thời gian tới là rất lớn. Theo đó, từ nay đến năm 2010, huyện sẽ phát triển và tăng diện tích nuôi thuỷ sản lên khoảng 214 ha, sản lượng tăng đạt trên 15 ngàn tấn. Đến năm 2020, tăng diện tích nuôi lên khoảng 450ha, sản lượng đạt gần 29 ngàn tấn. Các vùng chính phát triển nuôi ao, bãi bồi là Long Giang, Nhơn Mỹ, Kiến An, Hoà Bình, Bình Phước Xuân, Mỹ An, Tấn Mỹ. Riêng mô hình nuôi đăng quầng không phát triển vì ảnh hưởng đến môi trường. Đối tượng chăn nuôi chủ yếu là cá tra, cá rô phi, cá lóc, tôm càng xanh, mè vinh, rô đồng v.v... Hiện nay huyện Chợ Mới đang kết hợp với Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn An Giang hướng dẫn ngư dân kỹ thuật nuôi, xây dựng vùng nuôi đúng tiêu chuẩn, phù hợp với điều kiện tự nhiên. Đồng thời lựa chọn mô hình, hình thức nuôi thích hợp nhằm phát huy tối đa lợi thế và hạn chế thấp nhất những rũi ro.

Xuân Bằng

 


Quảng Nam: Cá chết hàng loạt không rõ nguyên nhân

Nguồn tin: NLĐ, 1/8/2006
Ngày cập nhật: 1/8/2006

Liên tục nhiều ngày qua, cá nuôi của các hộ dân ở hồ chứa nước Phước Hà (thôn Linh Cang, xã Bình Phú, huyện Thăng Bình - Quảng Nam) chết hàng loạt không rõ nguyên nhân, có ngày hơn 3 tạ.

Theo ông Trương Văn Anh, ông và 3 người khác thả hơn 10 vạn cá giống từ cuối năm 2005 với chi phí hơn 100 triệu đồng. Toàn bộ số tiền này họ phải vay mượn từ nhiều nơi, việc cá chết có thể khiến họ phá sản...

Một cán bộ xã cho biết cán bộ khuyến ngư đã đến kiểm tra và kết luận cá chết do một loại virus gây nên. Tuy nhiên, có người nghi ngờ ai đó đã rắp tâm hại các chủ hộ này do mâu thuẫn cá nhân.

H.Long

 


Cào ốc gạo ở cồn Phú Đa (Bến Tre)

Nguồn tin: SGGP, 31/07/2006
Ngày cập nhật: 1/8/2006

 


Thạnh Phú phát triển nuôi thủy sản

Nguồn tin: SGGP, 31/07/2006
Ngày cập nhật: 1/8/2006

Cùng với tôm sú, nghề nuôi cua biển được nhiều hộ chọn nuôi. Gần đây, cua giống thiên nhiên xuất hiện nhiều ở cửa biển, tạo điều kiện thuận lợi để bà con phát triển nghề nuôi cua.

Phan Lữ Hoàng Hà

 


ĐBSCL: Ổn định giá cá tra, ba sa

Nguồn tin: SGGP, 01/08/2006
Ngày cập nhật: 1/8/2006

 


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang