• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Mô hình kinh tế hợp tác lúa - thủy sản - vật nuôi tổng hợp đạt hiệu quả cao

Nguồn tin: BCT, 31/7/2006
Ngày cập nhật: 31/7/2006

Ông Nguyễn Minh Hiền, Phó Chi cục Trưởng Chi cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ, cho biết: Mô hình kinh tế hợp tác lúa - thủy sản - vật nuôi tổng hợp ở vùng lũ thuộc xã Đông Hiệp, huyện Cờ Đỏ vừa được đoàn kiểm tra dự án gồm Sở Khoa học Công nghệ, Sở NN&PTNT, Trung tâm ứng dụng kỹ thuật... đánh giá là mô hình phát triển có hiệu quả cao, góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân. Trong đó, sản xuất lúa chất lượng cao đạt năng suất 6,5 tấn/ha trong vụ đông xuân 2005-2006, tăng gần 10% so với kế hoạch; đàn bò phát triển tốt; sản lượng cá nuôi tự nhiên thu hoạch trên 600 kg/ha.

Mô hình kinh tế hợp tác lúa - thủy sản - vật nuôi được thử nghiệm với tổng diện tích trên 10 ha của 10 hộ dân xã Đông Hiệp. Người dân được hỗ trợ giống lúa ST1, bò, cá giống và cỏ dinh dưỡng cung cấp thức ăn cho bò. Mô hình được thực hiện theo hình thức kết nối: lấy phân bò xử lý làm thức ăn cho cá; hướng dẫn kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao, nuôi bò, cá trên đồng ruộng... Tổng kinh phí thực hiện mô hình là 750 triệu đồng. Sau khi mô hình có hiệu quả sẽ được nhân rộng trên địa bàn TP Cần Thơ.

H.V

 


Phá rừng phòng hộ để nuôi tôm

Nguồn tin: TP, 31/07/2006
Ngày cập nhật: 31/7/2006

Những năm gần đây, mô hình nuôi tôm trên cát đã giúp không ít người dân ở Quảng Ngãi thoát nghèo. Nhiều người bất chấp pháp luật đã phá, lấn chiếm đất rừng phòng hộ ven biển để nuôi tôm.

Nuôi tôm giữa rừng phòng hộ ở xã Đức Phong (Mộ Đức-Quảng Ngãi)

Chỉ riêng ở xã Đức Phong (Mộ Đức) đã có 13 trường hợp vi phạm. Chủ tịch UBND xã Đức Phong, ông Nguyễn Đình Long cho biết:

Căn cứ Nghị định 182 của Chính phủ về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, huyện đã chỉ đạo địa phương xử lý các hộ chặt phá rừng phòng hộ và lập phương án cưỡng chế các hộ vi phạm pháp luật về lĩnh vực đất đai.

Từ đầu năm 2006 đến nay, xã đã cưỡng chế các hộ dân lấn chiếm đất rừng phòng hộ trái phép với diện tích 3,6 ha. Trong đó 10 hộ nuôi tôm và 3 hộ làm nhà.

Song, do công tác xử lý thiếu kiên quyết, buông lỏng quản lý sau xử phạt nên còn nhiều trường hợp tái phạm. Điển hình trong số này có ông Bùi Út- người nuôi tôm giữa rừng phòng hộ.

Ông Út giải thích, đất này ông nhận trồng rừng phi lao của dự án PAM, đã xin xã chuyển mục đích sử dụng đất rừng sang đất sản xuất tại xóm tân An để làm thí điểm hồ nuôi tôm nước ngọt và đã được chủ tịch xã đồng ý.

Nhưng thực tế, ông Út lại hùn vốn cùng 4 người khác xây dựng 5 hồ nuôi tôm trên cát rộng 1,7 ha. Những hộ này đã tự đặt đường ống dài 300 mét băng qua rừng phòng hộ để đưa nước biển vào ao tôm.

Ông Nguyễn Thanh Phong-người hùn vốn đầu tư cùng ông Út nói: “Biết là vi phạm nhưng vẫn phải làm, vì cơ sở dựng lên qui mô thế này mà tháo bỏ thì lấy tiền đâu trả nợ”.

Còn ông Nguyễn Thiên Bèo- Cán bộ địa chính xã thì khẳng định: Không có chủ tịch xã nào ra văn bản đồng ý cho ông Út nuôi tôm giữa rừng. Việc ông Út vi phạm, xã đã lập biên bản vi phạm hành chính và xử phạt nhưng ông Út cùng 4 hộ trên vẫn tiếp tục đầu tư xây dựng hồ.

Thực tế hiện nay, dọc chiều dài rừng phi lao chắn gió, cát của xã Đức Phong đã có không ít người xí phần, chặt cây lẻ tẻ để khi có thời cơ là chiếm đất.

Lẽ ra, Hạt kiểm lâm Mộ Đức và các cấp chính quyền ở Mộ Đức phải phối hợp can ngăn kịp thời, đằng này lại đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Đây là khe hở để người dân lợi dụng phá rừng.

Thêm một nguyên nhân nữa là, việc xét giao đất hồ tôm vẫn còn một có biểu hiện chưa công minh. Một số hộ được giao lại không nuôi mà chuyển nhượng trái phép cho người khác để thu tiền.

Nghiêm trọng hơn là, trong số này có cả cán bộ, đảng viên, nên gây bất bình trong nội bộ nhân dân. Ngoài diện tích qui hoạch vùng nuôi 20,4 ha người dân còn phát triển thêm gần 6 ha, trong đó đất rừng phòng hộ 3,7 ha và đất thuộc hệ thống cấp thoát nước phía tây 2,1 ha.

Tại xã Phổ Khánh (Đức Phổ), năm 2002 chính quyền đã cho 33 hộ (trong xã 26 hộ và ngoài xã 7 hộ) thuê 38 ha đất ven biển để nuôi tôm, với thời hạn 5 năm, giá 2,5 triệu đồng/ha/năm.

Tiền này xã quản lý. Việc xã tự ý cho thuê đất là không đúng thẩm quyền, vi phạm Luật Đất đai. Đáng nói là, sau khi thuê đất họ đã lấn chiếm, phá cả rừng phòng hộ. Dọc vùng biển từ thôn Phú Long đến thôn Quy Thiện, nhiều hộ đã san ủi xây dựng hồ lấn vào đất rừng phòng hộ từ 10 mét – 40 mét.

Trong hợp đồng số 10 ngày 9/9/2005 do ông Nguyễn Bá Kiều đứng tên có cả phó chủ tịch UBND xã là Phạm Kim Oanh thuê 1 ha, đã ủi phá vào rừng phòng hộ khoảng 4.000 m2.

Nghiêm trọng hơn là, ông Nguyễn Minh Khiêm đứng tên thuê 1 ha tại thôn Trung Hải đã phá rừng dương phòng hộ để xây dựng hồ tôm. Hạt kiểm lâm huyện Đức Phổ và UBND xã Phổ Khánh đã lập biên bản nhưng chưa xử lý nghiêm, gây bức xúc trong dân!

Ở thôn Phước Điền, 11 hộ dân thuê 12,5 ha nhưng đã lấn chiếm thêm 3,6 ha rừng dương. Trong đó, ông Nguyễn Đức Tịnh (ở Gia Lai) lấn chiếm 8.000m2, được ông Võ Đông Dân-chủ tịch UBND xã ký đơn cho phép.

Ông Nguyễn Văn Dư-Trưởng thôn Trung Hải cho biết: Việc xây dựng các hồ tôm bừa bãi đã làm hàng chục chiếc ghe của ngư dân không có nơi neo đậu.

Đã đến lúc các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Ngãi và huyện Mộ Đức, Đức Phổ phải vào cuộc, làm rõ và xử lý nghiêm những cá nhân vi phạm.

Phú Đức

 


Tháng 8 có thể xảy ra nhiều bão mạnh và lũ lớn

Nguồn tin: TP, 30/07/2006
Ngày cập nhật: 31/7/2006

 


Giá cá tra, ba sa đang tăng nhẹ

Nguồn tin: SGGP, 29/07/2006
Ngày cập nhật: 31/7/2006

 


ĐBSCL: trúng mùa ghẹ đỏ; Phú Yên: người nuôi tôm hùm lãi lớn

Nguồn tin: TT, 31/07/2006
Ngày cập nhật: 31/7/2006

Mặc dù hiện nay đang vào mùa mưa bão, biển động thất thường nhưng ngư dân các tỉnh ĐBSCL như Trà Vinh, Bạc Liêu, Sóc Trăng... vẫn đánh bắt được rất nhiều ghẹ đỏ (ảnh).

Một số chủ tàu đánh cá ở xã Trung Bình, huyện Long Phú (Sóc Trăng) cho biết mỗi chuyến ra khơi ngư dân còn đánh bắt được 1-1,5 tấn ghẹ đỏ/tàu. Hiện mỗi ngày có rất nhiều thương lái tập trung tại cảng cá Trần Đề (Sóc Trăng) đón tàu từ ngoài biển về để tìm mua ghẹ với giá 15.000 đồng/kg.

* Ngày 30-7, Sở Thủy sản Phú Yên cho biết ngư dân trong tỉnh đã thu hoạch trên 455 tấn tôm hùm thịt, tăng 65% so với cùng kỳ năm 2005. Do giá ổn định và ở mức cao (600.000 đồng/kg tôm loại 1) nên hầu hết hộ nuôi tôm hùm thu lãi từ vài chục đến hàng trăm triệu đồng. Ngư dân cũng đã chong đèn soi bắt trên 1 triệu con tôm hùm giống, tiếp tục thả nuôi hơn 18.300 lồng, chủ yếu tập trung ở vùng biển Sông Cầu và Tuy An.

 


Nhiều hộ sản xuất cá tra giống có nguy cơ phá sản vì giá giảm

Nguồn tin: TT, 31/07/2006
Ngày cập nhật: 31/7/2006


Nhu cầu thủy sản nguyên liệu sẽ tăng mạnh - Thiếu nguyên liệu cho chế biến thủy sản.

Nguồn tin: KTVN, 27/7/2006
Ngày cập nhật: 30/7/2006

 


“Vua” cá thác lác Hậu Giang

Nguồn tin: KTVN, 28/7/2006
Ngày cập nhật: 30/7/2006

Trước khi đến tham quan trang trại cá thác lác của nhà nông Tám Dũng, ông Huỳnh Phong Tranh-Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang đã “thòng” trước với chúng tôi một câu rất hóm hỉnh: “Nói đến cá thác lác thì phải đến Hậu Giang, mà nói đến cá thác lác Hậu Giang mà không nói đến Tám Dũng là coi như một thiếu sót lớn”.

Từ ngoài lộ chính, chúng tôi chạy xe men theo con đường nhỏ hẹp kế dòng kinh Vị Thủy để vào ấp Vĩnh Lộc, xã Vĩnh Tường (H.Vị Thủy-Hậu Giang)-đại bản doanh của “vương quốc cá thác lác lớn nhất đồng bằng” mà dân nuôi cá giống ở ĐBSCL đã ví von gọi. Tiếp chuyện chúng tôi là “ông vua cá” Tám Dũng với dáng người nhỏ nhắn, rụt rè, khuôn mặt đen nhẻm nhưng lúc nào cũng vui vẻ và tươi cười đúng chất dân xứ miệt vườn Nam Bộ. Tám Dũng tên thật là Lê Văn Dũng, năm nay 43 tuổi.

Từ gã “ngông” mê cá hơn mê... nhậu

Anh bồi hồi nhớ lại có lần, một người bà con làm việc ở Cần Thơ ghé chơi nhà, thấy đất nhà Tám Dũng rộng mà cây cối xác xơ quá bèn gợi ý cho anh thử nuôi cá. Anh đánh liều thuê máy cạp đất về đào nguyên cái vườn rộng gần 2 ha để làm ao thả cá.

“Nuôi cá tra tưởng ngon ăn, ai dè lại không ngon như mình tưởng. Năm 2001, giá cá tra tụt thê thảm. Muời mấy tấn cá tra đánh lên đem bán bị ép giá khiến lỗ nặng. Suốt mấy đêm trằn trọc không ngủ rồi qua các quán ăn, quán nhậu, chợ búa khắp trong huyện, anh phát hiện ra: món cá thác lác đang là “mốt”.

“Cá thác lác có trên thị trường đều bắt từ tự nhiên, và lúc ấy chưa ai nghĩ đến việc nuôi nó. Vì vậy tìm con giống không phải là chuyện đơn giản. Tui phải đi khắp các chợ để tìm mua con giống, mà mua được 10 con thì sống sót nhiều lắm cũng chỉ được 2-3 con”. Mà giá cá thác lác cũng không phải là rẻ: trên dưới 100.000đ/kg. Lại nói về cái chuyện Tám Dũng đi mua cá thác lác ngoài chợ về làm giống cũng được dịp bà con “bàn tán”: “Thằng này chơi sang thiệt, dám mua cá thác lác về nhậu!”. Giải thích thì ai cũng cho là “ngông” vì trước giờ có ai nuôi được cá thác lác trong ao đâu.

Đến trại cá thác lác giống lớn

Mua cá về thả nuôi trong ao, tỉ lệ cá sống sót rất thấp. Phải mất gần 2 năm trời, anh mới gầy được đàn cá thác lác bố mẹ gần 15 con. Từ 15 con cá giống bố mẹ ban đầu đó, anh cho sinh sản và ngay lứa đầu tiên, anh thu hơn 1.500 con cá con. Rồi từ đàn cá con, anh lấy ngắn nuôi dài, bỏ chi phí để tiếp tục nhân giống đàn cá. Thấy triển vọng của con cá thác lác trên vùng đất này là rất lớn, anh quyết định đào thêm 4 vuông nuôi cá trên diện tích gần 10.000m2 vườn cây ăn trái trước đây để mở rộng nhân giống.

Sau 4 năm vất vả, giờ đây trong tay anh là 5 vuông cá với diện tích 1,6 ha. Hỏi về thu nhập từ con cá thác lác, anh cười tính nhẩm “Mỗi con cá giống giá 3.000, mỗi năm tôi xuất bán hơn 400.000 con, thu gần 1,2 tỷ đồng, trừ chi phí còn lãi gần 600 triệu đ”. Tám Dũng cho biết nhu cầu giống cá thác lác hiện nay là rất lớn, trang trại của anh hàng năm chỉ cung cấp cho thị trường được hơn 10 tấn, trong đó đơn đặt hàng từ khắp các tỉnh ĐBSCL từ 15 - 20 tấn/năm. Anh cũng cho biết thêm cá thác lác tuy là giống phải đầu tư nặng vốn và kỹ thuật khó hơn nuôi các loại các khác như ba s a, cá tra... nhưng lợi nhuận rất cao và ổn định. Các trang trại nuôi hiện nay vẫn chủ yếu là nuôi giống và chưa có cá thương phẩm bán ra thị trường. Đặc biệt, cá thác lác khi bán ngoài thị trường luôn giữ giá ổn định, sống hay chết gì cũng một giá và giá cá hiện nay là trên 65.000đ/kg. Sau 4 năm miệt mài với từng con cá, giờ đây tiếng tăm của trang trại cá thác lác Tám Dũng không chỉ lan nhanh các tỉnh tây sông Hậu mà còn khắp vùng ĐBSCL. Sản xuất ra không đủ bán, đơn đặt hàng phải chờ cả năm trời mới có cá cung cấp. Người dân nơi đây đã gán cho cho anh cái tên “vua cá thác lác”.

Hỏi về hướng sắp tới, Tám Dũng cho biết anh sẽ mở rộng diện tích ao hồ lên 4 ha để thả nuôi, nhân giống. Đồng thời, anh cũng sẽ xúc tiến xây dựng thương hiệu cho trang trại và giống cá của mình.

Hoàng Hiệp

 


Đồng bào K’ho hùn vốn nuôi cá

Nguồn tin: BThuận, 29/07/2006
Ngày cập nhật: 29/7/2006

Hồ Đa trị an xã La Dạ (Hàm Thuận Bắc) có diện tích mặt nước trên 10 ha vào mùa mưa. Vào mùa nắng hạn, diện tích còn lại khoảng 6 ha. Từ khi hồ Đa trị an đưa vào sử dụng, không một ai nghĩ đến việc đầu tư nuôi trồng thủy sản nước ngọt, tận dụng diện tích mặt nước ở lòng hồ thả cá các loại để cung cấp nguồn thực phẩm tại chỗ cho nhân dân. Từ đó, nhiều năm lòng hồ Đa trị an bỏ trống, không phát huy được lợi thế sẵn có.

Để khai thác tiềm năng ở địa phương, ông Brông Tẻm, Chủ tịch UBND xã La Dạ cùng ông Trương Thanh Liên cán bộ tăng cường theo Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy đã nghĩ ra một sáng kiến hay. Mặc dù công tác bận rộn nhưng hai ông đã tranh thủ thì giờ nghỉ đi vận động bà con góp vốn mua cá giống về thả tại lòng hồ Đa trị an. Đầu năm 2003 đồng bào đã góp được số vốn 10 triệu đồng và mua 1,5 triệu con giống cá rô phi, cá chép, cá bống tượng… Năm 2004 đã cho thu hoạch. Trung bình cá có trọng lượng 0,4 kg/con, cung cấp thực phẩm tại chỗ cho đồng bào La Dạ. Ông Brông Tẻm cho biết: “La Dạ là xã vùng DTTS, vấn đề thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày còn gặp khó khăn. Nhờ dám nghĩ, dám làm nên đồng bào đã có nguồn cá tươi sống tại hồ Đa trị an. Hơn 2 năm qua, tại hồ này đã cung cấp cho đồng bào trên 5.000 kg cá. Đồng bào La Dạ được hưởng lợi từ lòng hồ Đa trị an rất phấn khởi…”.

KHẮC THỂ


Tăng cường uy tín thương hiệu tôm giống Bình Thuận

Nguồn tin: BThuận, 25/07/2006
Ngày cập nhật: 29/7/2006

Trong sản xuất, nuôi trồng yếu tố “nhất giống…” bao giờ cũng rất quan trọng. Đã một thời dịch bệnh trong nuôi tôm sú thương phẩm của cả nước, cũng như ở Bình Thuận luôn ở mức cao. Một trong những nguyên nhân chính là chất lượng con giống không bảo đảm. Điều này đã làm cho người nuôi tôm không yên tâm. Chính trong bối cảnh đó thương hiệu tôm giống Bình Thuận đã được khẳng định. Và với yêu cầu hiện nay uy tín thương hiệu đó đòi hỏi phải được tăng cường.

Bình Thuận hiện có trên 570 trại giống của 179 cơ sở, mỗi năm cung cấp cho thị trường hơn 5 tỷ post. Hiện nay các trại tôm giống vẫn tiếp tục sản xuất ổn định, sản lượng tôm giống sản xuất 6 tháng đầu năm 2006 là 2,5 tỷ post, đáp ứng được nhu cầu giống trong tỉnh và các tỉnh miền Nam. Dù rằng trong những tháng gần đây nguồn tôm giống bố mẹ đánh bắt từ tự nhiên khan hiếm, các doanh nghiệp sản xuất giống đã phải nhập khẩu hàng ngàn con tôm bố mẹ, bổ sung nguồn tôm giống bố mẹ cho các cơ sở sản xuất giống trong tỉnh. Mặt khác góp phần nâng chất lượng tôm giống cho trước mắt cũng như lâu dài, ngành thủy sản cũng đã tiến hành kiểm dịch gần 1.500 triệu post, xét nghiệm trên 4.500 mẫu bằng phương pháp mô và PCR. Đồng thời thực hiện đề án thả tôm sú giống ra biển gần 2 triệu con. Còn nếu nhìn lại hơn một thập kỷ qua, Bình Thuận đã được người nuôi tôm trong cả nước biết đến như là một trung tâm công nghiệp về sản xuất giống tôm sú có chất lượng. Có thể khẳng định mọi cơ sở sản xuất tôm giống trên địa bàn tỉnh đều thực hiện công bố chất lượng hàng hóa đúng quy định. Và phải nói là nhiều cơ sở sản xuất đã có được thương hiệu nổi tiếng, uy tín về chất lượng được thị trường đón nhận tích cực như Công ty Anh Việt, Việt Úc, Đại Tân, Trường Thịnh, Đại Thịnh, doanh nghiệp tư nhân Hoàng Anh, Đức Tân, Phát Đạt… Về phía người nuôi tôm sú thương phẩm thì điều lo lắng nhất khi bước vào vụ sản xuất đó chính là chất lượng con giống. Còn người sản xuất tôm giống cũng khẳng định việc sản xuất ra con giống hiện nay là không khó đối với các trại giống, nhưng để sản xuất ra con giống chất lượng và để có được thương hiệu uy tín như một số cơ sở sản xuất thành đạt vừa qua ở Bình Thuận là điều cần phải suy nghĩ và phấn đấu.

Để giữ vững và tăng cường hơn nữa uy tín thương hiệu tôm giống Bình Thuận, nhất là vùng Vĩnh Hảo, Vĩnh Tân – Tuy Phong, chúng tôi nghĩ ngoài sự nỗ lực vươn lên tự khẳng định mình của các cơ sở sản xuất tôm giống, ngành thủy sản cũng cần quan tâm tập trung vào một số vấn đề như tăng cường công tác kiểm nghiệm, kiểm dịch nhất là đối với tôm giống nhập khẩu, thả tôm giống ra biển tái tạo nguồn lợi tôm thiên nhiên; quy hoạch và hoàn thiện các khu sản xuất giống tập trung; chọn lựa đối tác uy tín để nhập khẩu tôm bố mẹ chất lượng; mặt khác cũng cần quan tâm tăng cường xúc tiến thương mại về giống. Hy vọng với những giải pháp đồng bộ, sự nỗ lực tác động từ nhiều phía uy tín về thương hiệu tôm giống Bình Thuận ngày càng được tăng cường.

AT

 

 


An Giang: Hướng dẫn ngư dân truy cập Internet

Nguồn tin: Vasep, 28/7/2006
Ngày cập nhật: 29/7/2006

Trung tâm tin học và thông tin khoa học Công nghệ An Giang vừa khai giảng lớp tập huấn sử dụng Internet cho nông, ngư dân 15 chi hội thuỷ sản và câu lạc bộ nông dân. Trong 3 tuần học, học viên sẽ được các chuyên gia tin học hướng dẫn cách sử dụng máy tính, cài đặt và sử dụng hệ điều hành Window XP, soạn thảo văn bản với phần mềm Microsoft Word 2000, sử dụng Internet để truy cập, tìm kiếm thông tin…

Khoá học này nằm trong khuôn khổ của dự án “Phát triển mô hình truy cập thông tin trên mạng Internet phục vụ phát triển nông thôn ở các câu lạc bộ nông dân và chi hội thuỷ sản” do Trung tâm tin học và thông tin khoa học-Công nghệ phối hợp với hội nông dân tỉnh thực hiện từ nay đến hết 2007.

(Nông thôn ngày nay, 26/7/2006)

 


Sản lượng tôm hùm thịt tăng

Nguồn tin: PY, 29/7/2006
Ngày cập nhật: 29/7/2006

Đến nay, ngư dân Phú Yên đã thu hoạch đạt 455 tấn tôm hùm thịt tăng 65% so với cùng kỳ thời điểm năm trước. Theo đánh giá của Sở Thủy sản Phú Yên, năm nay sản lượng tôm đạt cao, có giá trên 690.000 đồng/kg loại 1, nên hầu hết người nuôi tôm hùm đều thu lãi rất cao.

Hiện bà con tiếp tục thả tôm hùm nuôi được hơn 18.300 lồng, trong đó, nuôi tôm thịt 13.000 lồng, nuôi ương 5.300 lồng, chủ yếu tập trung ở các vùng ven biển huyện Tuy An, Sông Cầu.

NGUYÊN LƯU

 


Sẽ thành lập Câu lạc bộ cá ngừ đại dương

Nguồn tin: TTXVN, 28/07/2006
Ngày cập nhật: 29/7/2006

Tại cuộc hội thảo dự kiến diễn ra vào đầu tháng 8 tới tại Nha Trang, Khánh Hoà, Bộ Thuỷ sản sẽ cùng với đại diện một số địa phương bàn về việc thành lập Câu lạc bộ cá ngừ đại dương với sự tham gia của tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định và việc xây dựng kế hoạch phát triển thương hiệu cá ngừ Việt Nam.

Hội thảo, sẽ diễn ra trong hai ngày 1 và 2/8, nhằm đánh giá đúng hiện trạng lĩnh vực sản xuất cá ngừ đại dương ở Việt Nam và một số thông tin về đối tượng này ở các nước lân cận; đề ra định hướng và đề xuất giải pháp tổ chức quản lý, khai thác và tiêu thụ cá ngừ đại dương đảm bảo phát triển ổn định và bền vững theo hướng quản lý cộng đồng.

Tham dự hội thảo dự kiến có đại diện các cơ quan quản lý, các chuyên gia nghề cá; các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, thương mại cá ngừ trong và ngoài nước và một số điển hình sản xuất giỏi ở các địa phương.

Trong những năm vừa qua, do sự phát triển nhanh và ồ ạt nên nghề sản xuất cá ngừ ở Việt Nam đã bộc lộ nhiều vấn đề cần phải giải quyết như thiếu thông tin về đối tượng và ngư trường khai thác; ngư cụ và phương pháp khai thác còn lạc hậu; thiếu trang thiết bị phục vụ khai thác; kỹ thuật sơ chế và bảo quản sản phẩm còn yếu. Đặc biệt, thương hiệu sản phẩm cá ngừ Việt Nam chưa có chỗ đứng ổn định trên trường quốc tế./.

 

 


Viện Hải dương học Nha Trang: Nhân giống thành công 3 loài cá ngựa

Nguồn tin: LĐ, 2/7/2006
Ngày cập nhật: 29/7/2006

Ba loài cá ngựa mà viện vừa nhân giống thành công là cá ngựa đen (hippocampus kuda), cá ngựa vằn (hippocampus comes), cá ngựa gai (h. spinosisimuss).

Với thành công này, sau mỗi tháng, viện sẽ nhân giống thành công từ 5.000 - 7.000 con giống ở quy mô trại sản xuất nhỏ, dung tích bể nuôi khoảng 20m3 nước biển. Song song với việc sản xuất giống, viện cũng tiếp tục bố trí các thí nghiệm nhằm hoàn thiện quy trình nuôi. Việc nghiên cứu chuyển đổi màu sắc cá ngựa cũng đang được tiến hành.

Đức Văn

 


Đồng bằng sông Cửu Long: Cá tra, ba sa xuất khẩu tăng mạnh, nhưng giá giảm

Nguồn tin: LĐ, 29/7/2006
Ngày cập nhật: 29/7/2006

 


Bến Tre: Phát triển mạnh các tổ hợp tác nuôi tôm công nghiệp

Nguồn tin: BCT, 28/7/2006
Ngày cập nhật: 29/7/2006

Đến nay, toàn tỉnh Bến Tre có 2.330 tổ hợp tác (THT) trên các lĩnh vực kinh tế. Trong đó có 1.175 THT nông nghiệp, 273 THT tiểu thủ công nghiệp, 113 tổ tín dụng tiết kiệm… thu hút trên 30.000 lao động. Đặc biệt là các THT nuôi tôm công nghiệp hoạt động hiệu quả, thu hút nhiều vốn đầu tư. Hiện nay, Bến Tre có hơn 100 THT nuôi tôm công nghiệp, với vốn đầu tư từ 500 triệu đến 12 tỉ đồng một THT.

Liên minh HTX tỉnh Bến Tre cho biết: THT đã góp phần tích cực thực hiện chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế địa phương.

Quang Hải

 


Về tình trạng cá tra, basa rớt giá ở ĐBSCL: Không nên bán tháo cá tra, basa

Nguồn tin: SGGP, 28/07/2006
Ngày cập nhật: 28/7/2006

 


Bán đảo Cà Mau: Nông dân ngập nợ vì... tôm

Nguồn tin: SGGP, 28/07/2006
Ngày cập nhật: 28/7/2006

5 năm trước, các ngân hàng ở vùng đất bán đảo Cà Mau kiến nghị nâng định mức cho vay đối với nuôi trồng thủy sản (NTTS). Đầu năm 2006, ngân hàng lại “khóa sổ” cho vay đối với NTTS. Ở Bạc Liêu, có những xã chỉ còn vài người còn giữ sổ đỏ. Số còn lại nằm im lìm ở ngân hàng. Hàng loạt hồ tôm, không ít thửa đất trồng lúa nằm trơ chờ hoang hóa! Đó là những điều nhức nhối đang âm ỉ diễn ra ở bán đảo Cà Mau...

Con tôm “ôm sổ đỏ”!

Một ngày của tháng 7-2006, một không khí ảm đạm phủ lên trên những hồ tôm giăng giăng lưới trắng tại xã Vĩnh Hậu A (huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu) – nơi được xem là điểm nóng của chuyện con tôm “ôm sổ đỏ”. Đường nông thôn vào Vĩnh Hậu A gãy khúc vì con lộ bị bể nát. Còn đoạn lộ nhựa gần xã cứ cách vài trăm mét lại có một hố sâu vì dân đào cắt đường dẫn nước mặn qua vùng ngọt nuôi tôm.

Gần 100 hộ dân sống theo con lộ nhựa dài 2,6 km dẫn đến xã, trong đó hơn 90 hộ đã bị “tôm ôm sổ đỏ”. Hộ nợ ngân hàng ít như anh Tư Hưng (Nguyễn Tử Hưng) ở ấp 12, xã Vĩnh Hậu A, cũng đến 80 triệu đồng. Hơn 3 tháng qua, ít ai ngờ người đàn ông trung niên 43 tuổi, tướng tá lực điền này lại nằm co trong nhà – chẳng dám lú mặt ra đường.

Anh Tư Hưng nói như mếu: “Nuôi tôm sú như đánh bài cào với ông trời!”. Năm 2002, vợ chồng anh hồ hởi mang mấy trăm triệu đồng bỏ vào nuôi 1 ha tôm sú theo mô hình bán công nghiệp. Vụ đầu lời chút ít, trong khi cả xóm trúng đậm. Phấn khởi, anh tiếp tục mua, mướn thêm đất mở rộng diện tích lên 4 ha.

Và anh quyết định táo bạo: lên tận Bình Dương mua thêm 2 máy ủi trên 200 triệu đồng về làm dịch vụ. Như một định mệnh: Năm 2003 - 2005, cả xóm chết lặng vì bể tôm. Tôm còi, tôm sắt, tôm bạc đầu, đốm trắng tràn lan, cả xóm thất bại liên tiếp. Tư Hưng chỉ thu được 10 triệu đồng từ tiền bán tôm, dù đã đổ vào đó cả tỷ đồng. Đến nay, anh thua lỗ hơn 700 triệu đồng từ nuôi tôm, còn nợ ngân hàng gần 80 triệu đồng, nợ vay bên ngoài đến 200 triệu đồng, hoàn toàn không còn khả năng trả. Nhưng đây chỉ là một trong hàng trăm, hàng ngàn cảnh éo le tại tỉnh Bạc Liêu.

Đổ nợ !

Năm 2004 là thời điểm Vĩnh Hậu A xóa sổ cây lúa để trở thành làng tôm. Cả xóm nuôi gần 3.000 ha tôm sú, trong đó có gần 1/2 là nuôi bán công nghiệp. Đó cũng là thời điểm cả làng rơi vào cảnh nợ trong nợ ngoài. Bí thư Đảng ủy xã Trần Văn Phương, Chủ tịch UBND xã Đặng Quốc Cường, Phó Chủ tịch UBND xã Trần Văn Thống tiếp chuyện chúng tôi với những ngổn ngang, lo âu của những hồ tôm chính mình nuôi.

Anh Thống nói một câu mà nghe héo cả lòng: “Cả xã này, chỉ có mấy người “cà nhổng” không làm gì thì không có nợ thôi!”. Anh Phương thì nói: “Cả xã số sổ đỏ còn giữ trong nhà chắc chỉ đủ đếm trên đầu ngón tay!”. Mấy ngàn hộ dân đều bị “con tôm ôm sổ đỏ”. Dư nợ ở ngân hàng lên 53 tỷ đồng, nợ khó đòi gần 20 tỷ đồng, nghe thật khó tin! Nhưng khi nghe Bí thư rồi Phó Chủ tịch xã cũng nợ từ 40 đến 110 triệu đồng/người ở ngân hàng thì cũng dễ hiểu. Đó là nợ ngân hàng còn cộng thêm nợ bên ngoài có người đã lên gần 400 triệu đồng. Thống kê sơ bộ cho thấy 4% hộ nghèo đã nhảy lên 28,5% (thay đổi theo tiêu chí mới). Trong số hộ nghèo phát sinh có khoảng 40% là do thảm bại từ tôm. Trên 300 hộ dân ở Vĩnh Hậu A đang để đáy hồ chết lặng vì không có tiền thả tôm.

Tổng dư nợ NTTS của Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Bạc Liêu đã vượt qua con số 1.100 tỷ đồng, trong đó nợ xấu trên 233 tỷ đồng, chiếm trên 20%. Trong số nợ xấu khó đòi này, xã Vĩnh Hậu A đã chiếm khoảng 10%. “Nếu bán đất được, sẽ có 40% dân trong xã bán đất để trả nợ, nhưng ngặt nỗi chẳng ai dám mua!” – Phó Chủ tịch UBND xã Trần Văn Thống nói

Cao Phong - Bình Đại

 


Nuôi trồng thủy sản ở Sông Cầu: Phát triển nhanh, nhưng chưa bền vững

Nguồn tin: PY, 27/7/2006
Ngày cập nhật: 28/7/2006

Thiên nhiên ưu đãi Sông Cầu với nhiều đầm, vịnh, nhất là vịnh Xuân Đài, Cù Mông với thủy vực rộng lớn, là điều kiện tốt để phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS). Từ lâu, Sông Cầu đã phát triển nghề nuôi tôm sú xuất khẩu, với diện tích hơn 800 ha, tập trung ở các xã Xuân Hải, Xuân Phương, Xuân Lộc, Xuân Cảnh, thị trấn Sông Cầu… Sản lượng tôm hàng năm tăng cao, góp phần tăng thu nhập cho dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay nghề này phát triển một cách tự phát, làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và dịch bệnh liên tục xảy ra, người nuôi bị thiệt hại lớn. Ông Lương Công Tuấn, Trưởng phòng kinh tế huyện Sông Cầu cho biết: môi trường một số vùng nuôi ở vịnh Xuân Đài đứng trước thách thức ô nhiễm ngày càng gay gắt, đến nỗi tôm thả nuôi trong thời gian ngắn là chết sạch. Những năm trước đã có hơn 80% diện tích bị dịch bệnh. Trong vụ nuôi năm 2006 môi trường dần được cải thiện, trừ một số hộ nuôi bị thiệt hại do ảnh hưởng bão số 1, đa số hộ nuôi tôm sú vụ này có hiệu quả, thu lãi từ vài triệu đến vài chục triệu đồng.

Nhiều hộ ở xã Xuân Phương (Sông Cầu) có thu nhập cao từ nuôi tôm hùm - Ảnh: Q.Đ

Trong khi nghề nuôi tôm sú còn nhiều bấp bênh, thì phong trào nuôi thủy sản bằng lồng bè, nhất là nuôi tôm hùm ở đầm, vịnh ven biển Sông Cầu ngày càng phát triển mạnh và đạt hiệu quả. Toàn huyện có trên 4000 lồng tôm hùm ương giống, 12.000 lồng nuôi tôm hùm thương phẩm, với sản lượng thu hoạch đạt khoảng 700 tấn/mỗi năm. Song nghề nuôi tôm hùm ở Sông Cầu vẫn thiếu quy hoạch, nên hiện nay môi trường cũng đang có chiều hướng bị ô nhiễm.

Phát triển nuôi đa dạng hóa các loài thủy sản có giá trị xuất khẩu, nhằm tăng thu nhập kinh tế là mục tiêu lớn của huyện Sông Cầu. Những năm gần đây, huyện đã chú trọng vận động, khuyến khích các đơn vị, hộ ngư dân đầu tư phát triển thêm nhiều đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế cao như ốc hương, cá mú, ghẹ lột, cá dìa, cá măng, rong cước, tôm thẻ chân trắng, vẹm xanh… với diện tích hàng trăm ha. Phòng kinh tế huyện Sông Cầu đang triển khai chương trình nuôi vẹm xanh, rong sụn ở Xuân Thịnh, Xuân Cảnh và thị trấn Sông Cầu, vừa tăng thu nhập cho ngư dân, vừa góp phần cải tạo được môi trường nước. Tuy nhiên, đến nay các đối tượng nuôi mới này vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa phát triển thành sản phẩm hàng hóa, nên chưa đạt hiệu quả.

Chính vì những yếu tố trên, NTTS ở huyện Sông Cầu phát triển nhanh, nhưng nhiều đối tượng nuôi chưa thật sự bền vững. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa quy hoạch chi tiết các tiểu vùng nuôi thủy sản, ngư dân tự phát đầu tư diện tích nuôi tại một số vùng đã quá mức cho phép, hạ tầng vùng nuôi kém, nhất là thủy lợi đã tác động xấu đến môi trường đầm, vịnh, khó kiểm soát dịch bệnh. Việc sử dụng mặt nước nuôi tôm do chính quyền các địa phương và nhân dân tự làm, do đó nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Theo ông Lương Công Tuấn, Phó phòng kinh tế huyện Sông Cầu, ngay từ bây giờ huyện cần thực hiện tốt chính sách ưu tiên, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư nhiều chương trình, dự án phát triển bền vững NTTS. Trước mắt, huyện đầu tư hoàn thành các hạng mục thuộc dự án Khu sản xuất giống thủy sản Xuân Hải để đưa vào hoạt động giai đoạn 1, hỗ trợ các nhà đầu tư xây dựng 18 trại sản xuất giống sạch bệnh cung ứng cho dân. Các ngành chức năng huyện và đơn vị tư vấn tổ chức thực hiện nhanh việc thí điểm cắm mốc, giao đất mặt nước NTTS Phú Dương và Vịnh Hòa (xã Xuân Thịnh) tiếp tục hướng dẫn các xã Xuân Lộc, Xuân Cảnh, Xuân Hải, Xuân Bình, Xuân Thọ 2 lập và thực hiện quy chế vùng nuôi tôm sú tập trung; đồng thời phối hợp với các xã Xuân Phương, Xuân Thịnh xây dựng quy chế quản lý vùng nuôi tôm hùm tập trung để HĐND các xã thông qua và áp dụng. Trên cơ sở đó, huyện tiếp tục đầu tư phát triển chương trình đa dạng hóa các đối tượng NTTS một cách nhanh, mạnh và có hiệu quả. Hiện nay, Hiệp hội NTTS Đài Loan đã xây dựng được dự án Nuôi trồng, chế biến thủy sản thôn Tân Thạnh, xã Xuân Thọ 2, với vốn đầu tư 2,5 triệu USD (100% vốn nước ngoài). Dự án này nuôi các loại cá thủy sản, sản xuất giống thủy sản, thu mua, chế biến hải sản, tư vấn và đào tạo kỹ thuật NTTS cho ngư dân… Đây là cơ hội để người dân có điều kiện học tập, áp dụng nuôi đạt hiệu quả và bền vững.

NGUYÊN LƯU


Chủ động nguồn tôm giống

Nguồn tin: KTSG, 28/7/2006
Ngày cập nhật: 28/7/2006

Con giống là yếu tố quan trọng giúp nghề nuôi tôm thành công nhưng hiện ĐBSCL mới chỉ chủ động được 50% nhu cầu.

Vụ nuôi tôm sú năm nay đã được hơn ba tháng, thế nhưng hiện tượng tôm chết xảy ra trên diện rộng ở các tỉnh ĐBSCL như vẫn chưa giảm, làm thiệt hại hàng trăm tỉ đồng của nông dân. Nguyên nhân tôm chết thì nhiều, song yếu tố con giống kém chất lượng chính là điều mà lâu nay các nhà khoa học đã cảnh báo...

Cũng như các tỉnh ven biển ĐBSCL, mùa vụ nuôi tôm sú năm 2006 ở Trà Vinh sôi động hẳn lên từ tháng 10, 11, 12 Âm lịch do “dư âm” được mùa của năm 2004-2005. Bước vào vụ nuôi mới, ngành thủy sản đã khuyến cáo: do thời tiết còn lạnh, môi trường chưa ổn định nên bà con chỉ nên thả nuôi vào cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3. Khuyến cáo là vậy, nhưng do sức hút của thị trường, giá tôm tăng đột biến từ 90.000-110.000 đồng/ký lên 130.000-145.000 đồng/ký (loại1), nên hàng ngàn hộ nuôi tôm ở Duyên Hải, Trà Cú, Châu Thành, Cầu Ngang không theo lịch thời vụ, mà thả nuôi sớm nhằm kịp “đôn” thêm vụ mới. Theo thống kê của ngành chức năng, đến giữa tháng 6-2006, trong hơn 2 tỉ con tôm giống thả nuôi (chỉ có 25% được kiểm dịch) trên diện tích hơn 32.000 héc ta trên địa bàn tỉnh, có gần một tỉ con bị chết. Trong đó, thiệt hại nặng nhất là huyện Duyên Hải, trong 10.000 hộ thả nuôi trên diện tích mặt nước 13.400 héc ta có hơn 6.000 hộ thiệt hại...

Chỉ tính riêng phần con giống thiệt hại, nông dân Trà Vinh đã mất trắng hơn 16 tỉ đồng. Ông Nguyễn Văn Bị, người có trên 10 năm theo đuổi nghề nuôi tôm ở xã Long Toàn, huyện Duyên Hải, ngao ngán kể: “Cũng do mình hám lợi. Đầu vụ thấy tôm giống giá rẻ không rõ nguồn gốc cũng thả nuôi, không nghe theo khuyến cáo về thời vụ của các nhà khoa học nên năm nào số tôm thả trái vụ cũng “chào sân” hết.

“Tình trạng tôm chết trên diện rộng là rất đáng báo động, nguyên nhân chính là chất lượng tôm giống không đảm bảo, môi trường nuôi ngày một suy thoái nghiêm trọng”, Bộ trưởng Thủy sản Tạ Quang Ngọc nhận định tại hội nghị giao ban ngành thủy sản vùng Đông - Tây Nam bộ tổ chức tại Cần Thơ vào đầu tháng 5 vừa qua. Riêng tại Trà Vinh, ông Trần Hoàng Phúc, Phó giám đốc Sở Thủy sản Trà Vinh, thừa nhận: “Hiện tượng tôm nuôi chết trên diện rộng phần lớn do chất lượng con giống đầu vụ kém”.

Hàng năm, người nuôi tôm ở ĐBSCL cần từ 25-27 tỉ con tôm sú giống. Nhưng nguồn giống sản xuất tại chỗ đáp ứng chưa được 50%, nên phần còn lại phải nhập từ các tỉnh miền Trung, Vũng Tàu... Như ở Cà Mau, mỗi năm cần khoảng 2,4 tỉ con tôm giống, nhưng chỉ tự sản xuất được khoảng một tỉ con. Nếu không nhanh chóng tìm biện pháp chủ động nguồn tôm giống, theo một lãnh đạo Sở Thủy sản Trà Vinh: “Khó thoát được cảnh mua tôm bệnh, tôm dạt của các tỉnh khác về nuôi”.

Do cầu vượt cung nên gần đây phong trào “nhà nhà sản xuất giống” đang nở rộ, tỉnh nào cũng ồ ạt phát triển trại sản xuất giống. Tuy nhiên, do năng lực chuyên môn còn nhiều hạn chế nên chất lượng con giống sản xuất ra còn lắm chuyện phải bàn. Sở Thủy sản Trà Vinh thừa nhận, hiện nay mới quản lý được 20% số lượng tôm giống. Ông Phạm Minh Tiến, Giám đốc Sở Thủy sản Sóc Trăng, bức xúc: “Tôm giống của ai cũng nói sạch bệnh, nhưng về thả được hai ngày là tiêu tùng”.

Dự kiến trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, Bộ Thủy sản sẽ đầu tư khoảng 916 tỉ đồng cho việc phát triển tôm giống. Vấn đề là cần sớm xây dựng trại sản xuất tôm giống sạch bệnh mang tầm quốc gia nhằm nâng cao kỹ năng sản xuất giống thay vì phát triển tràn lan, kém hiệu quả như hiện nay. Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II (TPHCM), cảnh báo: “Chất lượng con giống là yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành bại của nghề nuôi tôm. Các ngành, các cấp và nhà khoa học cần quan tâm, kiểm nghiệm lại thực tiễn sản xuất ở địa phương mình. Hàng ngàn nông dân ĐBSCL giàu lên từ nuôi tôm và cũng từ nuôi tôm những năm gần đây hàng ngàn hộ “rớt” trở lại diện nghèo khó, nợ ngân hàng chồng chất”.

Đình Cảnh

 


Cargill lạc quan về môi trường đầu tư ở VN

Nguồn tin: NLĐ, 27/07/2006
Ngày cập nhật: 28/7/2006

Ngày 27-7, Công ty Cargill VN đã khởi công xây dựng nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi tại Khu Công nghiệp Long Mỹ, tỉnh Bình Định.

Đây là nhà máy thứ 5 mà tập đoàn tư nhân lớn nhất của Hoa Kỳ chuyên về lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm đầu tư tại VN. Nhà máy có công suất thiết kế cho giai đoạn đầu khoảng 60.000 tấn/năm với vốn đầu tư khoảng 6 triệu USD.

Tổng Giám đốc Công ty Cargill VN, ông Scott Ainslie, cho rằng việc xây dựng thêm nhà máy tại tỉnh Bình Định đã thể hiện một cách rõ nét tầm nhìn lạc quan của Cargill về môi trường đầu tư ở VN. Đồng thời đây cũng là việc thực hiện cam kết hỗ trợ ngành chăn nuôi VN phát triển mạnh mẽ và bền vững.

L.Cường

 


Người nuôi cá tiếp tục gặp khó

Nguồn tin: VNECONOMY, 27/07/2006
Ngày cập nhật: 28/7/200

 


Cá sạch bán chạy

Nguồn tin: TT, 28/07/2006
Ngày cập nhật: 28/7/2006

Từ Mỹ Hòa Hưng (TP Long Xuyên, An Giang) ngược sông Hậu, đôi bờ là dải cù lao xanh ngát với những quầng nuôi, dãy ao nuôi cá tra, ba sa.

Sạch từ ao nuôi đến... bàn ăn

Tại trang trại của hộ ông Nguyễn Thành Công trong Liên hợp Sản xuất cá sạch Agifish, một công nhân giải thích: “Ở đây không dùng thức ăn tự chế như trước vì loại này khi cho ăn thường bị rơi rớt, cá ăn không hết dễ làm nhiễm bẩn nước. Loại thức ăn viên công nghiệp không chỉ giúp cá mau lớn mà còn giữ nước trong ao luôn sạch”.

Chỉ hệ thống ống dẫn nước, một kỹ sư phụ trách nói: “Nước sạch hằng ngày được bơm vào liên tục, làm vệ sinh, xử lý môi trường thường xuyên. Cộng thêm thức ăn đảm bảo chất lượng nên cá tăng trọng nhanh, luôn cho loại thịt trắng đẹp”.

Sổ nhật ký quá trình nuôi của trang trại đều ghi chép đầy đủ các chi tiết như: thời điểm thả giống, số lượng con giống; hằng ngày dùng loại thức ăn nào, hàm lượng đạm bao nhiêu và nếu cá có nhiễm bệnh thì sử dụng thuốc gì, liều lượng.

Nhiều nông dân tỏ ra ngạc nhiên vì thấy trong một lứa nuôi chỉ sử dụng vài thứ thuốc tăng sức đề kháng, bồi dưỡng cho cá rất ít tốn kém... “Nuôi có kiểm soát như thế này cá ít khi nhiễm bệnh. Nếu có thì cũng chỉ dùng kháng sinh ngoài danh mục cấm hay hạn chế sử dụng” - ông Trần Anh Dũng, phó chi cục trưởng Chi cục Thủy sản An Giang, cho hay.

Tại các nhà máy, kiểm tra kích cỡ, chất lượng xong cá mới được đưa vào chế biến. Cá nguyên liệu qua các phân xưởng cắt tiết, xẻ thịt, lột da, cuối cùng cho thành phẩm là những miếng phi lê trắng hếu. Từ đây còn thêm vài công đoạn chế biến bảo quản nữa rồi mới chuyển vào kho lạnh cấp đông.

Từ mô hình của Agifish, các doanh nghiệp khác cũng bắt tay với nông dân và các hội nuôi cá sạch Navico, Afiex lần lượt thành lập. Mô hình đang tiếp tục nhân rộng ở An Giang và được nhiều đơn vị ở ĐBSCL áp dụng.

Nông trường Sông Hậu (Cần Thơ) với sự hỗ trợ của An Giang vừa được chứng nhận SQF cho vùng nuôi và cho nhà máy chế biến. Các công ty Cataco (Cần Thơ), Vĩnh Hoàn, Docifish (Đồng Tháp)... cũng đang hướng đến mục tiêu cá sạch chất lượng cao.

Ở Công ty Việt An, cá đưa vào các phân xưởng bằng dây chuyền tự động khá hiện đại, hệ thống thu, đưa nước thải, chất thải ra khu xử lý chất thải cũng khá đồng bộ, đảm bảo vệ sinh. Ông Philipe Serene (Tổ chức Aquaculture Certification Council, Mỹ) đánh giá sau khi tham quan phân xưởng: “Rất sạch. Bảo đảm sạch từ ao nuôi đến... bàn ăn!”.

"Đầu ra" khả quan

Từ cuối năm 2005, Công ty Agifish đã cùng với người nuôi, vài đơn vị liên quan trong lĩnh vực thủy sản ở ĐBSCL bắt tay nhau thành lập Liên hợp Sản xuất cá sạch Agifish. Các cơ sở ươm giống, nuôi đều đạt tiêu chuẩn SQF; đơn vị cung cấp thức ăn đạt tiêu chuẩn HACCP, ISO; thuốc thủy sản đạt tiêu chuẩn ISO, GMP; còn nhà máy chế biến áp dụng SQF 2000CM.

Tất cả cùng liên kết tham gia trong một chuỗi sản xuất được quản lý, kiểm soát có hệ thống theo các qui chuẩn quốc tế với cam kết: cho ra sản phẩm cá sạch đạt yêu cầu các thị trường xuất khẩu.

Trong liên hợp, nông dân được hướng dẫn, tạo điều kiện lập kế hoạch sản xuất, áp dụng kỹ thuật nuôi theo tiêu chuẩn quốc tế nhằm giảm giá thành, không gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra còn nhận sự hỗ trợ, đầu tư qua hình thức cung cấp thức ăn từ Công ty Proconco, thuốc phòng trị bệnh từ Vemedim, con giống từ Trung tâm Nghiên cứu & sản xuất giống An Giang và được doanh nghiệp chế biến bao tiêu sản phẩm.

Hiện đã có 31 hộ nuôi cho lượng cá nguyên liệu ổn định hơn 50.000 tấn/năm. Ông Ngô Phước Hậu - tổng giám đốc Công ty Agifish - cho biết đầu ra sản phẩm cá sạch rất khả quan, năm tập đoàn phân phối lớn của Mỹ cam kết sẵn sàng đưa sản phẩm cá tra, ba sa sạch vào hệ thống phân phối của họ. Nhiều thị trường khác đang liên hệ đặt hàng.

ĐỨC VỊNH

 


Khôn ngoan đá đáp người ngoài

Nguồn tin: BCT, 26/7/2006
Ngày cập nhật: 27/7/2006

Bẻ kèo, thất tín, bội ước... Đó là những cụm từ mà mấy ngày qua, nhiều người nuôi cá tra ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, TP Cần Thơ gắn cho một số doanh nghiệp (DN) chế biến thủy sản không thực hiện đúng hợp đồng mua cá của họ. Nhiều nơi, giá cá tra, cá ba sa đến kỳ thu hoạch nhưng DN chỉ chấp nhận mua 11.000- 12.000 đồng /kg (thấp hơn giá mà họ đã ký kết với nông dân trước đó 1.500- 2.500 đồng/kg). Tệ hơn, màn kịch hẹn tới hẹn lui, gây khó dễ trong việc thử dư lượng kháng sinh trong cá, rồi chê lên chê xuống về chất lượng để hạ giá mua lại được một số DN tái diễn, xem đó như một bửu bối lợi hại để hạ “knock out” chính những người đã từng ký kết và thực hiện đúng hợp đồng cung cấp nguồn nguyên liệu cho mình chế biến xuất khẩu. Và càng bức xúc hơn nữa, tại một cuộc họp mới đây ở TP Cần Thơ khi cơ quan chức năng đứng ra dàn xếp, yêu cầu DN mua cá đúng giá theo hợp đồng đã ký kết thì đại diện một DN đã tỉnh bơ biện minh cho cái chuyện không mua đúng giá đó là: “Chuyện ký kết bao tiêu giá thu mua cá tra cho nông dân chỉ ký chút ít chơi cho vui chứ khó thực hiện được” (?!).

..

.GIA HƯNG

 


Nam Định nuôi nhiều loại thủy sản mới

Nguồn tin: ND, 26/7/2006
Ngày cập nhật: 27/7/2006

Ông Nguyễn Quang Trực, Phó Giám đốc Sở Thủy sản Nam Định cho biết: Nghề nuôi tôm sú của tỉnh đã phát triển 10 năm và cho đến nay tôm sú vẫn là đối tượng nuôi chủ lực, mang lại kim ngạch xuất khẩu lớn, hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, nuôi tôm sú hiện nay đang đối mặt rất nhiều khó khăn, mức độ rủi ro lớn do dịch, bệnh.

Để hạn chế thiệt hại đối với người nuôi tôm, từ hai năm nay, tỉnh thực hiện chủ trương đa dạng hóa đối tượng nuôi thủy sản bằng cách đưa các đối tượng nuôi mới như cua biển, cá bống bớp, ngao vào nuôi tại các xã ven biển thuộc các huyện Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng.

Từ đầu năm đến nay, nông dân trong tỉnh thả nuôi 4.500 ha tôm sú vụ 1, với số lượng tôm giống 300 triệu con cỡ P15. Tuy nhiên, diện tích có tôm chết rải rác đến nay là 225 ha, chủ yếu tại các xã của huyện Nghĩa Hưng.

Nguyên nhân của tình trạng tôm chết là do thời tiết diễn biến bất thường, ô nhiễm nguồn nước do hệ thống thủy lợi đầu tư chưa bài bản, thời vụ thả nuôi chưa hợp lý, chất lượng tôm giống chưa bảo đảm.

Đến nay, diện tích nuôi ngao vùng triều của tỉnh đạt 1.000 ha, trong đó huyện Giao Thủy có 700 ha, Nghĩa Hưng 300 ha. Lượng ngao giống thả hằng năm khoảng 700-1.000 tấn, trong đó có 300 tấn ngao giống khai thác tự nhiên. Sản lượng ngao đạt 10 nghìn tấn, năng suất có nơi đạt 40-80 tấn. Lợi nhuận từ nuôi ngao có thể đạt hàng trăm triệu đồng/ha.

Năm 2004, tỉnh được Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 3 chuyển giao công nghệ sản xuất cua biển, nghề nuôi cua bắt đầu phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế cao, đạt hơn 100 triệu đồng/ha. Năm 2006, tỉnh dự kiến sản xuất 1,5-2 triệu con cua giống, diện tích nuôi chuyên cua khoảng 500 ha.

Theo ông Trực, để nuôi thủy sản phát triển bền vững, tỉnh chủ trương “đi tắt đón đầu” bằng cách chọn sản xuất con giống thủy sản là khâu đột phá. Chính vì vậy, tỉnh có cơ chế, chính sách đối với chuyển giao công nghệ sản xuất giống thủy sản, đặc biệt là sản xuất cua biển, cá bống bớp và ngao giống. Năm 2005, tỉnh hỗ trợ 10 trại (100 triệu đồng/trại) có năng lực sản xuất từ 10 triệu con giống thủy sản trở lên.

Bắt đầu từ năm nay, tỉnh tiếp nhận công nghệ sản xuất giống cá bống bớp (giống cá đặc sản của địa phương, hiện có giá trị kinh tế rất cao) của Viện nghiên cứu hải sản. Vùng nước lợ tại Giao Thủy, Nghĩa Hưng có điều kiện thuận lợi đối với nuôi loại cá này. Sản lượng cá bống bớp thương phẩm hiện không đủ cung cấp cho thị trường trong nước và ở mức giá rất cao (giá tại thời điểm này bán 120 nghìn đồng/kg).

Được sự đầu tư của tỉnh, hai cơ sở sản xuất giống thủy sản Cửu Dung và Liên Phong đã sản xuất thành công giống cá bống bớp, sản lượng của hai cơ sở này từ đầu năm đến nay đạt hơn 5 vạn con cá bống bớp giống, cung cấp kịp thời cho người nuôi trong huyện Giao Thủy.

Việc đưa các đối tượng nuôi mới giúp cho người nuôi trồng thủy sản của tỉnh hạn chế mức độ rủi ro, có nguồn thu nhập cao và yên tâm sản xuất.

TẠ QUANG DŨNG

 


Trả giá vì làm ăn chụp giựt

Nguồn tin: NLD, 25/7/2006
Ngày cập nhật: 27/7/2006

 


Giá nghêu tăng mạnh

Nguồn tin: TT, 27/07/2006
Ngày cập nhật: 27/7/2006

Giá nghêu trên thị trường vẫn tiếp tục tăng mạnh, tăng khoảng 2.000 đồng/kg so với hai tuần trước. Hiện giá nghêu thịt bán ra tại khu vực Bến Tre - địa phương có nghề nuôi nghêu phát triển mạnh nhất cả nước - đã lên tới 19.000-19.500 đồng/kg, mức giá kỷ lục từ trước đến nay.

Theo đánh giá của Bộ Thủy sản, sản lượng nghêu thịt chế biến và xuất khẩu của các doanh nghiệp liên tục tăng mạnh từ cuối tháng 6-2006 đến nay là nguyên nhân chính khiến giá nghêu tiếp tục leo thang.

H.ĐĂNG

 


Vịnh Hạ Long: San hô chết hàng loạt

Nguồn tin: SGGP, 25/07/2006
Ngày cập nhật: 26/7/2006

Một trong những giá trị của vịnh Hạ Long là môi trường nước trong sạch và rạn san hô dày đặc. Nhưng đó chỉ là những giá trị của cách đây 15-20 năm. Còn bây giờ, thật đáng buồn là môi trường nước ở nơi đây đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, còn san hô thì đã gần như biến mất.

Vịnh Hạ Long bị “nhiễm bệnh”

Tình trạng quy hoạch, san lấp, lấn vịnh Hạ Long để xây dựng các khu du lịch và khu đô thị mới đã làm phát sinh những hậu quả đáng lo ngại về môi trường và cảnh quan của vịnh.

Tiến sĩ Đàm Đức Tiến, Trưởng phòng Thực vật biển thuộc Viện Tài nguyên và môi trường biển, vừa cùng các nhà khoa học tổ chức một cuộc điều tra về hiện trạng loài và rạn san hô của Việt Nam.

Khi lặn xuống đáy vịnh Hạ Long, ông thật buồn khi phát hiện các rạn san hô ở đây đã hầu như biến mất. “Thật không thể tưởng tượng nổi, bên dưới đáy biển, chúng tôi chỉ gặp những xác san hô chết”- ông bức xúc.

Theo tiến sĩ Nguyễn Huy Yết, Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam (Viện KH-CN), cách đây 20 năm, khắp vịnh Hạ Long hầu như chỗ nào cũng có san hô phủ dày đặc. Thế nhưng đến năm 1998, khi trở lại để điều tra, các chuyên gia nhận ra rằng thảm san hô ở đây đang bị chết dần, chỉ còn lại 30%.

Mới đây, giữa tháng 6-2006, họ tiếp tục trở lại vịnh Hạ Long, Bái Tử Long và Cô Tô (nơi gồm 15 đảo nhỏ và ba đảo lớn: Cô Tô lớn, Thanh Lân và Cô Tô con) để khảo sát, nhưng san hô đã gần như không còn nữa.

Tiến sĩ Yết khẳng định, san hô ở vịnh Hạ Long chết chủ yếu do môi trường nước đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trước đây, môi trường nước ở Hạ Long không thua kém gì Cát Bà, Côn Đảo. Nhưng nhiều năm nay, sự phát triển du lịch thái quá, không theo quy hoạch, đặc biệt là hoạt động lữ hành và lưu trú của các con tàu du lịch trên biển cũng như sự phát triển ồ ạt các khu đô thị, nhà hàng, sự xuất hiện các bãi tắm và khu công nghiệp, khai thác than, quặng, bến cảng ở quanh bờ vịnh... đã khiến vịnh Hạ Long nhanh chóng bị “nhiễm bệnh”.

Rất nhiều du khách nước ngoài đến Hạ Long và sau đó họ tỏ ra không hài lòng về cảnh chai lọ, túi nilông cùng hàng trăm loại rác rưởi khác trôi nổi khắp vịnh, đặc biệt là các váng dầu ở gần cảng vịnh.

Thậm chí mới đây, ông Chu Shiu Kee, Trưởng đại diện Văn phòng UNESCO tại Hà Nội, cũng tỏ ra lo ngại cho môi trường của vịnh Hạ Long, đã gửi thư cho ông Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, bày tỏ mối quan ngại khi chính quyền của tỉnh này cho phép xây dựng 1 nhà máy xi măng công suất lớn nhất Việt Nam (2,3 triệu tấn/năm) ngay sát bờ vịnh Bái Tử Long, có thể làm ô nhiễm vịnh Hạ Long nghiêm trọng.

Còn theo tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi, Viện trưởng Viện Kinh tế và quy hoạch (Bộ Thủy sản), nguyên nhân khiến các rạn san hô không có cơ hội để sống ở vịnh Hạ Long là do nước ở đây đã đục ngầu, do việc lấn biển để xây khu đô thị mới, khu du lịch (đặc biệt là khu đảo Tuần Châu, khu đô thị mới Cái Dăm). Khi người dân tự phát phá rừng phòng hộ, phá rừng ngập mặn làm đầm nuôi tôm, đã làm mất “cái bẫy” chặn phù sa đổ từ thượng nguồn ra vịnh. Nước đục khiến san hô không thể quang hợp được và chết dần.

Theo tiến sĩ Chu Hồi, các rạn san hô lại chính là “cái tổ” để thu hút các loài tôm, cá tìm về sinh trưởng. “Nếu không có các rạn san hô thì dù chúng ta không khai thác, các loài tôm cá cũng bỏ đi nơi khác và đó là một nguy cơ suy giảm nguồn lợi thủy sản rất rõ”- ông Hồi nói.

Khẩn trương cứu san hô

Để cứu các rạn san hô của vịnh Hạ Long, ông Đàm Đức Tiến cho rằng, chỉ có một cách bền vững nhất là phải luôn đảm bảo chất lượng nguồn nước ở đây. Bởi vậy, ngay từ bây giờ, chính quyền tỉnh Quảng Ninh phải đầu tư mạnh tay hơn cho các chương trình làm sạch môi trường nước ở quanh TP Hạ Long. Sớm thực hiện đồng loạt giải pháp bảo vệ nguồn nước của vịnh bằng cách quản lý chặt chẽ hoạt động xả nước thải, rác thải của các nhà hàng, khách sạn, khu đô thị mới, khu công nghiệp, đặc biệt là hệ thống tàu chở khách trên vịnh.

Còn ông Nguyễn Chu Hồi thì cho rằng, cần phải tổ chức “gieo cấy” lại các rạn san hô cho vịnh Hạ Long bằng các giá thể xi măng hoặc chính thảm san hô chết. Ngoài ra, có thể dùng các vật liệu bằng gỗ, bê tông, sắt, cao su... xử lý kỹ, loại bỏ hoàn toàn hóa chất rồi thả xuống vịnh để san hô bám và phát triển. Nếu kiên trì sau vài chục năm làm sống lại rạn san hô, Hạ Long có thể có thêm một loại hình du lịch mới: lặn xuống đáy biển xem san hô, đang rất hấp dẫn hiện nay.

VĂN PHÚC HẬU


Xuất khẩu cá basa sang Nga: Cung đã vượt cầu

Nguồn tin: TT, 26/7/2006
Ngày cập nhật: 26/7/2006


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang