• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Hợp tác xã Thủy sản Rạng Đông (Thới Thuận – Bình Đại - Bến Tre) đạt doanh thu hơn 25 tỷ đồng

Nguồn tin: Btre, 25/07/2006
Ngày cập nhật: 25/7/2006

Ông Nguyễn Quốc Dũng, Chủ nhiệm Hợp tác xã Thủy sản Rạng Đông (Thới Thuận – Bình Đại - Bến tre), cho biết: Sáu tháng đầu năm 2006, HTX đã khai thác nghêu được với doanh thu hơn 25 tỷ đồng. Bình quân mỗi hộ xã viên được chia khoảng 8 triệu đồng (HTX có 1.712 hộ xã viên). Đồng thời, HTX đã giải quyết việc làm thường xuyên cho hơn 500 lao động với mức lương tương đương 3 tỷ đồng.

Hiện tại, con nghêu đang có giá và trúng mùa. Ngoài HTX Thủy sản Rạng Đông, huyện Bình Đại còn có HTX Thủy sản Đồng Tâm (xã Thừa Đức) cũng đang trên đà phát triển và làm ăn có hiệu quả.

Đức Chính

 


Giá cá tra, basa xuất khẩu vẫn ở mức cao

Nguồn tin: VNN, 25/07/2006
Ngày cập nhật: 25/7/2006

 


Lượng tôm nguyên liệu chứa tạp chất tiếp tục giảm

Nguồn tin: VNECONOMY, 25/07/2006
Ngày cập nhật: 25/7/2006

Cần tăng cường kiểm tra giám sát để đảm bảo tính đồng bộ trong triển khai chiến dịch ở tất cả các tỉnh, thành.

Cục Quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (Nafiqaved) vừa cho biết, tỷ lệ tôm nguyên liệu chứa tạp chất đã tiếp tục được giảm xuống còn 0,20%.

Đây là kết quả được thống kê sau 2 tháng (từ 18/5 đến 18/7/2006) thực hiện chiến dịch kiểm tra chất lượng tôm nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu tại cửa 78 nhà máy ở 12 tỉnh, thành phía Nam, trong đó mới chỉ phát hiện 64 lô tôm có chứa tạp chất, chiếm tỷ lệ 0,20%.

Cụ thể, khi kiểm tra gần 31.000 lô nguyên liệu tại 78 cơ sở chế biến tôm thuộc 12 tỉnh thành, chỉ thấy có 64 lô có chứa tạp chất, chiếm tỷ lệ 0,20%, trong đó tập trung tại các tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Hậu Giang, Kiên Giang, Khánh Hòa.

Cà Mau là vùng nguyên liệu lớn nhất trong cả nước vì vậy số lô tôm bị phát hiện có chứa tạp chất cũng cao nhất chiếm tỷ lệ gần 80%. Các loại tạp chất bị phát hiện trong đợt kiểm tra vừa qua là Agar, Agar + Gelatine, tinh bột, Agar + PVA, Gelatine + PVA, CMC trong đó Agar chiếm 56% tỷ lệ. Lô tôm nguyên liệu có tạp chất khối lượng lớn nhất là 2 tấn và thấp nhất là 67 kg.

Như vậy, lượng tôm nguyên liệu chứa tạp chất được kiểm tra trong khoảng thời gian từ 5/7 đến 18/7 đã giảm hẳn, theo đó kéo tỷ lệ lô tôm chứa tạp chất của cả 2 tháng tiến hành kiểm tra xuống mức thấp hơn. Trong 50 ngày kiểm tra từ 18/5 đến 4/7, tỷ lệ lô tôm nguyên liệu chứa tạp chất chiếm tỷ lệ 0,22%.

Tuy nhiên, Nafiqaved nhận định, mặc dù số lô tôm nguyên liệu chứa tạp chất ngày càng giảm song vẫn còn diễn biến phức tạp, có khả năng bùng phát trở lại, đặc biệt tại tỉnh Cà Mau trong thời gian khan hiếm nguyên liệu.

Ngoài ra, Hiệp hội các nhà chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng cần phải tiến hành kiểm soát thêm ngay tại các đại lý thu mua, cơ sở chế biến nhỏ lẻ cũng như tăng cường kiểm tra giám sát để đảm bảo tính đồng bộ trong triển khai chiến dịch ở tất cả các tỉnh, thành.

Đồng thời, cũng phải xem xét lại việc ghi biên bản kiểm tra tạp chất cho từng lô nguyên liệu đối với các nhà máy có khối lượng nguyên liệu nhập vào trong ngày lớn và đề nghị cân nhắc sự cần thiết đối với việc kiểm tra 100% các lô tôm thu hoạch tại các vùng nuôi của doanh nghiệp, đặc biệt là các vùng nuôi gần địa điểm doanh nghiệp, do doanh nghiệp tự thu hoạch và vận chuyển đến nơi chế biến...

Đ.Thọ


Người nuôi cá tra, ba sa bị dồn vào chân tường

Nguồn tin: SGGP, 25/07/2006
Ngày cập nhật: 25/7/2006

 


Cá tra rớt giá, nông dân lại thua thiệt!

Nguồn tin: BCT, 25/7/2006
Ngày cập nhật: 25/7/2006

 


Rong sụn thu hoạch có chất lượng chưa cao

Nguồn tin: NT, 24/7/2006
Ngày cập nhật: 24/7/2006

Toàn tỉnh hiện có diện tích 346,6 ha mặt nước trồng rong sụn với hơn gần 700 hộ nuôi trồng, phát triển mạnh ở các vùng ven biển xã Phước Dinh, Phước Diêm (Ninh Phước) và khu vực đầm Nại, xã Thanh Hải (Ninh Hải). Do ảnh hưởng nắng nóng, nhiệt độ tăng cao nên hầu hết rong sụn ở các khu vực trồng đều phát triển kém, có hiện tượng rong bị hư nhiều và bị rong tạp bám.Trong 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh thu hoạch rong sụn tươi đạt sản lượng 3.700 tấn (46,5% so với kế hoạch năm), riêng số rong bị thiệt hại do triều cường và thời tiết vào khoảng 700 tấn, tập trung tại Phước Dinh, nhất là ở khu vực nuôi Sơn Hải.

Hiện nay có 200 hộ dân Phước Dinh đang trồng lại rong sụn với diện tích khoảng 100 ha, tuy nhiên việc nuôi trồng đang gặp khó khăn do rong giống khan hiếm và chất lượng chưa cao.

BT, Báo Ninh Thuận

 


T.Ư Đoàn: Khởi công dự án 20 tỉ đồng nuôi trồng thủy sản

Nguồn tin: TN, 22/07/2006
Ngày cập nhật: 24/7/2006

Sáng 22/7, tại xã Thanh Thủy, huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), T.Ư Đoàn và Tỉnh đoàn Thanh Hóa đã tổ chức lễ khởi công xây dựng Dự án phát triển nuôi trồng thủy sản Thanh Thủy. Đây là dự án có quy mô lớn nhất nước của T.Ư Đoàn trong lĩnh vực phát triển, nuôi trồng thủy sản với tổng vốn đầu tư 20 tỉ đồng.

Anh Bùi Đặng Dũng, Bí thư T.Ư Đoàn và ông Chu Phạm Ngọc Hiển, Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đã dự lễ. Dự án phát triển nuôi trồng thủy sản Thanh Thủy sẽ xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo đảm chuyển đổi 113,7 ha đất trồng lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản theo nhiều hình thức nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Dự án sẽ góp phần tích cực tạo công ăn việc làm ổn định, nâng cao thu nhập cho trên 100 hộ gia đình nông dân, trong đó chủ yếu là các gia đình trẻ...

 


Nuôi tôm càng xanh liền canh - liền cư

Nguồn tin: SGGP, 21/07/2006
Ngày cập nhật: 24/7/2006

Từ việc nuôi tôm càng xanh trong ao mương vườn vùng nước ngọt nhỏ lẻ và tự phát, hiệu quả không cao, năm 2005, Sở Thủy sản Bến Tre triển khai dự án nuôi tôm càng xanh liền canh - liền cư tại 2 địa điểm xã Thuận Điền (huyện Giồng Trôm) và xã Phước Hiệp (huyện Mỏ Cày).

Mô hình nuôi tôm càng xanh liền canh - liền cư là nhằm tổ chức lại việc nuôi trồng thủy sản trong cộng đồng, phát triển sản xuất nâng cao thu nhập. Nhà nước hỗ trợ vốn phát triển ban đầu và chuyển giao khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ sản xuất và cung cấp con giống cho nông dân.

Ngay khi triển khai dự án, nông dân 2 xã bắt tay vào việc nạo vét ao mương, củng cố đê bao và lưới chắn. Tổ nuôi tôm theo hình thức liền canh-liền cư thường xuyên tổ chức tập huấn hướng dẫn quy trình nuôi và thu tỉa mương tôm, để thu hồi vốn đầu tư sau 18 tháng triển khai.

Không những nâng cao hiệu quả về kinh tế, dự án còn hướng dẫn cho nông dân tính cộng đồng cao, cùng nhau phát triển sản xuất, cùng bảo vệ tài sản làm ra, giữ gìn trật tự an ninh xóm ấp. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật cũng được triển khai trong những buổi tập huấn và những cuộc hội thảo đầu bờ. Từ đó chính quyền cơ sở lồng ghép tuyên truyền, triển khai chính sách của Đảng cho người dân. Nhờ đó, việc xây dựng nông thôn mới càng thêm vững mạnh về mọi mặt.

Anh Văn Lộc Đỡ ở ấp 5 xã Thuận Điền, Tổ trưởng tổ nuôi tôm càng xanh liền canh – liền cư cho biết dự án đã hỗ trợ 40.000 con tôm giống cho 12 hộ, với tổng diện tích mặt nước 17.500m2. Tại xã Phước Hiệp, ấp An Thới, dự án cũng đưa 55.000 con giống, trên tổng số mặt nước 18.300m2 cho 21 hộ.

Sau gần một năm, dự án đạt thành công bước đầu, hầu hết các hộ dân tham gia thu tỉa 2 đợt, thu hồi được vốn ban đầu và có lãi, chưa kể số tôm còn lại dưới mương (1/3 số lượng con cho đợt thu hoạch tới). Dự án đang được nhân rộng ra nhiều nơi trong tỉnh Bến Tre, góp phần tạo sức bật mới cho bước chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, giúp nông dân tăng thu nhập, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh nhà.

DƯƠNG THANH HẢI

 


Người nuôi cá gặp khó vì hợp đồng tiêu thụ

Nguồn tin: TT, 24/07/2006
Ngày cập nhật: 24/7/2006

 


Cơ sở sản xuất cá thể bị bỏ rơi về chính sách

Nguồn tin: VNN, 21/07/2006
Ngày cập nhật: 24/7/2006

 


Thanh Hóa triển khai dự án nuôi trồng thủy sản lớn nhất tỉnh

Nguồn tin: TTXVN, 22/07/2006
Ngày cập nhật: 23/7/2006

Sáng 22/7, tỉnh Thanh Hoá đã khởi công dự án phát triển nuôi trồng thuỷ sản Thanh Thủy - dự án nuôi trồng thuỷ sản lớn nhất của tỉnh với tổng vốn gần 18 tỷ đồng và quy mô diện tích hơn 113ha.

Dự án sẽ chuyển đổi diện tích gieo cấy lúa năng suất thấp tại huyện Tĩnh Gia sang hình thức bán thâm canh, vừa nuôi trồng thủy sản vừa trồng lúa, để góp phần xoá đói, giảm nghèo cho nông dân trong vùng.

Các hộ tham gia nuôi trồng thuỷ sản trong vùng dự án chủ yếu là hộ gia đình đoàn viên, thanh niên./.

 


Nuôi trồng thủy sản ở Đức Linh: Tiềm năng lớn, quy mô nhỏ

Nguồn tin: BThuận, 22/07/2006
Ngày cập nhật: 23/7/2006

Đức Linh có diện tích ao bàu, sông suối trên 2.200ha thích hợp cho phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) nước ngọt. Đây là một trong những nguồn tiềm năng to lớn góp phần để Đức Linh phát triển kinh tế – xã hội vùng nông nghiệp nông thôn. Song thực tế cho đến nay tiềm năng này chưa được khai thác tốt, NTTS chủ yếu là tự phát, quảng canh, quy mô nhỏ.

Thực trạng và yêu cầu quy hoạch

Phong trào nuôi thủy sản ở Đức Linh bắt đầu từ năm 1995, nhưng với diện tích nhỏ. Người nuôi thủy sản mang tính tự phát. Tận dụng ao bàu tự nhiên làm ao nuôi cá, nuôi kết hợp theo hình thức VAC để tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên và thức ăn dư thừa từ chăn nuôi. Khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2005 do tác động của khoa học kỹ thuật và thông tin thị trường, hệ thống thủy lợi ngày càng phát triển nên diện tích NTTS ngày càng mở rộng từ 142ha năm 2000 lên 654ha năm 2005, giải quyết gần 1.000 lao động nông nông Tân Hà tận dụng tiềm năng sinh học tự nhiên sẵn có trong thủy vực, còn lại là tận dụng ao bàu phân tán, quy mô nhỏ. Hình thức nuôi thủy sản chủ yếu là quảng canh, quảng canh cải tiến, nuôi kết hợp theo mô hình VAC và mô hình cá – lúa, cá – sen, nuôi ghép ghép không cao như cá chép, cá trắm, cá mè các loại… phần lớn tiêu thụ nội địa và các vùng lân cận. Hiện nay các đối tượng có giá trị kinh tế như cá bống tượng, cá chình lồng bè, cá rô phi đơn tính, cá rô phi dòng gift, cá diêu hồng, cá lóc, cá rô đồng… đang được người nuôi quan tâm phát triển. Gần đây Đức Linh đã phối hợp với Trung tâm Khuyến ngư Bình Thuận tổ chức các lớp tập huấn kỹ kỹ khoa học kỹ thuật và hướng người nuôi vào những loại cá phù hợp với điều kiện tự nhiên tại địa phương nhằm cho hiệu quả kinh tế cao.

Các giải pháp phát triển

Từ thực tế vừa qua, để NTTS Đức Linh phát triển tương xứng với tiềm năng, hạn chế tình trạng tự phát, manh mún… chúng tôi nghĩ Đức Linh cần có chủ trương khuyến khích, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư khai thác, phát triển tiềm năng này; gắn với Trung tâm Khuyến ngư đẩy mạnh công tác tập huấn kỹ thuật, tuyên truyền hướng dẫn sản xuất, tập trung điều tra khảo sát mùa vụ nuôi thích hợp, có những khuyến cáo và biện pháp tổ chức quản lý trong hoạt động sản xuất nhằm giảm tối đa những rủi ro trong saûn xuaát. Vaán ñeà voán cuõng laø moät trong nhöõng nguoàn löïc giöõ vai troø quan troïng trong ñaàu tö phaùt trieån saûn xuaát, vì vaäy phaûi có những chính sách ưu đãi về vốn trong lĩnh vực NTTS. Cần phải có các cơ sở sản xuất giống khu vực hoặc giúp cho các hộ có điều kiện ương nuôi giống tại chỗ; vấn đề thị trường phải được xem xét nghiêm túc bảo đảm lợi ích của người nuôi. Khuyến cáo người nuôi chọn lựa các loài thủy sản nuôi hài hòa giữa thị trường ưa chuộng và đặc điểm điều kiện của địa phương; chú ý đào tạo cán bộ xã, thị trấn thông qua các chương trình tập huấn, hội thảo, cung cấp thông tin mới về tiến bộ KHKT. Từ đội ngũ này sẽ hướng dẫn cho người nuôi ở địa phương.

Ngoài những giải pháp trên đây, thiết nghĩ tỉnh cũng cần có chính sách hỗ trợ nguồn vốn ưu đãi đầu tư phát triển NTTS nước ngọt; các ngành chức năng cần có quy hoạch cụ thể vùng nuôi tập trung và gắn liền với quy hoạch hệ thống thủy lợi. Mặt khác vai trò của Trung tâm Khuyến ngư là không thể thiếu trong việc hỗ trợ khoa học kỹ thuật, có chính sách giúp về con giống cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, và những hộ gia đình khó khăn. Hy vọng NTTS Đức Linh sẽ phát triển trong thời gian tới, tương xứng với tiềm năng.

ĐÔNG BÌNH

 


Phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu thủy sản từ 2,2 - 2,4 tỉ USD

Nguồn tin: BCT, 23/7/2006
Ngày cập nhật: 23/7/2006

 


ĐBSCL: Cá bè quá lứa đang chết dần

Nguồn tin: SGGP, 21/07/2006
Ngày cập nhật: 22/7/2006

Trong khi các doanh nghiệp (DN) xem chuyện ký hợp đồng mua cá với nông dân là chuyện “chơi”, thì khó khăn tiếp tục chồng chất lên hàng ngàn nông dân nuôi cá tra, cá basa ở ĐBSCL.

Cụ thể nhiều bè cá quá lứa (do DN không mua), đang chết dần do nước lũ đang đổ về. Đây là chu kỳ cá chết xảy ra nhiều năm qua. Mức độ thiệt hại ở các bè nuôi phổ biến từ 20-30%.

Ngày 20-7, trao đổi với PV Báo SGGP, ông Nguyễn Hữu Khánh, Chủ tịch Hiệp hội Nghề cá Việt Nam đã dùng từ “trịch thượng” dành cho một số DN chế biến cá tra, cá basa xuất khẩu khi không tôn trọng hợp đồng đã ký kết với nông dân ĐBSCL.

CAO PHONG – BÌNH ĐẠI

 


“Vua” cá bống tượng ở Bến Tre

Nguồn tin: BCT, 22/7/2006
Ngày cập nhật: 22/7/2006

Nhờ liên tục thành công từ mô hình nuôi cá bống tượng anh Nguyễn Văn Bảo, ở xã An Qui, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre (ảnh), đã vươn lên giàu có. Sau nhiều năm “đeo đuổi” cá bống tượng với không ít lần thất bại, mới đây, anh đã gặt kết quả trong việc nhân giống cá này và cung cấp cho người nuôi ở Bến Tre và các tỉnh lân cận... “Vua cá bống tượng”là biệt danh mà dân nuôi cá đặt cho anh.

Thời… trắng tay

Chuyện anh Bảo liên tục “trúng” với mô hình nuôi cá bống tượng và khấm khá đang làm cho nông dân nhiều nơi trong tỉnh Bến Tre và các tỉnh ĐBSCL chú ý. Cái tin anh nhân giống cá bống tượng thành công đã thu hút nhiều bà con nông dân tìm đến tham quan, học hỏi mô hình nuôi và mua giống cá có giá trị kinh tế cao này về nuôi. Tuy mới bắt đầu cung cấp giống đại trà, nhưng từ đầu năm đến nay anh đã bán được gần 200.000 con cá bống tượng con. Hôm chúng tôi đến, có mấy anh nông dân ở huyện Bình Đại tìm đến tham quan mô hình với ý định về nuôi cá bống tượng trong ao nuôi tôm sú bị thất bại. Anh Bảo cho biết: “Mỗi ngày tôi tiếp trên, dưới 20 người đến tham quan, hỏi thăm cách nuôi và mua con giống. Riêng huyện Bình Đại, số lượng con giống mà bà con đăng ký đã trên 50.000 con”. Nhắc lại chuyện đầu tư nuôi cá bống tượng của mình và thành quả hôm nay, anh Bảo nói: “Hồi mới ra lập nghiệp, tôi đụng đến đâu là thất bại đến đó. Tại nghèo, vốn ít nên tôi mới bám được với loài cá chỉ có ngoài tự nhiên này. Nói thiệt, nếu không kiên trì, tôi cũng khó thành công vì rất khó để tìm ra quy trình nuôi phù hợp cho con cá bống tượng”.

Năm 1990, anh lập gia đình khi mới 22 tuổi và bắt đầu lập nghiệp với 2.000m2 đất bị nhiễm mặn do cha mẹ cho. Lúc đó, nông dân các xã ven biển của huyện Thạnh Phú khó có ai làm giàu được trên mảnh đất phèn bạc, hoang hóa. Thạnh Phú là huyện có nhiều hộ nghèo nhất tỉnh. Nghèo quá nên cũng như nhiều người ở đây, anh Bảo phải bỏ miệt biển để đi xứ khác làm ăn. Anh đến Đồng Nai, tạo dựng cuộc sống trên chiếc bè với nghề đánh bắt cá ở lòng hồ Trị An. Anh Bảo nhớ lại: “Trong số cá, tôm tôi bắt được ở đây, có rất nhiều cá bống tượng. Cá lớn bán còn có tiền chứ cá cỡ ngón chân cái rẻ như cho nên tôi không bán mà đóng bè nuôi với suy nghĩ bỏ ống để dành làm vốn. Nhưng do dòng nước ở đây thay đổi thất thường nên cá không phát triển. Với lại cá bị chài lưới bắt đã trầy xước nên khi nuôi bị ghẻ và chết hết”.

Ra đi với hai bàn tay trắng. Sau hai năm lập nghiệp không khá, anh Bảo đành chịu trắng tay quay về lại quê nhà. Lúc này, Thạnh Phú bắt đầu có phong trào nuôi tôm sú quảng canh, anh quyết định nuôi tôm sú. Hai năm của vụ nuôi tôm sú quảng canh anh trúng liên tục và lời gần 40 triệu đồng. Thấy làm ăn được, anh đầu tư chuyển sang nuôi tôm công nghiệp và rồi... trắng tay vì tôm chết.

“Bén duyên” với cá bống tượng

Trong thời gian nuôi tôm, mỗi chuyến dọn ao tôm, anh bắt được vài con cá bống tượng lớn và rất nhiều cá nhỏ. Nhận thấy cá bống tượng phát triển được ở vùng nước lợ, anh quyết định nuôi thử loại cá này. Ngoài việc bắt cá tự nhiên để làm giống, anh còn tìm mua lại cá bống tượng con. Rút kinh nghiệm lần trước, lần này anh chỉ mua cá loại nhỏ cỡ đầu các ngón tay, không bị trầy xước để thả nuôi. Năm 2001, từ 4.000 con cá bống tượng thả nuôi anh thu được 800 kg cá thịt và bán được 140 triệu đồng (lúc này, giá cá bống tượng loại nhất: 210.000 đồng/kg; loại nhì: 190.000 đồng/kg; loại ba: 70.000 đồng/kg). Anh Bảo nói: “Đợt cá này tôi nuôi đến 2 năm mới thu hoạch vì không có vốn, chỉ cho cá ăn cầm chừng nên cá lâu lớn. Nuôi mấy ngàn con cá mà tôi chỉ tốn khoảng 4 triệu đồng chi phí. Còn bây giờ tôi nuôi cá bài bản hơn, cho ăn đầy đủ, chỉ 12 tháng là thu hoạch, đảm bảo cá đạt tiêu chuẩn”.

Sau thành công đầu tiên, anh quyết định thuê thêm gần 2 ha đất để mở rộng diện tích nuôi cá bống tượng. Những năm sau đó, mỗi đợt thu hoạch cá anh đều thu lãi trên dưới 50 triệu đồng trên diện tích nuôi khoảng 1 công đất. Lợi nhuận giảm là do anh tính kế lâu dài: thu hoạch cá luân phiên và để dành cá giống lại ép đẻ, nhân giống cá con để chuẩn bị nuôi qui mô lớn. Tham khảo tài liệu, anh phát hiện cách làm cho cá bống tượng đẻ rất dễ: chỉ cần chất gạch xuống hồ thì cá đẻ trên gạch, sau đó đem trứng đi ấp bằng cách cho chạy oxy cá sẽ nở. Nhưng tỷ lệ thành công rất ít. Hàng triệu con post cá bống tượng nhưng khi thu đầu con không con bao nhiêu. Rồi đột nhiên cá bống tượng mẹ chết hàng loạt. Tìm hiểu anh mới biết cá đẻ vài lứa bị nhiễm trùng đường sinh dục nên chết. Coi như sản xuất cá giống không thành công, kế hoạch thả nuôi cá bống tượng qui mô lớn lại thất bại vì không có nguồn cá giống. Tính riêng phần đầu tư sản xuất cá giống, do hao hụt cá mẹ anh bị lỗ liên tục 3 năm khoảng 150 triệu đồng.

Không nản chí, anh thử nhiều cách. Cuối cùng anh cũng tìm được cách khắc phục tình trạng cá mẹ bị bệnh sau khi đẻ và nhân giống thành công cá bống tượng con vào cuối năm 2005. Anh không ngần ngại tiết lộ một phần bí quyết của mình: Cá bống tượng mẹ để giống tốt nhất là khi đạt trọng lượng khoảng 0,5 kg. Nếu cá lớn hơn, khi đẻ, cá con rất yếu, khó dưỡng. Một con cá bống tượng sau khi đẻ 3–4 lứa thì phải đổi giống. Cá đẻ mỗi tháng 1 lần, vì vậy phải gầy dựng và thay đổi cá mẹ liên tục thì cá giống mới đạt chất lượng. Theo quy trình này, tỷ lệ cá con từ khi anh nhân giống và cung ứng ra thị trường đạt khoảng 50%. Hiện anh có khoảng 500 cặp cá bống tượng giống và không ngừng thả cá tiếp nối. Anh còn có ý định sẽ thuê đất ở vùng nước ngọt để đầu tư thêm điểm sản xuất cá bống tượng giống. Hiện nay anh đang ở vùng nước mặn nên phải đợi đến khi nước lợ mới sản xuất được cá giống nên năng suất không cao, không đáp ứng được hết nhu cầu cá giống của bà con.

Hiện tại, anh đang bán cá bống tượng con với giá 1.000 đồng/con (40 ngày tuổi) và 1.200 đồng con (50 ngày tuổi). Anh Bảo cho biết”Tôi đã in tài liệu nuôi cá bống tượng và sẵn sàng hướng dẫn kinh nghiệm cho bà con nuôi cá. Trong đó, việc quan trọng nhất để nuôi cá bống tượng thành công là cần xử lý thuốc định kỳ 15 ngày/lần, nếu không cá rất dễ bị bệnh”. 10.000 con cá bống tượng có thể thả trong diện tích 1.000 m2 mặt nước. Theo tính toán của anh Bảo, cá bống tượng nuôi thành công cho dù hao hụt đến 90% thì người nuôi vẫn đạt lợi nhuận rất cao. Nếu nuôi 10.000 con cá bống tượng, trừ tất cả chi phí đầu tư khoảng 25 triệu đồng, chỉ với 1.000 con cá bống tượng còn sống bán ra, người nuôi sẽ thu được 150 triệu đồng. Cá bống tượng hiện nay có giá 290.000 - 300.000 đồng/kg (loại nhất, trọng lượng 0,5 kg/con); loại nhỏ hơn, giá thấp hơn 10 ngàn đồng/kg; cá cỡ 0,3 kg/con, giá khoảng 200.000 đồng/kg. Trong năm, có lúc giá cá bống tượng tăng lên đến 320.000 đồng/kg (loại nhất). Thị trường tiêu thụ cá bống tượng cũng rất triển vọng. Một ngày, anh Bảo có thể mua hết 10 tấn cá của bà con để chuyển lên TP. Hồ Chí Minh đóng thùng xuất qua Trung Quốc.

Hiện nay, anh Bảo đang đầu tư 60 triệu đồng để nuôi trùn quế nhằm cung cấp thức ăn ban đầu cho bà con khi đến mua cá giống. Trùn quế được trộn với thức ăn công nghiệp cho cá ăn giúp cá mau bắt mồi, phát triển nhanh. Việc cho cá ăn trùn quế liên tục 6 tháng tuổi đầu kể từ khi thả nuôi giúp giảm chi phí, tăng lợi nhuận.

CAO DƯƠNG

 


Tiền Giang nuôi cá tra theo quy trình của Thuỵ Sĩ

Nguồn tin: TTXVN, 19/07/2006
Ngày cập nhật: 20/7/2006

Mô hình nuôi cá tra an toàn theo qui trình SQF 1000 của Viện SQF (Thụy Sĩ) đang được Công ty TNHH Hùng Vương áp dụng thử nghiệm trên diện tích 20ha ở cù lao Cổ Lịch huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

Nếu xây dựng thành công mô hình này vào cuối năm 2006, Tiền Giang sẽ có khoảng 5.000 tấn/năm cá tra an toàn đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Hiện tại vùng cù lao Cổ Lịch, nhiều hộ nông dân nuôi cá tra đã cho thu hoạch, đạt sản lượng trên 200 tấn/ha/vụ.

Dự kiến đến năm 2010, Tiền Giang sẽ nhân rộng mô hình nuôi cá tra an toàn theo qui trình SQF 1000 ra khoảng 4 đến 5 điểm trong tỉnh.

Khi đó tỉnh sẽ có khoảng 20.000 đến 25.000 tấn nguyên liệu cá tra xuất khẩu./.

 


Cả nước thả nuôi hơn 600.000ha tôm nước lợ

Nguồn tin: TTXVN, 19/07/2006
Ngày cập nhật: 20/7/2006

Bộ Thủy sản cho biết từ đầu năm đến nay, các địa phương trong cả nước đã thả nuôi hơn 604.000ha tôm nước lợ, với số lượng giống thả 14,2 tỷ con.

Bộ yêu cầu các hộ nuôi tôm tích cực triển khai áp dụng các tiêu chuẩn vùng nuôi tôm an toàn, mô hình nuôi tôm sạch, tăng cường kiểm tra chất lượng, kiểm dịch giống, thức ăn và thuốc phòng bệnh cho tôm.

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) đang phối hợp với Bộ Thủy sản xây dựng các dự án quản lý an toàn vùng nuôi tôm theo các tiêu chuẩn quốc tế. p>Trước mắt, các dự án nuôi tôm sạch sẽ được triển khai thử nghiệm tại Bến Tre.

Ngoài ra, một dự án chuyên sản xuất giống tôm sú tập trung chất lượng cao, được kiểm dịch trước khi lưu thông trên thị trường, cũng đang được xây dựng trên diện tích 125ha tại huyện Ninh Phước, Ninh Thuận./.

 


Quảng Ngãi: Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản

Nguồn tin: Nhân dân, 20/7/2006
Ngày cập nhật: 20/7/2006

Tỉnh Quảng Ngãi đã quy hoạch hơn 1.360 ha nuôi trồng thuỷ sản (chủ yếu là diện tích nuôi tôm và cá nước ngọt). Nhiều địa phương trong tỉnh đã đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng nuôi cá nước ngọt và nuôi tôm trên cát với diện tích tăng gấp hai lần so với năm 2005. Hiện nay, nông dân đã đầu tư nuôi cá nước ngọt với 656 ha. Riêng diện tích thả nuôi tôm đạt 714 ha, sản lượng thu hoạch 6 tháng đầu năm đạt 1.980 tấn, tăng 174 tấn với cùng kỳ năm ngoái. Nhiều huyện đã mở rộng diện tích nuôi tôm chân trắng đạt hiệu quả kinh tế cao như: Mộ Đức, Đức Phổ, Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa... Tỉnh Quảng Ngãi hiện đang hỗ trợ hơn 4,5 tỷ đồng để tập huấn kỹ thuật đầu tư con giống và xây dựng hệ thống xử lý môi trường cho các vùng nuôi tôm trọng điểm trong tỉnh.

 


Những mô hình khuyến ngư đạt hiệu quả cao

Nguồn tin: Phú Yên, 20/7/2006
Ngày cập nhật: 20/7/2006

Với chức năng nhiệm vụ tuyên truyền các chính sách, các thông tin kỹ thuật liên quan cho nông ngư dân tham gia trong lĩnh vực sản xuất thủy sản, trong những năm qua Trung tâm Khuyến ngư (TTKN) đã tích cực xây dựng các mô hình nuôi trồng thủy sản (NTTS) nước mặn, lợ, ngọt có hiệu quả. Từ đó, TTKN xây dựng các quy trình kỹ thuật để phổ biến cho bà con nhân rộng các mô hình nuôi vẹm xanh, ốc hương, ếch, cá mú thương phẩm, cá rô phi đơn tính...

Từ nguồn giống mua ở cơ sở sản xuất giống của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III Nha Trang (thuộc Bộ Thủy sản), TTKN đã triển khai thực hiện 2 mô hình đầu tiên về nuôi ốc hương ở vùng biển thôn Từ Nham, xã Xuân Thịnh, huyện Sông Cầu. Kết quả sau 4 tháng nuôi, cả 2 mô hình này đều đạt hiệu quả kinh tế cao. Ông Mai Văn Sắc, một ngư dân ở Từ Nham tham gia mô hình nuôi ốc hương cho biết “Nhờ TTKN trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật nuôi, xử lý môi trường... nên ốc sinh trưởng và phát triển nhanh, tỷ lệ hao hụt thấp. Ốc hương thương phẩm tiêu thụ được giá, bình quân từ 120.000đ – 160.000đ/kg, do vậy tôi thu lãi trên 38 triệu đồng”. Hiện nay, đã có trên 20 hộ đầu tư nuôi ốc hương ở khu vực này và có gần 20 hộ thả nuôi ở khu vực Vũng Rô.

Tuy nhiên, ốc hương chỉ thích nghi môi trường nước mặn, nền đáy cát, khu vực nuôi kín gió, vì thế khu vực nuôi được ốc hương ở ven biển Phú Yên không nhiều. Mô hình nuôi cá mú thương phẩm bằng bè được triển khai cho hộ ông Nguyễn Văn Ý, tại xã Xuân Thịnh, huyện Sông Cầu. Qui mô lồng bè nuôi là 40m3, với số lượng giống là 2.000 con, cỡ giống 150gr/con, nguồn giống tự nhiên. Qua thời gian 7 tháng nuôi, mô hình này đạt hiệu quả kinh tế, thu lãi 31.500.000đ. Điểm hạn chế trong phát triển nuôi cá mú là còn sử dụng thức ăn tự chế biến và cá tươi, chưa có thức ăn công nghiệp thay thế, do đó nếu nuôi tập trung, mật độ lồng dày sẽ dễ làm ô nhiễm môi trường vùng nuôi khó kiểm soát. Đây là đối tượng nuôi yêu cầu đầu tư vốn lớn, cho nên chỉ có những người có khả năng tiềm lực về kinh tế mới đủ điều kiện phát triển nuôi. Nhìn chung các mô hình nuôi thủy sản nước mặn mang lại hiệu quả kinh tế cao đem lại lợi nhuận 37 – 106% so với tổng vốn đầu tư.

Đối với nước lợ, mô hình nuôi vẹm xanh vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa còn có tác dụng cải tạo môi trường xung quanh. Ông Nguyễn Tư Ly ở xã An Hải, huyện Tuy An cho biết: Từ nguồn giống tự nhiên khoảng 27.000con (cỡ giống: 100con/kg) do TTKN mua ở đầm Nha Phu, xã Ninh Ích, huyện Ninh Hòa, tôi thả nuôi trên 90 cọc gỗ/160m2 trong thời gian 6 tháng thu lãi được 7.822.500đồng. Mô hình đạt hiệu quả kinh tế là nhờ tuân thủ kỹ thuật nuôi và chọn vùng nuôi thích hợp đặc điểm sinh học của vẹm. Đây là đối tượng dễ nuôi, chi phí vốn đầu tư ban đầu thấp, phù hợp với điều kiện các hộ nghèo sống ven đầm vịnh. Đến nay các Phòng Kinh tế Tuy An, Sông Cầu đã hỗ trợ cho dân thả nuôi hơn 4.000kg giống tại đầm ÔLoan, Vịnh Xuân Đài, Đầm Cù Mông. Mô hình nuôi cá rô phi dòng GIFT được thực hiện trên ao nuôi tôm sú thương phẩm sau nhiều năm thua lỗ do dịch bệnh thôn Hòa Hội, xã Xuân Cảnh (Sông Cầu), với thời gian nuôi hơn 7 tháng. Qui mô thả trên diện tích 3.500m2, số lượng giống 12.500con cỡ 2 – 3cm. Kết quả thu hoạch 3.000kg cỡ cá trung bình 320gr/con, lãi 13.725.000đ. Thông qua mô hình này có thể khẳng định có cá rô phi đơn tính phát triển được trong môi trường nước lợ, mặn. Đến nay một số hộ nuôi trong tỉnh đã áp dụng hình thức nuôi ghép tôm sú – cá rô phi nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Có thể áp dụng mô hình này với hình thức nuôi 1 vụ tôm 1 vụ cá với mật độ thưa nhằm giảm bớt lượng chất thải hữu cơ do hoạt động nuôi tôm gây ra.

Đối với nước ngọt, các mô hình nuôi thử nghiệm cá chim trắng, cá rô phi dòng gift, cá chình trong ao đất không đạt hiệu quả. Nguyên nhân do kỹ thuật nuôi, môi trường, mùa vụ… chưa phù hợp. Riêng mô hình cá lóc bông đạt hiệu quả cao, lợi nhuận gần bằng 50% trên tổng vốn lưu động. Hộ ông Nguyễn Công Chánh ở thị trấn Củng Sơn, huyện Phú Hòa làm chủ mô hình này, với qui mô thả trên diện tích 2.000m2, trong thời gian 5 tháng đạt sản lượng 2.800kg, lãi 23.340.800đ. Tuy nhiên do vốn đầu tư lớn, đầu ra cho sản phẩm còn khó khăn nên hiện nay người nuôi chưa mạnh dạn đầu tư nhân rộng. Hiện nay nhiều bà con ở vùng đồng bằng, vùng sâu, vùng xa đã biết tận dụng các thủy vực, đào ao, hồ nuôi cá. Nhiều hộ ở Xuân Phước – Đồng Xuân, Sơn Thành – Tây Hòa, mô hình nuôi cá – lúa ở Phú Hòa phát triển tốt, có thu nhập khá

Đối với mô hình khuyến ngư hỗ trợ người nghèo, TTKN thực hiện mô hình nuôi cá lóc lai đen trong ao đất cho 3 hộ tại các huyện Đồng Xuân, Phú Hòa, Sông Hinh với tổng diện tích 900m2. Kết quả thu hoạch 3.350kg cỡ 400 – 600gr/con, lãi 28.135.600đ. Đây là mô hình nuôi có vốn đầu tư lớn, tuy nhiên nhờ có sự hỗ trợ vốn thực hiện chương trình cao hơn so với các mô hình khuyến ngư khác (mức hỗ trợ: 100% tiền giống, 50% tiền thức ăn và 50% thuốc và hóa chất phòng trị bệnh), nên hiệu quả kinh tế mang lại tương đối cao.

Từ những kết quả đạt được, từ năm 2007 – 2010, TTKN sẽ thực hiện các mô hình nuôi tôm hùm lồng kết hợp với vẹm xanh, rong rụn nhằm làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường; nuôi cá mú sử dụng thức ăn công nghiệp, thức ăn chế biến; nuôi cá hồng, cá giò; nuôi cua xanh thương phẩm; nuôi tôm sú kết hợp với vẹm xanh, cá rô phi, rong câu chỉ vàng; nuôi thủy sản nước ngọt; nuôi cá lóc lai đen, cá lóc bông; nuôi cá thác lác; nuôi cá ba ba; nuôi cá bống tượng. Đồng thời tiếp tục xây dựng nhiều mô hình phục vụ người nghèo; xây dựng các trạm quan trắc môi trường và chẩn đoán bệnh tại các vùng NTTS trọng điểm giúp người nuôi hạn chế dịch bệnh và ổn định sản xuất.

CHẾ BÁ HÙNG - Giám đốc TTKN Phú Yên

 


Đối mặt khó khăn khi giá cá tra, basa liên tục giảm

Nguồn tin: VNECONOMY, 19/07/2006
Ngày cập nhật: 20/7/2006

 


Thông tin tiếp vụ giá cá tra, cá basa ĐBSCL sụt giảm bất thường: Doanh nghiệp chỉ ký hợp đồng “chơi” với nông dân?

Nguồn tin: SGGP, 20/07/2006
Ngày cập nhật: 20/7/2006

 


Nuôi tôm thắng lợi nhờ tính cộng đồng cao

Nguồn tin: BĐ, 18/7/2006
Ngày cập nhật: 19/7/2006

Dự án nuôi tôm công nghiệp Công Lương (Hoài Mỹ - Hoài Nhơn) là dự án chuyển đổi đất nhiễm mặn trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi tôm, được đưa vào hoạt động từ cuối năm 2003. Nhìn chung, trong những năm qua, sản xuất của vùng dự án đã đạt hiệu quả đáng kể. Trong đó, có phần đóng góp của chi hội nuôi tôm ở địa phương.

Chi hội nuôi tôm Công Lương được UBND xã Hoài Mỹ quyết định thành lập từ năm 2004. Hội viên là các hộ nuôi tôm trong vùng dự án. Chi hội trưởng do một thành viên có uy tín đảm nhiệm, Ban chấp hành chi hội đề ra quy chế hoạt động và được 100% hội viên thống nhất thông qua.

Rút kinh nghiệm qua nuôi tôm các năm trước, năm 2006, các hội viên chi hội thống nhất sản xuất một vụ chính nuôi tôm sú và vụ phụ nuôi các đối tượng thủy sản khác hoặc không nuôi (cho ao có thời gian nghỉ). Trong suốt vụ nuôi tôm, tổ kỹ thuật của chi hội luôn kịp thời nắm bắt và thông báo tình hình diễn biến thời tiết, hướng dẫn cải tạo ao, thông báo kết quả quan trắc môi trường nước vùng nuôi của Chi cục BVNLTS; hướng dẫn kỹ thuật nuôi mới do Trung tâm Khuyến ngư tổ chức tập huấn cho hội viên, tổ chức chọn và kiểm dịch tôm giống… Trong suốt vụ nuôi, các hội viên đã tuân thủ quy trình nuôi tôm công nghiệp, có ý thức giữ gìn môi trường chung của vùng nuôi, khi phát hiện dịch bệnh, hội viên kịp thời báo cho chi hội để được hướng dẫn xử lý, chấp hành việc tiêu hủy khi tôm bị dịch bệnh nguy hiểm, không tùy tiện thải nước ra môi trường chung mà chưa xử lý… Nhờ đó, kết quả vụ I năm 2006 rất khả quan. Với tổng số ao nuôi 43, diện tích ao nuôi phổ biến 3.500m2/ao, năng suất bình quân 4,5 tấn/ha/vụ, năng suất ao đạt cao nhất 6,5 tấn/ha/vụ, sản lượng tôm sú nguyên liệu khoảng 100 tấn, kích cỡ tôm thu hoạch bình quân 55 con/kg. Có 42 ao nuôi nuôi đạt và có lợi nhuận (98%), ao đạt lợi nhuận cao nhất 90 triệu đồng/ao/vụ, lợi nhuận cả vùng dự án khoảng trên 2 tỉ đồng.

Như vậy, có thể khẳng định kết quả nuôi tôm của vùng dự án Công Lương đạt năng suất ổn định là nhờ 2 yếu tố cơ bản: được Nhà nước đầu tư đồng bộ các công trình hạ tầng dùng chung và hoạt động nuôi tôm của bà con trong vùng mang tính cộng đồng cao.

Trần Quang Nhựt

 


Phản hồi bài “Giá cá tra, cá basa ĐBSCL sụt giảm bất thường”: Có dấu hiệu doanh nghiệp thao túng thị trường

Nguồn tin: SGGP, 19/07/2006
Ngày cập nhật: 19/7/2006

 


Cờ Đỏ hứa hẹn một mùa tôm bội thu

Nguồn tin: BCT, 18/7/2006
Ngày cập nhật: 19/7/2006


Cá tra tiếp tục rớt giá, khó tiêu thụ

Nguồn tin: TT, 18/07/2006
Ngày cập nhật: 18/7/2006

Người nuôi cá tra, cá basa tại ĐBSCL đang điêu đứng do giá cá giảm mạnh. Tại khu vực Châu Đốc, An Giang, giá cá tra nuôi bè hiện chỉ còn khoảng 10.000 đồng/kg, giảm 4.000 đồng/kg so với cuối tháng năm; cá tra nuôi bè cũng giảm 4.000-4.5000 đồng/kg, chỉ còn khoảng 10.500 đồng/kg.

Tại khu vực Thốt Nốt, Cần Thơ, nơi có cá tra nuôi hầm thịt trắng có chất lượng tốt nhất khu vực ĐBSCL, giá cũng chỉ còn 11.500 đồng/kg. Ông Phạm Thanh Điền, một người nuôi cá bè ở An Phú (An Giang), bức xúc cho biết có hộ kêu bán cá từ nửa tháng nay nhưng chẳng thấy doanh nghiệp đến mua. Theo ông Điền, giá cá nguyên liệu đã giảm dưới giá thành.

H.ĐĂNG

 


Phối hợp kiểm tra bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Cần thiết, nhưng chưa đủ

Nguồn tin: SGGP, 14/07/2006
Ngày cập nhật: 18/7/2006

Lần thứ 5, lực lượng bảo vệ nguồn lợi thủy sản (BVNLTS) các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An, Tiền Giang, Bến Tre và TPHCM phối hợp kiểm tra việc sử dụng chất nổ, xung điện, chất độc hại để khai thác thủy sản; đồng thời tăng cường công tác quản lý tàu cá, thực hiện nghiêm quy định về BVNLTS, giảm vi phạm vùng giáp ranh và hạn chế khai thác quá mức vùng ven bờ.

Ông Trần Đình Vĩnh, Chi cục Phó Chi cục BVNLTS TPHCM, cho rằng nguồn lợi thủy sản đang bị cạn kiệt - nhất là vùng gần bờ - vì nhiều nguyên nhân, trong đó đáng chú ý là việc lạm sát thủy sản bằng xung điện, chất nổ, chất độc làm cho sinh vật chết hàng loạt.

Vì vậy, việc phối hợp giữa các địa phương trong khu vực để liên kiểm là điều quan trọng. Nếu chỉ kiểm tra theo từng địa phương sẽ bị hạn chế, kém hiệu quả. Bộ Thủy sản nên chia các tỉnh thành từng cụm để phối hợp quản lý và cùng kiểm soát, kiểm tra.

Theo Phó Chánh Thanh tra Cục Khai thác và BVNLTS Trần Anh Tuấn, ngoài việc mỗi địa phương thường xuyên kiểm tra địa bàn, thì việc phối hợp kiểm tra sẽ tập trung được sức mạnh chung của các tỉnh, thống nhất các biện pháp, và đây cũng là dịp trao đổi kinh nghiệm trong việc phối hợp. Nhưng nếu chỉ có phương tiện lớn - tàu 500 mã lực chạy sông lớn - cũng chưa ổn, vì những con sông nhỏ chằng chịt khắp vùng cần phải có phương tiện nhỏ, cơ động hơn.

Qua đó cũng cho thấy nếu chỉ là sự phối hợp đơn thuần giữa ngành thủy sản các tỉnh, kể cả với công an và bộ đội biên phòng dù là cần thiết, nhưng chưa đủ để làm giảm hẳn tình trạng vi phạm. Các đối tượng vi phạm chủ yếu là dân nghèo. Việc sử dụng kích điện và lưới có kích thước mắt lưới nhỏ hơn quy định còn khá phổ biến và dù biết việc sử dụng các thiết bị này là vi phạm pháp luật, nhưng do nghèo, chưa có điều kiện để chuyển đổi nghề nghiệp nên nhiều người vẫn cố tình sử dụng các công cụ cấm để lạm sát nguồn lợi thủy sản.

Công an huyện Cần Đước tỉnh Long An cho rằng việc phối hợp kiểm tra từng đợt giúp cảnh báo người dân, nâng ý thức tôn trọng pháp luật. Nhưng cấp có trách nhiệm vẫn là địa phương, nơi nắm rõ địa bàn và biết hộ nào, ở đâu, bao nhiêu người sống bằng nghề sông nước, từ đó phân loại để có biện pháp xử lý một cách kiên quyết, cũng như có chính sách giúp các hộ nghèo chuyển đổi nghề. Nếu vì xét hoàn cảnh nghèo mà không kiên quyết xử lý sẽ không thể giải quyết tận gốc vấn đề.

ĐÔNG PHONG

 


Giá cá tra, ba sa ĐBSCL sụt giảm bất thường: Doanh nghiệp “bẻ kèo”, nông dân điêu đứng!

Nguồn tin: SGGP, 18/07/2006
Ngày cập nhật: 18/7/2006

 


Khi ốc bưu vàng xuất khẩu

Nguồn tin: BCT, 18/7/2006
Ngày cập nhật: 18/7/2006

Mùa nuôi tôm càng xanh trên đồng ruộng bắt đầu, người dân nghèo ở các huyện có nhiều diện tích nuôi tôm của TP Cần Thơ cũng vào “mùa” bắt ốc bươu vàng (OBV) bán làm thức ăn cho tôm. Nhu cầu tiêu thụ tại địa phương và xuất khẩu OBV đã góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hàng trăm gia đình nghèo...

TP Cần Thơ hiện có gần 500 ha nuôi tôm càng xanh trên đồng ruộng. So với cùng kỳ năm trước, diện tích nuôi tôm trên đồng ruộng tăng gần 20%. Theo đánh giá của ngành thủy sản TP Cần Thơ, tôm càng xanh đang phát triển rất tốt và nguồn thức ăn chính trong giai đoạn này là OBV. Do đó, ở các huyện Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ, ngày càng có nhiều người bắt OBV bán cho các chủ nuôi tôm.

Không những các chủ nuôi tôm càng xanh thu mua OBV mà trên địa bàn các huyện Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ cũng có nhiều cơ sở thu mua để luộc, lể lấy thịt chuyển về TP Hồ Chí Minh xuất khẩu. Hàng ngày, những cơ sở này tiêu thụ

Hàng năm, vào mùa nuôi tôm, OBV là nguồn thức ăn không thể thiếu được cho tôm. Vì ốc cung cấp lượng đạm khá cao và có thể thay thế trên 50% lượng thức ăn công nghiệp. Người nuôi tôm được lợi do OBV có giá rất thấp so với thức ăn công nghiệp. Ở các cơ sở chế biến OBV xuất khẩu cũng thu mua ốc với giá tương đối cao.

HÀ VĂN

 


An Giang: Phát triển thủy sản vùng cù lao

Nguồn tin: AG, 14/7/2006
Ngày cập nhật: 16/7/2006

Huyện cù lao Chợ Mới nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, có nguồn nước dồi dào, đất đai màu mở, có hệ thống sông ngòi chằng chịt bao quanh nhiều kênh rạch, đường sông dài 117km; trong đó sông Hậu 38km, sông Tiền 48km, sông Ông Chưởng 23km và rạch Lấp Vò 8km. Diện tích đất tự nhiện 36.929 ha, trong đó diện tích đất cồn bãi chiếm 400 ha với nguồn thủy sản phong phú, đa dạng. Ngoài ra, huyện cũng xây dựng nhiều công trình thủy lợi phục vụ nuôi trông thủy sản tập trung như: đào kênh tiêu kết hợp lộ giao thông, hệ thống xử lý nước thải… tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành nuôi trồng thủy sản.

Tính đến nay, huyện Chợ Mới có 136,06 ha nuôi thủy sản với 1.527 hộ nuôi, trong đó nuôi cá ao hầm 119,4 ha, đăng quầng 11,4 ha, nuôi ruộng 3,5 ha, nuôi vèo 0,06 ha, diện tích ươm giống 1,7 ha và 149 bè nuôi cá. Các xã có diện tích nuôi cao là: Kiến An, Mỹ Hội Đông, Nhơn Mỹ, Bình Phước Xuân, Hòa Bình, Hòa An, Tấn Mỹ. Chỉ tính riêng năm 2005, Chợ Mới có 1.680 hộ nuôi thủy sản, với diện tích 165,6 ha (tăng 48 ha so cùng kỳ), trong đó nuôi ao hầm chiếm nhiều nhất: Cá tra 107,2 ha, cá lóc 2,4 ha, tôm 0,7 ha, rô phi và điêu hồng 18,9 ha, các loại khác 10,9 ha; kế đến là nuôi đăng quầng 13,5 ha; nuôi ruộng 5,2 ha. Đặc biệt, có đến 184 bè nuôi cá, trong đó cá tra 38 bè, cá rô phi và điêu hồng 62 bè, các loại khác 75 bè với thể tích nuôi 32.202m3. Từ đó, góp phần tạo ra sản lượng đạt 9.453 tấn, cao hơn 2.698 tấn so cùng kỳ. Đồng thời, góp phần đưa giá trị sản xuất ngành thủy sản huyện cù lao Chợ Mới đạt 143 tỷ đồng, tăng 9 tỷ đồng so cùng kỳ năm trước và chiếm 7% tổng giá trị sản xuất nông-lâm-thủy sản.

Theo nhận định của ngành chức năng, mặc dù tình hình thủy sản nói chung nhất là nghề nuôi cá tra nói riêng vẫn còn không ít khó khăn, thế nhưng khả năng phát triển và tăng quy mô trong thời gian tới vẫn còn rất lớn. Bà Trần Thị Yến Châu, Phó Chủ tịch UBND huyện Chợ Mới cho biết: Từ nay đến năm 2010, huyện Chợ Mới sẽ phát triển tăng diện tích nuôi thủy sản lên 214 ha, sản lượng đạt 15.185 tấn. Đến năm 2020, tăng diện tích nuôi lên 443,5 ha; trong đó có 426 ha nuôi ao, 82 bè, với sản lượng đạt 28.924 tấn. Các vùng chính phát triển mô hình nuôi ao, bãi bồi là: Long Giang, Nhơn Mỹ, Kiến An, Hòa Bình, Hòa An, Bình Phước Xuân, Mỹ An, Tấn Mỹ. Riêng mô hình nuôi đăng quầng không phát triển vì ảnh hưởng tới môi trường. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá tra, ba sa, rô phi, cá lóc, tôm càng xanh và một số loại thủy sản khác như: cá he, mè vinh, cá rô đồng… Huyện kết hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ hướng dẫn ngư dân kỹ thuật nuôi, xây dựng vùng đúng tiêu chuẩn, phù hợp điều kiện tự nhiên. Đồng thời, lựa chọn loại hình nuôi, hình thức nuôi (thâm canh hoặc bán thâm canh) thích hợp nhằm phát huy tối đa lợi thế và hạn chế thấp nhất những rủi ro.

HẠNH CHÂU


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang