• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Bảo tồn Ốc Gạo đồng bằng

Nguồn tin: Tien Giang, 29/06/2006
Ngày cập nhật: 30/6/2006

Ốc gạo có rất nhiều từ trước và sau giải phóng ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Những vùng ốc gạo nổi tiếng thời đó như Tân Phong (Tiền Giang), Vĩnh Bình (Bến Tre), Sa Đéc (Đồng Tháp), Tân Châu (An Giang). Nhưng nguồn ốc gạo dần cạn kiệt vì không có sự quản lý hiệu quả trước sự khai thác tự do của nguời dân. Ốc gạo dần biến mất, nhiều nơi con ốc gạo trở thành hồi ức. Vài năm gần đây, có nơi ốc gạo đã xuất hiện trở lại, được quan tâm bảo vệ hợp lý, nguồn thủy sản này bên cạnh phát triển nhanh đã về giá trị kinh tế cho người dân. Đây cũng là một bài học để những nơi khác áp dụng nhằm giữ lấy nguồn tài nguyên thiên nhiên ốc gạo đem về giá trị kinh tế bền lâu.

Một thời Ốc Gạo

Nhắc đến ốc gạo ở cồn Phú Đa (xã Vĩnh Bình huyện Chợ Lách) hồi mới sau giải phóng anh Trần Văn Tặng, một người dân sinh sống lâu năm ở đây hào hứng kể: Ốc nhiều lạnh lùng! Đến mùa thu hoạch có cả trăm tấn ốc gạo được bắt lên từ khu ốc gạo Phú Đa. Một người một con nước có thể cào 5 -7 dạ ốc gạo như chơi. Một kg ốc gạo gia đình tôi bắt về khi đem bán sẽ có tiền mua được 3 kg gạo. Sau giải phóng, năm 1978 -1979, nguồn ốc gạo ở cồn Phú Đa do xã Vĩnh Bình quản lý và hợp tác với người dân khai thác. Hình thức khai thác ăn chia được thoả thuận: xã lấy 7 phần, người dân cào ốc được chia 3; sau xã lấy 6, người dân được chia 4. Tiền bán ốc gạo khi đó xã Vĩnh Bình có thêm kinh phí cất trường học cấp II, sữa chữa các ngôi trường khác của xã, gây qũy làm từ thiện... Do nguồn ốc gạo quá nhiều, và chưa có cách quản lý chặt chẽ, người dân tự ý, lén lút khai thác ốc gạo để bán hưởng trọn. Với vẻ hối tiếc, anh Tặng kể tiếp: Hàng chục ghe cào bới tới, bới lui ở một khúc sông chỉ vài km thì còn gì. Chẳng những cào bình thường, người ta còn cào điện nên số ốc không vào lưới còn lại cũng không sống nổi. Với cách khai thác kiểu tàn sát sinh linh mà không quan tâm đến bảo tồn đã làm cho ốc gạo cồn Phú Đa ngày cạn kiệt và biến mất.

Cồn Tân Phong (xã Tân Phong huyện Cai Lậy) cũng là nơi ốc gạo đã một thời gieo vào ký ức người dân nơi này. Lối năm 1965, ốc gạo vùng Tân Phong có dày đặc. Theo lời kể của những người sống lâu năm ở đây thì ốc cồn Tân Phong nhiều như lúa lúc mới sạ trên ruộng. Người dân chỉ cần lặn xuống sông dùng tay đùa gom ốc lại rồi hốt đem lên. Ốc gạo nơi đây sống dọc theo nhánh sông Cửu Long thuộc cồn Tân Phong đổ dài cho đến cồn Thới Lộc (xã Sơn Định huyện Chợ Lách) và nhánh sông Cái Bè với chiều dài khoảng 9 km. Chính quyền chế độ cũ lúc này khai thác ốc gạo thông qua cách đấu giá với những người nhà giàu mua từng khoảng để khai thác. Những người nhà giàu này khi mua ốc người ta gọi là chủ gọ. Chủ gọ ốc cứ vào dịp trước và sau mùng 5 tháng 5 âm lịch trở đi bắt đầu mướn dân khai thác ốc gạo để bán. Điều đặc biệt ở cồn Tân Phong lúc này là vào ngày 5/5 tất cả các nhà dân ở đây đều mua ốc gạo về ăn như một tập tục. Vì bỏ tiền ra mua tài nguyên nên người chủ gọ muốn khai thác triệt để để kiếm nhiều tiền. Khi thời điểm tháng 7 - 8 âm lịch, ốc gạo chui sâu xuống đất chuẩn bị sinh sản người dân lại dùng cào răng sâu hơn để bươi lên bắt cho bằng được. Họ bắt theo kiểu tận diệt mà không bảo tồn nên ốc gạo Tân Phong cũng biến mất sau vài năm. Năm 1978 và năm 1995 ốc gạo Tân Phong xuất hiện trở lại. Nhưng rồi trước sự quản lý lỏng lẻo của địa phương, người dân khắp nơi lại ào ạt kéo nhau cào bắt. Và ốc gạo Tân Phong sau mấy lần hồi sinh lại chết nonnnn vì bị khai thác tận diệt. Ông Kiều Mạnh Quân, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Tân Phong nói: Hơn 10 năm nay ốc gạo không còn xuất hiện ở Tân Phong. Hồi trước sông bình lặng ốc mới ở chứ bây giờ trên tuyến sông nơi cồn có 9 10 sáng cạp khai thác cát thì còn đâu khoảng lặng để chúng ở và sinh sống.

Bảo tồn Ốc Gạo

Gần 20 năm trôi qua, đến năm 2003, ốc gạo xuất hiện trở lại ở cồn Phú Đa. Nhận thấy đây là nguồn tài nguyên thủy sản do thiên nhiên ban tặng mà không phải nơi nào cũng có nên lãnh đạo huyện Chợ Lách đã chỉ đạo xã Vĩnh Bình tìm cách bảo tồn nguồn ốc gạo, không để mất đi vì những nguyên nhân như trước đây. Ngày 10/10/2004, Hợp tác xã (HTX) thủy sản Vĩnh Tiến được thành lập, với mục đích kêu gọi nhân dân trong xã cùng góp vốn để tổ chức quản lý và khai thác hiệu quả nguồn lợi ốc gạo. Anh Nguyễn Văn Hưng, Chủ nhiệm HTX Vĩnh Tiến cho biết: Kề từ khi HTX ra đời đến nay ý thức của người dân trong việc bảo tồn nguồn ốc gạo được nâng lên. Khu ốc gạo 180 ha của HTX được bảo vệ nghiêm ngặt và khai thác hợp lý nên lượng ốc phát triển rất nhiều. Qua theo dõi của chúng tôi nếu như khi mới phát hiện nguồn ốc gạo có lại, mỗi chuyến cào đoạn 200m chỉ được 2-3 lít ốc gạo thì thời điểm hiện tại cào được đến 20-30 kg ốc gạo. Lượng ốc gạo giờ đã khá dày dưới sông. Năm 2005, HTX khai thác được 3 tấn ốc gạo, giá bán mỗi kg 15.000 đồng. Nguồn lợi ốc gạo ở Phú Đa đã đem về lợi ích cho người dân nên số người tham gia hợp tác xã đã tăng lên đáng kể. Mới đầu hợp tác xã có 30 xã viên, nhưng đến nay đã tăng lên 120 xã viên. Nhiều người tham gia HTX thì khu ốc gạo có thêm người gìn giữ và ngày càng phát triển.

Theo đánh giá của Viện Hải dương học Nha Trang, trữ lượng tiềm năng hiện nay của khu ốc gạo Phú Đa có thể đạt 53 tấn và khả năng khai thác trung bình từ 24 - 34 tấn/năm. Tuy nhiên, để bảo tồn khu ốc gạo, nên khai thác ở mức từ 10 - 15 tấn/năm. Ốc gạo sinh trưởng rất nhanh, sinh sản tập trung từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Vào khoảng tháng 5 âm lịch, người ta bắt đầu thu hoạch ốc gạo cho đến tháng 9. Tuy nhiên, loài ốc này có mật số sinh sản thấp, thường 1 con ốc gạo trưởng thành chỉ đẻ từ 49 - 72 cá thể/năm. Do đó, nếu khai thác tối đa, ốc gạo sẽ tái sinh kém và có nguy cơ cạn kiệt. Tình trạng này đã từng xảy ra ở khu ốc gạo Phú Đa và nhiều nơi khác. Ông Lê Phước Toàn, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Chợ Lách cho biết: Ốc gạo là đặc sản của huyện Chợ Lách, là nguồn lợi kinh tế rất lớn, có tiềm năng phát triển du lịch, xóa đói giảm nghèo. Về phía huyện chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ xã Vĩnh Bình trong việc triển khai qui hoạch bảo tồn khu ốc gạo trong thời gian sớm nhất. Nếu làm tốt điều này, khu ốc gạo Phú Đa sẽ thật sự mang lại lợi ích kinh tế cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, đồng thời là nơi lý tưởng để phát triển du lịch sinh thái miệt vườn.

Tỉnh Tiền Giang vừa quyết định phê duyệt chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng 2020, trong đó có nguồn lợi thủy sản ốc gạo. Ông Kiều Mạnh Quân cho biết: Chúng tôi đang đề nghị với lãnh đạo huyện Cai Lậy hoạch định lại khu vực ốc gạo ở cồn Tân Phong để quản lý, tạo sinh thái tốt cho ốc gạo sinh sống. Nếu được chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát xem ốc gạo có còn ở đây không, nếu không còn chúng tôi sẽ mua ốc về thả để tạo nguồn giống phát triển nguồn tài nguyên ốc gạo vốn là truyền thống của Tân Phong.

Cao Dương

 


Nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở Đức Linh-Tánh Linh: Thực trạng và giải pháp phát triển

Nguồn tin: BT, 26/06/2006
Ngày cập nhật: 30/6/2006

THỰC TRẠNG

Đây là hai huyện có nhiều đặc điểm điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của nhiều giống loài thủy sản nước ngọt. Nguồn nước ngọt khá dồi dào với lượng mưa trung bình hàng năm 1.800-2.000mm, ngoài ra còn có sông La Ngà chảy qua với lưu lượng bình quân 648.000m3/ngày. Đây cũng là 2 huyện có nguồn nguyên liệu thức ăn dồi dào cung cấp cho các hoạt động nuôi thủy sản, chủ yếu từ các phụ phẩm nông nghiệp như: cám, mì, bắp… chính từ tiềm năng của 2 huyện mà từ tháng 5/2002, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 63/2002/ QĐ-UBBT phê duyệt quy hoạch phát triển nuôi thủy sản nước ngọt toàn tỉnh đến năm 2010 với tổng diện tích là 7.980 ha, trong đó Đức Linh 2.236 ha, Tánh Linh 2.163 ha chiếm tới 55% toàn tỉnh. Từ những thuận lợi về tiềm năng sẵn có, được các cấp, các ngành ở địa phương tạo điều kiện, được Trung tâm Khuyến ngư Bình Thuận hỗ trợ cho bà con phát triển nuôi thủy sản… diện tích nuôi thủy sản nước ngọt tại 2 huyện Đức Linh và Tánh Linh liên tục tăng nhanh, nếu năm 2000 diện tích nuôi thủy sản nước ngọt huyện Đức Linh là 143 ha, Tánh Linh 100 ha, thì đến năm 2005 diện tích nuôi đã tăng lên đến 646 ha huyện Đức Linh và 120 ha ở huyện Tánh Linh.

Với các đối tượng nuôi chính là các loài cá truyền thống như cá trắm, trôi, mè, chép… và một số đối tượng nuôi mới có hiệu quả kinh tế cao như: rô đồng, rô phi đơn tính dòng Gift, cá lóc, bống tượng, chình… đưa tổng sản lượng thủy sản nước ngọt năm 2005 ở vùng này lên 2.315 tấn (trong đó Đức Linh 1.718 tấn và Tánh Linh 697 tấn), tăng so với năm 2000 là 1.119 tấn.

CÁC GIẢI PHÁP

Để khai thác có hiệu quả việc phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất, mặt nước canh tác. Phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa gắn chặt với nhu cầu thị trường, chế biến xuất khẩu và bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống dịch bệnh, bảo đảm sản xuất và ổn định đời sống nhân dân. Chúng tôi nghĩ cần tập trung một số giải pháp như sớm triển khai thực hiện nội dung quy hoạch tổng thể phát triển vùng nuôi thủy sản nước ngọt Bình Thuận đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, đặc biệt là quy hoạch hệ thống thủy lợi cấp nước cho nuôi trồng thủy sản nước ngọt trên địa bàn hai huyện. Xác định vùng nuôi thủy sản tập trung, nuôi các đối tượng có giá trị kinh tế phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương. Thu hút và kêu gọi các nhà đầu tư xây dựng vùng nuôi thủy sản nước ngọt với quy mô lớn, áp dụng quy trình kỹ thuật và đầu tư cơ sở hạ tầng theo công nghệ phù hợp; cần hoàn thiện trạm thực nghiệm sản xuất giống thủy sản nước ngọt Hàm Thuận Bắc, đủ giống bảo đảm chất lượng, giá cả hợp lý cho người nuôi toàn tỉnh. Đẩy nhanh kế hoạch xây dựng hệ thống trại giống thương mại vệ sinh, đặc biệt là tại Đức Linh và Tánh Linh. Tăng cường ứng dụng khoa học và kỹ thuật nuôi sạch. Trước mắt tập trung vào các đối tượng nuôi phù hợp và có đầu ra nhiều triển vọng như cá bống tượng, cá rô phi, diêu hồng, cá rô đồng, chình… Tiếp tục đẩy mạnh công tác khuyến ngư, tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật chọn giống, kỹ thuật nuôi, phương pháp trị bệnh; lấy thị trường xuất khẩu là động lực thúc đẩy phát triển thủy sản bền vững, coi trọng thị trường tiêu thụ trong nước; người nuôi thủy sản cũng rất cần sự hỗ trợ vay đủ vốn cho sản xuất của các ngân hàng tín dụng. Đồng thời bên cạnh các chính sách của nhà nước, Bình Thuận cũng cần có những cơ chế phù hợp nhằm khuyến khích các thành phần tham gia đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản.

ĐÔNG BÌNH


Thả nổi kiểm dịch giống, nuôi trồng thủy sản nguy cơ thiệt hại nặng

Nguồn tin: PY, 29/06/2006
Ngày cập nhật: 30/6/2006

Chỉ tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2006, các cơ sở sản xuất giống thủy sản ở Phú Yên đã sản xuất tôm post với số sản lượng trên 500 triệu con (trong đó tôm sú khoảng 425 triệu, tôm thẻ chân trắng 75 triệu con). Đồng thời hàng chục đơn vị, cơ sở, cá nhân ở các huyện Đông Hòa, TP Tuy Hòa, Tuy An… du nhập và ương nuôi nhiều loại giống thủy sản, nhất là các loại cá nước ngọt.

Có thể nói, hiện nay nguồn giống thủy sản sản xuất và nhập vào trong tỉnh với số lượng lớn, đảm bảo cung ứng cho nhu cầu phát triển nuôi trồng thủy sản ở cả ba vùng nước mặn, lợ, ngọt…

Tuy nhiên, do ngành thủy sản chưa chặt chẽ trong việc quản lý, kiểm dịch, nên các loại giống sản còn kém chất lượng làm ảnh hưởng đến người nuôi. Theo báo cáo của Sở Thủy sản Phú Yên, 6 tháng đầu năm nay, ngành chỉ mới kiểm dịch được 108 triệu con post tôm sú, 41 triệu con tôm thẻ chân trắng, 50.460 con cá mú. Điều này cho thấy số lượng giống thủy sản được kiểm dịch rất thấp, và nhiều loại giống thủy sản khác như cá rô phi đơn tính, ếch, cá lăng, cua, ốc hương… vẫn chưa được quản lý kiểm dịch, xử lý mầm bệnh!

Lợi dụng việc quản lý lỏng lẻo, một số cơ sở du nhập giống tôm kém chất lượng, không sạch bệnh để cung ứng cho người nuôi, hoặc chạy theo lợi nhuận, đã “ép” tôm đẻ nhiều lứa làm cho giống tôm post có sức đề kháng yếu, không đảm bảo tiêu chuẩn thả nuôi. Gần đây, các “đại gia” sản xuất tôm giống trong tỉnh phải vào tận các tỉnh miền Nam như Sóc Trăng, Kiên Giang, Phú Quốc… để mua tôm giống bố mẹ. Song có một thực tế là tôm giống ở vùng biển miền Nam giá rẻ, nhưng phần lớn không đảm bảo chất lượng, lại vận chuyển đường xa, làm cho tôm yếu, tỷ lệ đẻ thưa và tất nhiên tôm post kém hiệu quả. Một số cơ sở lại mua gom các loại cá nước ngọt không rõ nguồn gốc ở nhiều nơi đem về cung ứng cho dân ở nông thôn thả nuôi bị nhiễm bệnh và tỉ lệ hao hụt rất cao…

Giống thủy sản yếu, không kiểm dịch, kém chất lượng, thêm vào đó môi trường ở một số vùng nuôi bị phá vỡ, ô nhiễm đang báo động khả năng xuất hiện dịch bênh và lây lan nhanh, gây thiệt hại về kinh tế cho người nuôi. Đây là vấn đề bức bách đòi hỏi ngành thủy sản Phú Yên và chính quyền các địa phương sớm có biện pháp quản lý, kiểm dịch, xử lý vi phạm… nhằm tạo ra nguồn giống chất lượng, sạch bệnh phục vụ cho phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản trong tỉnh.

TRẦN AI

 


Ngành Thủy sản Ninh Thuận: Sản lượng tôm giống đạt 2.250 triệu con

Nguồn tin: NT, 26/06/2006
Ngày cập nhật: 30/6/2006

Thực hiện tổ chức cơ cấu lại nghề sản xuất tôm giống, hiện nay toàn tỉnh có 514 cơ sở sản xuất tôm giống với 702 trại đang hoạt động (chiếm tỷ lệ 60% số trại hiện có). Tính trong 6 tháng đầu năm nay sản lượng tôn giống toàn tỉnh xuất bán được khoảng 2.250 triệu con, đạt 49% kế hoạch năm, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. Để duy trì chất lượng giống và nguồn tôm bố mẹ, ngành thủy sản đã tăng cường tổ chức kiểm tra chất lượng và thực hiện quản lý điều kiện sản xuất kinh doanh theo nghị định 86/2003/NĐ- CP. Ngoài ra nhằm thực hiện tái tạo nguồn lợi thủy sản, ngành thủy sản đã vận động các cơ sở sản xuất tôm giống trong tỉnh tham gia cùng với nhà nước thả hơn 1 triệu tôm sú giống ra biển Ninh Chữ.

B.T,Báo Ninh Thuận

 


NUÔI HÀU LỒNG – MỘT NGHỀ MỚI Ở VÙNG ĐẤT MŨI

Nguồn tin: PTTHCM, 29/6/2006
Ngày cập nhật: 29/6/2006

Với lợi thế rừng và biển, Đảng bộ xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển đã xác định cơ cấu sản xuất: ngư-lâm nghiệp, dịch vụ và đã không ngừng tìm tòi, thử nghiệm những mô hình mới, tìm được một hướng đi riêng phù hợp với đặc điểm vùng đất ở địa phương. Nghề nuôi hàu lồng ra đời, đang ngày càng thu hút nhiều địa phương tham quan học hỏi kinh nghiệm để mở rộng mô hình.

Ý tưởng nuôi hàu lồng bắt đầu từ việc anh Lê Thanh Liêm – Phó chủ tịch và anh Phan Thanh Trí – Phó công an xã Đất Mũi đi tham quan Công ty sản xuất hàu giống ở thành phố Hồ Chí Minh và cách nuôi hàu lồng ở Long Sơn – Vũng Tàu. Qua tham quan thực tế, các anh nhận thấy: Hàu là loài dể nuôi, không tốn chi phí thức ăn, diện tích mặt nước chiếm ít. Hàu nuôi lồng sống được là nhờ vào quá trình lọc thức ăn thông qua dòng chảy, với lưu lượng nước ở vùng Đất Mũi con hàu có khả năng lớn mạnh, nên quyết tâm về nuôi cho bằng được.

Dự án nuôi hàu được tập thể cán bộ xã thực hiện trước để làm mẫu. Trước hết UBND xã mời Phòng Tài nguyên môi trường và Phòng Giao thông huyện Ngọc Hiển xuống khảo sát lòng sông, môi trường nước. Sau khi được các cơ quan chức năng chấp nhận, anh Phan Thanh Trí – Phó công an xã là người đi tiên phong thực hiện thí điểm, anh cùng 12 người bạn góp vốn đóng bè dài 20 mét với 250 lồng, mua trên 100 ngàn con hàu giống để thả thử nghiệm.

Từ kết quả ban đầu, anh Trí nối thêm bè 20 mét cứ vậy đến nay bè nuôi hàu của anh dài 80 mét, số hàu lớn nhỏ gần 20 tấn. Hiện nay, xã Đất Mũi đã phát triển được 4 điểm nuôi hàu lồng do các cán bộ nhân viên trong xã đảm nhận như bè của anh Nguyễn Thành Công đại diện nuôi 100 ngàn con hàu, nuôi được gần 4 tháng, khoảng 9 đến 10 con/kg; bè của anh Lê Thanh Liêm làm đại diện thả nuôi 160 ngàn con, sau 2 tháng rưỡi nuôi đã phát triển tốt, đạt khoảng 30 đến 35 con/kg. Riêng bè của anh Trí làm đại diện đã thu hoạch gần 6 tấn, khách hàng chủ yếu là người dân địa phương và Nhà hàng Đất Mũi, với giá bán 7 ngàn đồng/kg, anh thu về trên 50 triệu đồng.

Từ mô hình mua bè lồng, xã Đất Mũi phát triển thêm nghề phụ giúp nhiều chị em có thêm thu nhập, đó là nghề làm lồng tròn để nuôi hàu. Ban đầu, anh Phan Thanh Trí làm mẫu, sau đó hướng dẫn chị em trong xã cách làm, mỗi ngày một người có thểm làm khoảng 4, 5 cái, mỗi cái tiền công 10 ngàn đồng, chị em cũng có thêm thu nhập 40 đến 50 ngàn đồng.

Sau khi theo dõi, khảo sát bằng mô hình thực tế của cán cán bộ xã Đất Mũi, các xã lân cận Như Viên An Đông , Tân Ân, Tân Ân Tây đă đặt hàng anh Trí trên 1.500 lồng tròn để chuẩn bị nuôi hàu ở địa phương mình.

Con hàu là đặc sản có mùa vị thơm ngon, giá trị dinh dưỡng cao và được nhiều người ưa chuộng. Hiện tại Khu du lịch Đất Mũi đang là nơi cung cấp, giới thiệu cho du khách đặc sản mới này của địa phương. Từ vùng đất này con hàu có thể phát triển và cho hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, nếu phát triển ra diện rộng thì thị trường tiêu thụ đang là mối bận tâm của người nuôi. Vấn đề này xã Đất Mũi rất cần sự hướng dẫn về chuyên môn của ngành thủy sản và sự tiếp sức từ phía lãnh đạo huyện Ngọc Hiển để tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm, để đặc sản hàu nuôi lồng mang thương hiệu Đất Mũi, Cà Mau được nhiều người trong và ngoài nước tìm mua ./.

BTV : Thanh Vũ


Việc xem lại thuế tôm sẽ kéo dài 18 tháng

Nguồn tin: LĐ, 29.06.2006
Ngày cập nhật: 29/6/2006

 


ĐBSCL: Giá lúa tăng, giá cá tra giảm mạnh

Nguồn tin: SGGP, 29/06/2006
Ngày cập nhật: 29/6/2006

 


Bến Tre thành lập Ban quản lý vùng nuôi nhằm hạn chế dịch bệnh tôm

Nguồn tin: Btre, 28/06/2006
Ngày cập nhật: 29/6/2006

 


Bến Tre: hỗ trợ 30% chi phí tiêu hủy tôm dịch bệnh

Nguồn tin: Btre, 28/06/2006
Ngày cập nhật: 29/6/2006

 


An Giang: Trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản tỉnh được cấp chứng nhận SQF 1000

Nguồn tin: AG, 28/6/2006
Ngày cập nhật: 28/6/2006

Trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang được công ty SGS (Mỹ) cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn SQF 1000 (an toàn chất lượng thực phẩm) đối với các trại và các vệ tinh sản xuất giống cá tra, cá ba sa, mở ra triển vọng mới cho chương trình nuôi các sạch theo tiêu chuẩn SQF để hướng tới phát triển bền vững.

Nhằm đảm bảo phát triển bền vững cho ngành thủy sản, các Công ty "đại gia" đi vào tổ chức mô hình nuôi cá sạch theo tiêu chuẩn SQF 1000. Bắt đầu từ khâu con giống, tỉnh đã chủ trương đầu tư mạnh cho ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào khâu sản xuất con giống thủy sản chất lượng cao cung cấp cho ngư dân. Từ năm 2005 Trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang đã đi vào thực hiện qui trình sản xuất con cá giống "sạch" theo tiêu chuẩn quốc tế SQF 1000, đến tháng 3/2006 Trung tâm được chứng nhận đạt tiêu chuẩn SQF 1000. Chất lượng con giống của Trung tâm được đảm bảo tính vượt trội về tốc độ tăng trưởng, không mang mầm bệnh, không nhiểm các hóa chất và kháng sinh cấm, có thể truy xuất nguồn gốc cá bố mẹ rõ ràng. Trung tâm có khả năng sản xuất và cung cấp cho các liên hiệp sản xuất cá tra "sạch" và các Hội nuôi cá sạch trong tỉnh từ 180 - 200 triệu con cá tra, ba sa bột và 35 - 36 triệu con giống cá tra, ba sa chất lượng cao/năm.

Tố Quyên

 


Bão số 2 (bão Domeng): Đà Nẵng còn trên 3.200 ngư dân trên biển;Quảng Ninh -Khánh Hoà: Tuyệt đối cấm tàu thuyền ra khơi

Nguồn tin: LĐ, 28/6/2006
Ngày cập nhật: 28/6/2006

 


Xuất khẩu thủy sản cả năm 2006: Có thể đạt 2,8 tỷ USD

Nguồn tin: SGGP, 27/6/2006
Ngày cập nhật: 28/6/2006

 


CHỢ THỦY SẢN NAM TRUNG BỘ: Đầu ra cho ngành khai thác và chế biến thủy sản

Nguồn tin: KH, 27/06/2006
Ngày cập nhật: 28/6/2006

 


TP Quy Nhơn: 21 ha rừng ngập mặn vừa trồng đã bị xóa sổ

Nguồn tin: BĐ, 27/6/ 2006
Ngày cập nhật: 28/6/2006

 


Giải pháp toàn diện để phát triển nghề nuôi tôm ở Bến Tre

Nguồn tin: ND, 27/6/2006
Ngày cập nhật: 27/6/2006

Những năm gần đây, tình hình dịch bệnh đã trở thành mối lo ngại của người nuôi tôm cũng như ngành chức năng của tỉnh Bến Tre. Nhiều hộ nuôi tôm đã lâm vào cảnh phá sản, nợ nần chồng chất. Ðã đến lúc Bến Tre cần phải có giải pháp mạnh, đồng bộ để nghề nuôi tôm phát triển bền vững.

Nuôi tôm: người khóc, người cười

Năm 2005, diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh toàn tỉnh Bến Tre là 6.244 ha, nhưng chỉ có 142 ha thiệt hại do tôm bị bệnh chết. Tuy nhiên, vào vụ năm nay số lượng tôm bị bệnh dịch chết lên đến mức đáng báo động: 554 ha trên tổng số 3.739 ha vào thời điểm hiện nay. Tôm bị thiệt hại sớm ở giai đoạn từ 20 đến 45 ngày tuổi, mà nguyên nhân chủ yếu là do bệnh đốm trắng gây ra. Trong đó, huyện Bình Ðại là địa phương bị thiệt hại nặng nhất (467 ha), tập trung nhiều ở hai xã Thạnh Phước (137,2 ha) và Ðại Hòa Lộc (212 ha).

Theo cảm nhận của anh Sáu Rê, Bí thư xã Thạnh Phước, con số tôm thiệt hại của hai xã nêu trên, mỗi xã có đến từ 30 đến 40% số hộ bị thiệt hại đang lâm vào cảnh phá sản, nợ nần, thậm chí ngân hàng còn khoanh nợ, chuẩn bị kê biên định giá tài sản. Vào những ngày này, xuống Bình Ðại mới cảm nhận được hết cảnh buồn tẻ và nỗi lo toan của một làng quê vốn rất sôi động, nhộn nhịp sau mỗi vụ mùa.

Ông Võ Văn Mãnh 65 tuổi ở xã Ðại Hòa Lộc có thể nói là người may mắn trong vụ nuôi này. Qua trao đổi, biết ông có hơn 1 ha đất, làm ruộng từ nhỏ đến lớn mà không thấy có sự đổi đời. Ba năm nay, không làm ruộng nữa, vợ chồng, con cái đào bốn ao nuôi tôm, năm đầu nuôi quảng canh, hai năm rồi nuôi công nghiệp. Ngồi trên bờ, ông chỉ cho chúng tôi xem cái ao khoảng 1.800 m2, năm rồi ông thu được 1,7 tấn, lời 20 triệu đồng, hai ao bên cạnh lớn hơn, trừ chi phí cả ba ao lãi được 95 triệu đồng. Theo ông là thả mật độ thưa, tôm mau lớn, ít bệnh và ít tốn thức ăn, "người ta thả 2.000 m2 mặt nước là một trăm nghìn con, còn tôi chỉ thả 60 nghìn con, ăn ít no lâu". Bên cạnh đó, cũng có không ít người nuôi tôm trắng tay, như ông Nguyễn Văn Ðù ở ấp 6, xã Thạnh Phước, lỗ gần 400 triệu đồng, đã bán hết 4 mẫu đất để trả nợ vay ngân hàng. Chưa hết, ông còn vay nóng bên ngoài 500 triệu đồng, lãi 6%/tháng, hiện tại không còn khả năng trả nợ.

Bà Phạm Thị Dụt ở ấp Bình Thạnh 3 xã Thạnh Trị, có bảy công rưỡi đất, mới lên ao nuôi tôm, vụ đầu thất bại, vụ kế có lời bù lại cho vụ trước, nhưng đến vụ này thì sau hai tháng nuôi, lỗ 40 triệu đồng, đang nợ ngân hàng 30 triệu đồng và vay bên ngoài ba cây vàng. Ông Tám Lùn cũng ở Thạnh Phước, nuôi quảng canh thì giàu, nhưng chuyển sang nuôi công nghiệp thì lỗ, bị ngân hàng phát mãi mấy vuông tôm quảng canh.

Vì sao tôm chết?

Chung quanh câu hỏi vì đâu tôm chết ngày một nhiều? Gặp một số người nuôi đang uống nước ở một quán cạnh đầu đê Ðông nằm trên địa bàn xã Thạnh Phước lại có thêm nhiều chi tiết. Anh Trần Văn Kha, cho biết: "không chết sao được, con trâu cũng chết chứ đừng nói đến con tôm. Lúc đầu thì ít người nuôi, kênh mương còn đủ sức để làm nhiệm vụ cấp và thoát nước, dần về sau nhiều người nuôi, hết đất bên trong thì lấn ra bên ngoài, mà sông rạch lại không tăng thêm. Người này thả nước ra, người kia bơm vào, lâu ngày nguồn nước làm sao mà không bị ô nhiễm, chưa nói tới nhiều người ẩu tả, tôm bị dịch cũng lén xổ ra nguồn nước chung, chứ có chỗ nào đâu mà chứa. Con giống thì trôi nổi, mạnh ai nấy bán, nấy mua. Giống thì có hạn mà người nuôi thì nhiều, tôm bố mẹ hết rồi thì bắt tôm lứa ra ép cho đẻ, rồi đưa nhiều hóa chất vào, thấy vẫn tốt, nhưng nuôi hoài không lớn. Có trạm kiểm dịch cũng như không, đặt ở phà Rạch Miễu, ai đưa mẫu tới thì kiểm, còn chạy luôn thì thôi, nhưng con tôm giống nó đâu chỉ có đi trên đường bộ, mà có cả đường sông và đường biển từ Gò Công qua và từ Trà Vinh sang, tôm đi ban ngày chưa đủ, còn đi cả ban đêm thì đâu có ai kiểm soát nổi".

Như vậy, nguyên nhân trực tiếp gây ra dịch bệnh trên tôm khá rõ ràng và cụ thể. Quy hoạch vùng nuôi chưa thật sự khép kín; hệ thống thủy lợi cho nuôi tôm chưa được đầu tư hoàn chỉnh; kế hoạch thả nuôi chưa đồng bộ; người nuôi còn tùy tiện thả nuôi theo mật độ cao, không tuân thủ việc phân định liều lượng thức ăn theo khuyến cáo của các nhà khoa học, đã gây nên tình trạng tôm bị dịch bệnh và phát tán, lây truyền cao hàng năm. Hơn nữa, lực lượng quản lý kiểm dịch tôm giống trước khi thả nuôi, cũng như đội ngũ cán bộ ngư y của tỉnh này còn quá mỏng, không đủ sức đảm đương nhiệm vụ. Nhưng quan trọng trên hết vẫn là ý thức người nuôi chưa cao: mua giống trôi nổi không qua kiểm dịch, không tuân thủ các khuyến cáo của tỉnh, mà tự ý nuôi thả theo cách riêng của mình, dẫn đến không chỉ gây hại cho cá nhân mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình chung của cả khu vực nuôi. Vấn đề hiện nay là Bến Tre phải có biện pháp khắc phục ngay tình trạng trên một cách hiệu quả nhất, để ngành nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là con tôm sú - một tiềm năng rất lớn của tỉnh phát triển theo hướng bền vững.

Ðâu là giải pháp?

Thực trạng nuôi tôm ở Bến Tre những năm gần đây cho thấy nghề này đã thật sự cuốn hút người nuôi, vì hiệu quả mang lại từ con tôm rất cao. Nhưng theo Sở Thủy sản Bến Tre, tổng diện tích thả nuôi tôm năm 2006 có giảm nhiều so với các năm trước, vì nghề nuôi này càng phát triển thì sự rủi ro lại càng cao và tình hình dịch bệnh trên tôm ngày càng nghiêm trọng hơn, mà chưa có biện pháp khắc phục có hiệu quả cao.

Vấn đề quan tâm nhất hiện nay vẫn là tôm sú nuôi, do có diện tích nuôi lớn, vốn đầu tư cao và hiện đang là mặt hàng chiến lược có giá trị xuất khẩu cao, giúp người nông dân xóa nghèo nhanh, nhưng đồng thời cũng có quá nhiều rủi ro để người nông dân tái nghèo nhanh, nếu vùng nuôi không được quản lý tốt nhằm loại trừ dịch bệnh và hạn chế đến mức thấp nhất các yếu tố gây ô nhiễm môi trường. Cụ thể, trong vụ nuôi năm nay, lợi dụng tình hình UBND tỉnh cho phép thả giống sớm ở các khu vực nuôi tôm quảng canh, tôm rừng ở một số khu vực có độ mặn sớm. Một số hộ nuôi thâm canh, bán thâm canh, tôm lúa ở khu vực Thạnh Phước, Thạnh Trị, Ðịnh Trung, Bình Thới, huyện Bình Ðại đã tự ý nhập giống thả nuôi thâm canh và bán thâm canh trên diện tích 105,72 ha không qua kiểm dịch. Do đó, thiệt hại tôm sau 20 ngày đến ba tháng tuổi chiếm đến 78% diện tích thả nuôi. Nhưng, điều đáng quan ngại nhất vẫn là việc ý thức của người nuôi quá kém, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn vùng. Ðó là, sau khi tôm chết hầu hết người nuôi không xử lý trước khi xả thải ra môi trường, và việc nạo vét bơm bùn đáy ao không đưa vào ao chứa bùn theo quy định của ngành, mà trực tiếp xả thải ra ngoài kênh rạch tự nhiên để chuẩn bị thả nuôi lại... Những hành vi tiêu cực đó đã gây ô nhiễm môi trường và phát tán mầm bệnh lây lan sang những khu vực mới thả tôm chính vụ.

Trao đổi vấn đề này với chúng tôi, Phó Giám đốc Sở Thủy sản Bến Tre, Trần Thị Thu Nga cho biết: Ðúng là thực trạng tôm chết năm nay có tính chất nghiêm trọng hơn, thiệt hại cao hơn so với các năm. Khắc phục tình trạng này, một mặt Sở tăng cường theo dõi, khoanh vùng nhằm ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả tình hình dịch bệnh, không để lây lan ra diện rộng. Ðồng thời theo dõi chặt chẽ việc thả giống, tình hình phát triển tôm nuôi, phối hợp địa phương kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp bơm bùn, xả thải mầm bệnh ra kênh rạch khi chưa được xử lý triệt để. Tăng cường công tác quan trắc và cảnh báo môi trường, tăng tần suất lấy mẫu và chỉ tiêu phân tích, khuyến cáo kịp thời cho người nuôi tình hình diễn biến môi trường, dịch bệnh để có biện pháp xử lý kịp thời. Tăng cường công tác khuyến ngư cùng với các đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền đến với người nuôi các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh nhằm giảm thấp nhất thiệt hại cho người nuôi. Tiếp tục kiểm tra lại các cơ sở chưa đạt yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm. Cùng với các giải pháp trên là đào tạo nhanh cán bộ ngư y nhằm đáp ứng nhu cầu khẩn cấp trước mắt ở cơ sở, chuẩn bị cho chiến lược phát triển lâu dài của ngành nuôi thủy sản, quản lý chất lượng con giống, củng cố và kiện toàn ban quản lý vùng nuôi, nhất là ban quản lý tổ hợp tác không chỉ có chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải có trách nhiệm cao và trung thực cũng phải được coi là công việc thường xuyên. Và, điều cốt lõi hiện nay ở Bến Tre là trung tâm giống vẫn chưa đủ cung cấp cho người nuôi. Vậy thì vẫn còn tình trạng mua giống trôi nổi thì hậu quả nuôi là khó lường.

LÊ QUANG NHUNG

 


Mỹ đã chọn 3 công ty để xem lại mức thuế tôm

Nguồn tin: VNN, 27/06/2006
Ngày cập nhật: 27/6/2006

 


Hôm nay, áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão

Nguồn tin: VNN, 27/06/2006
Ngày cập nhật: 27/6/2006

 


Giai đoạn 2006-2010: Giải pháp nào để hỗ trợ nông ngư dân trước vấn đề an toàn chất lượng thủy sản ?

Nguồn tin: AG, 26/6/2006
Ngày cập nhật: 27/6/2006

Thực tế thị trường trong thời gian qua đã chỉ ra rằng: Kiểm tra chất lượng một sản phẩm tại đầu ra đã không còn phù hợp nữa. Với phương chăm "an toàn cho thực phẩm thủy sản từ ao nuôi tới bàn ăn", ngày nay, một số công ty lớn đã tổ chức mô hình nuôi cá sạch, trong đó, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm được kiểm soát ngay từ đầu quy trình nuôi. Bắt đầu từ khâu chọn giống, đến nguồn nước, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y thủy sản trong phòng ngừa và điều trị bệnh cá v.v… đều được theo dõi và kiểm soát chặt chẽ theo một quy trình quản lý nhất định. Điều này còn cho phép truy nguyên được nguồn gốc nơi sản xuất kèm theo các thông tin liên quan của một lô hàng đang lưu thông trên thị trường mà nhà nhập khẩu yêu cầu.

Trong các năm qua, ngành Nông nghiệp An Giang cũng đã nghiên cứu và ban hành những quy tắc ứng xử dựa trên tiêu chuẩn này – Tiêu chuẩn SQF, nhằm thay đổi những thói quen đã không còn phù hợp với một nền kinh tế đang chuyển động để theo kịp xu thế phát triển chung. Vấn đề đặt ra cho ngành quản lý hiện nay, là làm sao để các văn bản, quy định v.v… thoát ra khỏi khuôn khổ cứng nhắc của nó để phát huy tác dụng vào môi trường thực tế. Nông ngư dân chỉ có thể làm theo được khi có người cầm tay, chỉ việc, có đội ngũ cán bộ chuyên môn giúp theo dõi, kiểm tra thường xuyên các yếu tố về môi trường, chất lượng, tiêu chuẩn an toàn vệ sinh… mà thị trường đòi hỏi. Đằng sau những công việc ấy, họ sẽ là người bảo vệ tốt nhất cho nghề nuôi thủy sản phát triển một cách mạnh mẽ, bởi quyền lợi của họ đã được đảm bảo.

Chúng ta chưa thể yên tâm, khi biết rằng hiện vẫn còn rất nhiều nông ngư dân đứng ngoài các tổ chức, và họ vẫn nuôi cá tra, basa theo cách may rủi (thường là rủi nhiều hơn may). Một cảnh báo đã được nhắc đến là sẽ còn có nhiều người nuôi rơi vào thất bại, thua lỗ và mất trắng, từ sự bất chấp các quy định về các tiêu chuẩn an toàn. Đây là một thực trạng mà các địa phương không nên xem thường, nhất định phải phát hiện và có hướng quản lý cụ thể để hạn chế tới mức thấp nhất sự phát triển tự phát không mong đợi.

Với lợi thế hai nhánh sông Tiền và sông Hậu chạy suốt chiều dài địa lý, cộng với hệ thống kênh mương thủy lợi đều khắp, An Giang có một diện tích mặt nước để phát triển nghề thủy sản một cách lý tưởng: 170 km thuộc dòng sông và 5.170 km kênh rạch. Tuy nhiên, để môi trường nước không phải là nơi tích tụ các chất thải có nguồn gốc độc hại từ quá trình sản xuất nông nghiệp và các nhà máy, xí nghiệp, vấn đề quy hoạch một nền sản xuất cân đối, có kiểm soát một cách chặt chẽ giữa phát triển thủy sản với nông nghiệp và công nghiệp phải được xem trọng.

Gần đây, tỉnh đã có chủ trương phát triển hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản, xem như một lối ra nhằm giải quyết nhu cầu nguồn nước sạch để nâng chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, nằm trong định hướng chung, sản phẩm nông nghiệp vẫn phải đảm bảo là sản phẩm sạch, để đáp ứng được yêu cầu thị trường rộng lớn ngoài phạm vi của một địa phương, một quốc gia. Vì vậy, về cơ bản, hai ngành này phải chịu tác động hỗ tương. Và hơn ai hết, các doanh nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp là nơi phải chịu trách nhiệm đảm bảo không gây ô nhiễm cho môi trường chung quanh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình, để có thể làm vai trò chiếc đòn gánh hiệu quả nâng sức cho hai đầu – nông nghiệp và thủy sản – cùng phát triển.

Đó chính là điều mà những nông ngư dân chúng ta đang cần. Bởi đề xuất nhiều giải pháp, nhiều tiêu chuẩn để đạt chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, cuối cùng, điều mà nhiều nhà khoa học cùng thống nhất để đúc kết lại một phương thức hành xử chung là: Nhận diện mối nguy để phòng tránh thiệt hại đang đến từ môi trường chung quanh.

Ra sức triệt tiêu mối nguy đó là sự hợp sức của cả cộng đồng và cũng chính là biện pháp hỗ trợ nông ngư dân một cách hữu hiệu nhất.

T.N

 


ACC và EUREPGAP xây dựng tiêu chuẩn quốc tế cho cá tra, basa

Nguồn tin: Vasep, 23/6/2006
Ngày cập nhật: 27/6/2006

Hội đồng Chứng nhận Nuôi trồng thuỷ sản (ACC) và EUREPGAP - tổ chức của Thuỵ Sĩ chuyên cấp chứng nhận GAP (Quy phạm nuôi trồng thuỷ sản tốt) đang tiến hành xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế cho cá tra, basa của Việt Nam và dự kiến hoàn tất trong năm tới.

Hiện nay, nhiều hãng bán lẻ thuỷ sản lớn như Wal-Mart và Darden tin tưởng vào các tiêu chuẩn ACC đối với mặt hàng tôm và yêu cầu các nhà cung cấp phải có chứng nhận này.

EUREPGAP cũng đã xây dựng các tiêu chuẩn cho cá hồi nuôi ở Châu Âu.

Aqua Service Vietnam, công ty chuyên cấp chứng nhận ACC và tư vấn cho EUREPGAP về các tiêu chuẩn chất lượng, đã phác thảo các tiêu chuẩn cho cá tra, basa từ cách đây 2 năm dựa trên các tiêu chuẩn của EUREPGAP đối với cá hồi và tiêu chuẩn của ACC đối với tôm, và bao quát các vấn đề như mật độ thả nuôi, an toàn thực phẩm, chất lượng nước và các yếu tố xã hội.

Với sự hỗ trợ của Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ) và tập đoàn bán lẻ Co-op của Thuỵ Sĩ, EUREPGAP vừa tổ chức 2 cuộc hội thảo về một số khía cạnh trong chương trình này, như các tiêu chuẩn xã hội và chất lượng nước. EUREPGAP sẽ tiếp tục tài trợ cho một cuộc hội thảo khác diễn ra vào tháng 9 hoặc tháng 10 tới.

Theo ông Philippe Serene, Tổng Giám đốc công ty Aqua Service Vietnam, các tiêu chuẩn chứng nhận quốc tế cho cá tra, basa sẽ không quá phức tạp nhưng việc áp dụng sẽ cần nhiều thời gian do đặc tính rời rạc của ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam và các tập quán nuôi hiện nay.

Ông Serene cho rằng ACC và EUREPGAP nên xây dựng kế hoạch kéo dài 5 năm để áp dụng các tiêu chuẩn này.

(TL theo Intrafish)

 


Liên kết sản xuất cá tra xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế SQF 1000-2000CM

Nguồn tin: BCT, 26/6/2006
Ngày cập nhật: 26/6/2006

Tại hội nghị “Triển khai thực hiện liên kết sản xuất cá tra xuất khẩu theo tiêu chuẩn SQF 1000-2000CM” mới đây, các thành viên Ban Liên kết Sản xuất Cá tra Xuất khẩu TP Cần Thơ đã ký kết thỏa thuận về việc nghiêm túc thực hiện mục tiêu sản xuất cá tra xuất khẩu theo tiêu chuẩn SQF 1000-2000CM. Cụ thể, các thành viên đảm bảo và chịu trách nhiệm về các điều khoản qui định, tham gia ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm, đầu tư tín dụng, cung cấp đủ thức ăn nuôi cá, thuốc phòng trị bệnh, giống sạch bệnh và đảm bảo kỹ thuật nuôi theo qui định của tiêu chuẩn SQF 1000-2000CM.

Ban Liên kết Sản xuất Cá tra Xuất khẩu TP Cần Thơ được thành lập vào giữa tháng 5/2006, gồm các thành viên: Xí nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu – Công ty Cataco Cần Thơ, nông dân nuôi cá tra xuất khẩu, Ngân hàng Sài Gòn Thương tín – Chi nhánh Cần Thơ, doanh nghiệp sản xuất thức ăn và thuốc thú y thủy sản và đại diện cơ sở sản xuất kinh doanh giống.

 


Phản hồi vụ chế biến đầu vỏ tôm ở Cà Mau: Ngăn chặn ngay việc thải a-xít xuống sông rạch

Nguồn tin: SGGP, 26/06/2006
Ngày cập nhật: 26/6/2006

 


Trung tâm Nghiên cứu và Sản xuất giống thủy sản An Giang: Cung cấp cá bột và cá tra giống chất lượng cao để sản xuất cá sạch

Nguồn tin: AG, 26/6/2006
Ngày cập nhật: 26/6/2006

Năm nay, Trung tâm Nghiên cứu và Sản xuất giống thủy sản An Giang có khả năng cung cấp cho các liên hợp sản xuất cá sạch trong và ngoài tỉnh từ 100- 200 triệu con cá bột và 25- 35 triệu cá tra giống chất lượng cao. Nguồn cá giống của trung tâm sản xuất theo quy trình sản xuất giống cá sạch, chất lượng con giống được bảo đảm có tính vượt trội về tốc độ tăng trưởng, không mang mầm bệnh cũng như không nhiễm các hóa chất và kháng sinh cấm và có thể truy xuất nguồn gốc bố mẹ rõ ràng.

Tháng 3-2006, Trung tâm Nghiên cứu và Sản xuất giống thủy sản An Giang được Công ty SGS (Mỹ) chứng nhận đạt tiêu chuẩn SQF 1000 (an toàn chất lượng thực phẩm) đối với các trại và các vệ tinh sản xuất giống cá tra, ba sa.

BÍCH VÂN

 


Châu Phú: Triển khai kế hoạch phát triển thủy sản đến năm 2010

Nguồn tin: AG, 26/6/2006
Ngày cập nhật: 26/6/2006

 


An Giang: Giá xuất khẩu sản phẩm cá tra, cá ba sa cao nhất từ trước đến nay

Nguồn tin: TN, 26/06/2006
Ngày cập nhật: 26/6/2006

 


Cà Mau: Sẽ xây dựng mới 6-8 nhà máy chế biến thủy sản

Nguồn tin: BCT, 26/6/2006
Ngày cập nhật: 26/6/2006

 


Phía Bỉ thông báo câu lưu ông Bửu Huy thêm 30 ngày

Nguồn tin: TT, 24/06/2006
Ngày cập nhật: 25/6/2006

 


Dịch bệnh trên tôm sú và những giải pháp khắc phục

Nguồn tin: BTre, 23/6/2006
Ngày cập nhật: 25/6/2006

Theo báo cáo của ngành thủy sản, từ đầu vụ đến nay toàn tỉnh đã thả nuôi trên 3.600 ha tôm sú thâm canh, bán thâm canh, đạt 57% diện tích. Riêng diện tích nuôi quảng canh, tôm lúa, tôm rừng đã thả giống hết diện tích 26.000ha. Tình hình thả giống nuôi thâm canh, bán thâm canh có chậm so với cùng kỳ, do các ngân hàng hạn chế trong việc cho vay vốn, một số hộ nuôi thiếu vốn nên không thả giống hết phần diện tích đã đầu tư.

Tình hình môi trường, dịch bệnh diễn biến phức tạp. Mặc khác, năm nay lợi dụng việc UBND tỉnh cho phép thả giống ở các khu vực nuôi tôm quảng canh, tôm rừng, ở một số khu vực có độ mặn sớm. Một số hộ nuôi thâm canh, bán thâm canh, tôm lúa ở các khu vực Thạnh Phước, Thạnh Trị, Bình Thới, Định Trung (Bình Đại) tự ý nhập giống thả nuôi không qua kiểm dịch, thả trước ngày 1-3 trên 100 ha và đã bị thiệt hại 82ha. Điều đáng quan tâm hơn, khi tôm chết đa số hộ nuôi không xử lý trước khi xả thải ra môi trường, làm cho mầm bệnh ngày càng lây sang nhiều khu vực xung quanh. Đặc biệt, diện tích nuôi thâm canh, bán thâm canh thả nuôi từ 1-3 đến nay bị thiệt hại 436ha, chiếm 12,07% diện tích thả nuôi, trong đó thiệt hại nặng nhất là Bình Đại 367,75ha. Nếu so với năm 2005, tình hình dịch bệnh xảy ra nghiêm trọng hơn, 436,2ha/142,63ha. Thời gian tôm chết nhiều nhất vào khoảng tháng 4. Có 5 nguyên nhân chính: do người nuôi không tuân thủ về lịch thời vụ, đầu vụ do chất lượng con giống nhập tỉnh kém (tỷ lệ tôm bệnh đốm trắng qua tái kiểm tra rất cao: 4mẫu/16 mẫu), môi trường nước ngoài kinh rạch tự nhiên bị ô nhiễm hữu cơ ở mức độ cao do việc bơm bùn đáy ao và xả thải mầm bệnh ra môi trường chung quanh. Nhiều hộ nuôi xử lý nước chưa triệt để, thả giống mật độ quá dầy. Ý thức cộng đồng của người dân về quản lý môi trường nưôi quá kém .

Sau khi phát hiện dịch bệnh xảy ra, ngành Thuỷ sản đã xin chủ trương tỉnh chi hỗ trợ 30% chi phí hóa chất xử lý mầm bệnh đối với những ao nuôi bị nhiễm virus đốm trắng trước khi xả thải ra môi trừơng bên ngoài .Cử ngay cán bộ bám sát địa bàn hỗ trợ xử lý và ngăn chặn kịp thời. Phối hợp với BCĐ vụ nuôi các huyện, BQL vùng nuôi tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình thả giống. Sở cũng đã nhanh chóng tiến hành khảo sát, thống nhất khu vực để huyện ra quyết định khoanh vùng không cho phép thả giống trong một thời gian nhất định để tập trung dập dịch đối với những khu vực có nguy cơ lây nhiễm cao. Tăng cường khuyến cáo, hướng dẫn kỷ thuật cho người nuôi về các biện pháp chăm sóc, quản lý ao nuôi, cách phòng ngừa lây nhiễm bệnh cho tôm.

Thực tế vụ nuôi năm nay cho thấy nghề nuôi tôm sú nói chung còn phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố như: môi truờng, con giống, vốn... đặc biệt là nguồn tôm bố mẹ. Chưa có giải pháp hữu hiệu, đồng bộ để xử lý triệt để tình hình một số hộ nuôi xả thải trực tiếp các chất thải bùn đáy ao, mầm bệnh đốm trắng chưa được xử lý ra môi trường bên ngoài. Hoạt động các BQL vùng nuôi còn mang tính hình thức, chưa có hiệu quả. Đặc biệt, hệ thống thủy lợi một số vùng nuôi còn quá kém. Khả năng năm 2006 sẽ có 1000ha nuôi tôm sú thâm canh không thể thả giống sẻ ảnh hưởng đến rất lớn đến kinh tế, đời sống người nuôi: mất công ăn việc làm cho trên 2.000 lao động, giảm doanh số dịch vụ 20%, giảm khoảng 3.000 tấn sản lượng.

Hiện nay ngành thủy sản đang tập trung nhiều giải pháp như: Trước mắt phối hợp với các đoàn thể, báo, đài tuyên truyền đến người nuôi các biện pháp phòng ngừa bệnh đốm trắng, theo dõi việc khoanh vùng dịch bệnh, tình hình thả giống, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Về lâu dài, Phải chủ động được đàn tôm bố mẹ để cung cấp cho các trại giống, hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi đầu mối, đặc biệt là hệ thống dẫn nước ngọt từ hồ chứa Ba Lai phục vụ nuôi thủy sản Ba Tri, Bình Đại. Để vụ nuôi tôm sú năm 2006 thành công, không ai hết chính là những tổ chức, đơn vị, cá nhân, cơ sở sản xuất... hoạt động trong lĩnh vực nuôi thủy sản phải nghiêm chỉnh chấp hành những qui định của nhà nước, tuyệt đối không được di nhập tôm giống vào khu vực khoanh vùng dịch bệnh với bất cứ hình thức nào trong thời gian quyết định khoanh vùng còn hiệu lực. Tuyệt đối không được xả thải nước trong ao nuôi bị nhiễm bệnh đốm tráng. Cơ sở sản xuất kinh doanh tôm sú giống không được bán tôm giống cho những hộ nuôi trong gần khu vưc khoanh vùng dịch bệnh, bị tạm đình chỉ thả nuôi.

Ngày 18-5, UBND huyện Bình Đại đã ra quyết định số 463/QĐ-UBND về việc tạm đình chỉ thả nuôi tôm ở khu vực Giồng Bình, khu vực nằm phía tây cầu Rạch Cạn cặp sông Ba Lai của xã Đại Hòa Lộc và khu vực cánh đồng bé, Gò Tranh, Rạch Chiêm xã Thạnh Phước. Theo đó, khoanh vùng dịch bệnh và tạm đình chỉ thả nuôi tôm sú từ ngày 18-5 đến hết ngày 10-6/2006 ở các khu vực sau: Xã Đại Hòa Lộc (khu vực Giồng Bình, khu vực từ ngã tư xã ra cầu Rạch Cạn về phía tây giáp giới xã Thạnh Phước ra sông Ba Lai). Xã Thạnh Phước (khu vực cánh đồng Bé, gò Tranh, Rạch Chiêm, giáp ranh Đại Hòa Lộc đến cặp sông Ba Lai Thuộc ấp 2,3.

Hữu Hiệp-Minh Sang


Làm sạch môi trường ao nuôi tôm bằng trùn đất

Nguồn tin: PY, 24/6/2006
Ngày cập nhật: 25/6/2006

Hội Nghề cá Phú Yên đang triển khai Chương trình nuôi tôm sạch bệnh với phương thức chỉ sử dụng phân trùn để gây màu, ổn định tảo, khử mùi hôi tầng đáy, chế phẩm sinh học để phòng trị bệnh tôm, tăng cường sắc đề kháng, kích hoạt hệ miễn dịch cho tôm nuôi, làm tôm mau lớn, hiệu quả.

Các nhà khoa học cho biết, trùn đất có khả năng làm sạch nước bị nhiễm bẩn. Trùn đất một khi được cho vào ao hồ bị nhiễm bẩn sẽ phát triển trong vô số những rãnh nhỏ nằm ở lớp đất bùn dưới đáy nước, đồng thời cũng mang theo ôxy cần thiết để làm sinh sôi các loại vi khuẩn rồi cùng nhau ăn các chất bẩn có trong nước. Chỉ cần phát triển trùn đất với số lượng từ 20.000 – 30.000 con có thể làm sạch một diện tích nước 10.000m2. Phân trùn được bà con sử dụng trong nuôi trồng thủy sản là loại phân chuồng ủ hoai, được tạo thành từ phân trùn nguyên chất và một phần được phân hủy từ các chất hữu cơ. Phân trùn có chứa các khoáng chất cần thiết cho tảo trong ao nuôi như: Phospho, kali, magnie, calci, nitơ… Tảo hấp thu trực tiếp các khoáng chất này. Phân trùn có thể xem là một sản phẩm thiên nhiên tuyệt vời, được sử dụng như là một loại sản phẩm tốt nhất so với các loại phân hóa học trên thị trường hiện nay.

Quy trình đã mang lại hiệu quả cao hơn hẳn so với áp dụng các biện pháp xử lý thông thường như trước đây, vì ngoài việc gây màu, ổn định tảo, phân trùn còn phân giải các chất hữu cơ trong ao nuôi, phân giải khí độc, thức ăn thừa của tôm, ổn định các chỉ tiêu môi trường ngay cả khi thời tiết không thuận lợi, mưa lạnh hoặc nắng nóng kéo dài.

Sử dụng chế phẩm sinh học làm tôm tăng trưởng tốt, tỉ lệ sống cao trên 90%. Ngoài việc năng suất cao, hiệu quả, người nuôi tôm không cần phải trộn kháng sinh với thức ăn để phòng trị bệnh cho tôm. Sản phẩm tôm nuôi sạch, hiệu quả, bền vững, đáp ứng được các yêu cầu về sản phẩm sạch hiện nay trên thị trường thế giới.

HUỲNH VĂN VŨ

 


Tỉ phú trẻ và mô hình thanh niên nuôi tôm hùm

Nguồn tin: PY, 24/6/2006
Ngày cập nhật: 25/6/2006

Ở thôn Phú Hai (xã Xuân Phương, huyện Sông Cầu), Võ Văn Nguyên được bà con gọi bằng biệt danh “tỷ phú tôm hùm”. Nguyên là một trong 125 thanh niên cả nước được Bộ Thủy sản tuyên dương trong Hội nghị thanh niên tiên tiến ngành Thủy sản lần thứ III, tổ chức tại thành phố Cần Thơ vừa qua.

Tiếp khách trong căn nhà mới khá khang trang với đầy đủ tiện nghi sinh hoạt, Võ Văn Nguyên tự hào nói: “Tất cả những thứ này đều từ tôm hùm mà ra cả”. 5 năm trước, Nguyên làm thợ may, thu nhập không đủ trang trải cuộc sống hằng ngày. Anh chuyển sang chụp ảnh dạo nhưng không bao lâu thì cũng bỏ nghề. Năm 2002, thấy người dân đổ xô nuôi tôm hùm lồng, lợi nhuận mang lại rất cao, Nguyên quyết định dùng số tiền tích lũy được của hai vợ chồng đầu tư vào nghề này. Số vốn ban đầu chỉ đủ để mua lồng, còn tôm giống, Nguyên cùng một số người khác rủ nhau ra biển lặn bắt. “Kiến tha lâu đầy tổ”, số tôm bắt được gom lại khoảng 250 con, thả nuôi trong 5 lồng. Về thức ăn, Nguyên cũng tự khai thác và chế biến, không phải mất tiền mua. Nuôi tôm hùm lồng không khó, Nguyên tìm hiểu từ sách báo và học ở những người đi trước. Bán được lứa tôm đầu, anh dùng toàn bộ số tiền thu được đầu tư cho lứa sau. Cứ thế, sau 5 năm, Nguyên đã có hơn 25 lồng tôm hùm, thu nhập bình quân mỗi năm từ 250 - 300 triệu đồng. Ngoài tôm hùm, Nguyên còn nuôi cá mú, vẹm xanh, ghẹ... thu nhập cũng rất cao. Công việc hằng ngày của chàng “tỷ phú” trẻ này là: Sáng cho tôm cá ăn xong, anh đi khắp vùng mua tôm hùm và các loại hải sản khác cung cấp cho các thị trường trong và ngoài tỉnh.

“Tỷ phú tôm hùm” bộc bạch: Mình chẳng có bí quyết gì cả. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như ở đây, ai cũng có thể làm giàu được. Hiện nay, chi phí làm một lồng nuôi khoảng 3 triệu đồng, tôm giống thì dao động từ 70.000-100.000 đồng/con. Tôm hùm rất ít bệnh, người nuôi chỉ thất bại khi gặp thiên tai. Công việc hàng ngày rất bận rộn, nhưng Nguyên không quên trách nhiệm của một Bí thư chi đoàn. Anh cho biết: Thời gian tới sẽ mở rộng qui mô nuôi tôm bằng cách đầu tư vốn cho thanh niên trong thôn nuôi rẽ. Hình thức này vừa tạo việc làm, thu nhập cho thanh niên, vừa giúp Nguyên đạt được doanh thu 500 triệu đồng/năm mà anh đã đặt ra.

Võ Văn Nguyên khẳng định: “Việc làm giàu với thanh niên ở thôn Phú Hai hiện nay không khó, nhưng vấn đề họ đang cần là vốn”. Nguyên nhiều lần kiến nghị với đoàn cấp trên tạo điều kiện cho thanh niên vay vốn để phát triển kinh tế. Dự án đã lập rồi, nhưng gần 2 năm nay vẫn chưa thấy giải quyết, không biết là ách tắc ở khâu nào.

BÁ TOÀN

 


Phát triển mạnh nghề nuôi thuỷ sản trên biển

Nguồn tin: TTXVN, 23/06/2006
Ngày cập nhật: 25/6/2006

Để phát triển và mở rộng nghề nuôi cá biển đạt hiệu quả, Bộ Thủy sản đã tiến hành quy hoạch một số vùng có khả năng nuôi tập trung như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thừa Thiên-Huế, Vân Phong-Khánh Hoà, Vũng Tàu, Kiên Giang và nuôi cá ngừ ở quần đảo Trường Sa; phấn đấu đến năm 2010 sản lượng xuất khẩu đạt 200.000 tấn, tỷ lệ xuất khẩu đạt 80%.

Hiện ngành Thủy sản đang từng bước giải quyết đồng bộ các vấn đề về con giống, thức ăn, kỹ thuật nuôi và đầu tư cho cơ sở hạ tầng vùng nuôi; ban hành những chính sách hỗ trợ cụ thể để phát triển nghề nuôi trên như giao mặt nước nuôi cho từng hộ, với thời gian cụ thể, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và tổ chức một hệ thống quản lý nghề nuôi trồng thủy sản trên biển.

Theo các quan chức ngành thủy sản, nghề nuôi này mới chỉ bắt đầu ở một số tỉnh như Quảng Ninh, Hải Phòng, Vũng Tàu, Phú Yên, Khánh Hòa với các loại thủy sản nuôi như cá giò, cá song, trai ngọc, tôm hùm và nghề nuôi này mới xuất hiện ở hình thức nuôi lồng kiểu mới, có dung tích khối nước nuôi lớn, chịu được sóng gió.

Đến nay, diện tích mặt nước biển của cả nước đưa vào nuôi trồng thủy sản mới đạt khoảng 20.000ha với số lượng lồng bè là 10.000 lồng, đạt sản lượng 100.000 tấn/năm./.

 


Đào tạo công nhân sản xuất sản phẩm từ da cá sấu

Nguồn tin: SGGP, 23/6/2006
Ngày cập nhật: 24/6/2006

 


Cá basa lấy đà "vượt Vũ Môn"

Nguồn tin: TBKTVN, 23/6/2006
Ngày cập nhật: 24/6/2006

Để cá tra, basa Việt Nam "vượt Vũ Môn" vào EU thì các doanh nghiệp không có cách gì khác hơn là phải tuân thủ nghiêm luật xuất nhập khẩu thuỷ sản...

Một cảm giác choáng ngợp trước một dòng mênh mông, ăm ắp nước. Mùa này nước sông Hậu không còn trong như trước. Đã vào mùa nước nổi, nước sông chuyển dần từ trong xanh sang màu vàng nhạt, rồi đậm dần sắc phù sa đỏ hồng, gió lồng lộng.

Dòng Mê Công từ Cam-pu-chia đổ vào An Phú, huyện đầu nguồn An Giang, từ đây tách thành hai nhánh: sông Tiền, sông Hậu. Nếu như không có hai dòng sông này, chắc hẳn An Giang không được biết tới là "vương quốc" của cá tra, basa. Thế nên, An Giang mới được Bộ Thủy sản chọn làm nơi tổ chức cuộc hội thảo quan trọng về thủy sản.

Thật không gì thú vị bằng vào buổi sáng đẹp trời lại được đi chơi thuyền trên sông. Không riêng tôi mà mọi người trong đoàn, các vị khách quốc tế cùng đi cũng thấy thích thú. Không như tôi nghĩ, khúc sông Hậu chảy trong địa phận thành phố Long Xuyên không có những làng bè tấp nập, dầy đặc như ở thị xã Châu Đốc. Cũng có rất ít bè nuôi cá nằm rải rác theo dòng sông. Nơi đây ngư dân nuôi cá chủ yếu trong ao, hầm.

Vườn nuôi cá trên sông, ao cá trên bờ

Ca nô chạy khoảng 4 km đường sông thì đến vườn nuôi cá sạch của Công ty Agifish. Ca nô vừa cặp bến, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là quang cảnh thu hoạch cá của ngư dân trong vườn nuôi, những con cá tra thật to đang vùng vẫy trong lưới cá. Mặc dù cố sức vùng vẫy nhưng những chú cá tra to khoẻ kia vẫn không thoát khỏi đôi tay rắn chắc của họ. Cuối cùng, chúng vẫn phải nằm gọn trong những chiếc giỏ tre, để những người đàn ông khoẻ mạnh gánh xuống thuyền chở về nhà máy chế biến của công ty.

Rời nơi đang thu hoạch cá, chúng tôi được hướng dẫn đến một vườn ao nuôi cá khác, có vài ngư dân đang cho cá ăn. Chúng nổi lên trắng cả mặt nước để đốp mồi. Phía xa ở tận cuối ao cá có một dòng nước được bơm từ dưới sông đang chảy liên tục vào ao, để tạo cho môi trường nước trong ao luôn mát. Nhìn cá vùng vẫy dưới nước, tôi bỗng nhớ lại câu nói của người dân khi mô tả về tài nguyên cá ở miền tây: Muốn lấy nước sông, người dân ở đây phải "Vạch cá múc nước".

Sau khi xem "no mắt" cảnh cho cá ăn, chúng tôi được anh cán bộ phụ trách kỹ thuật trại nuôi cá sạch cho biết về qui trình cũng như cách nuôi cá sạch. Để có được những con cá sạch người nuôi phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm vì bây giờ để cá tra tra, basa Việt Nam "vượt Vũ Môn" vào EU thì các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam không có cách gì khác hơn là phải tuân thủ nghiêm luật xuất khẩu thủy sản của EU đối với mặt hàng này.

Ngày thứ hai của Hội thảo "An toàn chất lượng sản phẩm cá tra, basa Việt Nam đáp ứng yêu cầu thị trường thực phẩm thế giới" ở thành phố Long Xuyên, là chuyến đi tham quan vườn nuôi cá sạch của Công ty Agifish An Giang và nhà máy chế biến thủy sản của Công ty Việt An, có đi đến tận nơi, có tận mắt chứng kiến mới cảm nhận hết từ "nuôi cá sạch" và sản xuất theo tiêu chuẩn ISO và HACCP mà các ngư dân cũng như doanh nghiệp đang thực hiện.

Sạch từ "ao nuôi cá đến bàn ăn"

Vấn đề cốt lõi của Luật xuất khẩu thủy sản là truy nguyên nguồn gốc tức là phải kiểm tra từ khâu con giống đến khâu thành phẩm cuối cùng. Chúng ta thường nghe các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản hay dùng là cụm từ "Từ ao nuôi đến bàn ăn".

Điều này cho thấy việc sản xuất ra con cá sạch đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong Luật an toàn vệ sinh thực phẩm mà EU đang hướng đến. Luật này bắt buộc các nhà chế biến cá tra, basa của Việt Nam nhìn lại quy trình sản xuất của mình. Ngày nay, để bảo đảm sản xuất ra thành phẩm sạch không còn tuỳ thuộc vào khâu chế biến tại nhà máy mà còn quyết định ở khâu nuôi.

Việc truy xuất nguồn gốc được nhà nhập khẩu yêu cầu đối với các doanh nghiệp có mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào EU từ đầu năm nay. Truy xuất xứ sản phẩm, tức là mọi đầu vào để tạo nên sản phẩm phải có xuất xứ rõ ràng và phải thể hiện bằng trên những chứng từ thuộc qui trình. Để có con cá sạch đáp ứng được các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm của nhà nhập khẩu trên thế giới, "Liên hiệp sản xuất cá sạch" của Agifish đã ra đời gồm năm thành viên: Nhà sản xuất giống; ngư dân nuôi cá thương phẩm; nhà cung cấp thức ăn; nhà cung cấp thuốc thú y; nhà chế biến xuất khẩu.

Trong liên hiệp, mỗi thành viên đều có trách nhiệm nhằm mục tiêu cung cấp cho người tiêu dùng sản phẩm tốt nhất, không có dư lượng thuốc kháng sinh hay bất cứ hoá chất nào bị cấm. Tất cả các công việc thực hiện tại ao nuôi cá sạch, như: tình trạng sức khoẻ của cá, xử lý nước, thức ăn, thuốc thú y... đều được cán bộ kỹ thuật của trại ghi chép cẩn thận và đầy đủ trong cuốn sổ nhật ký nuôi cá.

Tuy nhiên, việc nước thải từ trại nuôi cá sạch chảy thẳng ra sông Hậu chưa được các vị khách quốc tế thoả mãn, vì họ cho rằng nước thải chảy ra sông như vậy sẽ làm ô nhiễm nguồn nước rồi trại lầy nước từ sông cho vào ao như vậy chưa đảm bảo.

Ô nhiễm môi trường - luật của thiên nhiên

Rời trại nuôi cá sạch, chúng tôi đến tham quan nhà máy chế biến thủy sản của Công ty Việt An. Đây là một trong những nhà máy chế biến thủy sản hiện đại đạt tiêu chuẩn ISO và HACCP của tỉnh An Giang.

Sau khi được ông Lưu Bách Thảo - Giám đốc Công ty TNHH Việt An giới thiệu đôi nét về nhà máy, chúng tôi được phép tham quan các công đoạn sản xuất của nhà máy. Khi bước vào khu vực chế biến, chúng tôi phải tuân thủ hết sức nghiêm ngặt các quy định của nhà máy. Mặc áo, mũ, khẩu trang và mang giầy bảo hộ lao động, tháo gở tất cả nữ trang, túi xách gửi lại, nhóm phóng viên chúng tôi được phép ưu tiên mang theo máy ảnh. Khâu làm vệ sinh trước khi vào khu sản xuất phải qua nhiều công đoạn và cũng rất khắt khe. Trước mắt chúng tôi là hàng trăm công nhân đang làm việc được trang bị đầy đủ để làm việc trong điều kiện yêu cầu vệ sinh cao và nhiệt độ rất thấp.

Khu vực ban đầu là nơi chuyển cá sống vào làm chết. Tôi thấy có rất nhiều nước và máu cá chảy ra, liền hỏi một người: "Nước thải này có được xử lý không?". Trả lời: "Khu vực này có xử lý vì nước thải chỗ này rất dơ nên nhà máy có khu xử lý". Tới khu vực thái fillet cá, nhìn những đôi tay nhanh nhẹn thái bỏ những phần thịt thừa để cho ra những miếng fillet cá trắng tinh tươm tất trông thật bắt mắt. Với tác phong làm việc của công nhân ở khu vực sản xuất fillet, tôi nhận thấy họ rất chuyên nghiệp, mặc dù toàn là nữ giới nhưng không nghe nói chuyện, họ im lặng và làm việc rất chăm chỉ.

Nhìn thấy bên trong nhà máy đâu đâu cũng có nước thải lẫn với mỡ cá và lượng nước thải này rất nhiều. Không ngăn được tò mò, tôi liền hỏi và được biết: "Khi xây dựng nhà máy, theo yêu cầu bắt buộc của bên môi trường tất cả các nhà máy chế biến thủy sản phải xây dựng hệ thống xử lý nước thải.

Tuy nhiên muốn xử lý hết lượng nước thải do nhà máy thải ra thì doanh nghiệp tốn tiền đầu tư rất lớn, nên không có doanh nghiệp nào đi đầu tư trọn vẹn vào khâu này. Họ chỉ làm cho có để xử lý một phần lượng nước thải ra và cũng để đối phó với bên môi trường. Số còn lại cho chảy ra sông nếu bị phạt thì nạp một số tiền theo qui định rồi thì tất cả cũng qua. Hầu như tất cả những nhà máy chế biến thủy sản khác cũng thế thôi!".

Ông Nguyễn Hoàng Việt, Trưởng Ban điều hành sản xuất và tiêu thụ cá tra, basa Việt Nam, Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh An Giang, cho biết: "Hiện nay có hai vấn đề lớn cần giải quyết để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành nuôi cá tra, basa vùng ĐBSCL.

Một là, vấn đề vệ sinh môi trường và an toàn chất lượng sản phẩm. Hai là sự liên minh, liên kết giữa những người nuôi và nhà chế biến, xuất khẩu cũng như sự liên kết của toàn vùng đồng bằng này". Tại cuộc hội thảo, sau khi nghe ông Philippe Serene Công ty Aquaculture Certification Council.Inc. đề cập đến vấn đề ô nhiễm môi trường, mọi người đều cho rằng đây là vấn đề cần quan tâm hàng đầu trong quá trình sản xuất ra sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Ông Ngô Phước Hậu cũng khẳng định: "Lâu nay người nuôi cũng như nhà chế biến chưa quan tâm đúng mức đến tác hại của môi trường do chúng ta gây ra. Tác hại của môi trường lại chính ngư dân và nhà chế biến gánh chịu hậu quả trước hết". Hơn ai hết, khi dòng sông bị ô nhiễm thì ngư dân và doanh nghiệp chế biến thủy sản sẽ bị thiệt hại trước nhất. Xin hãy bắt tay đi ngay khi còn chưa muộn.

Tôi chợt nhớ, ông Thomas Ganslmayr người Đức, một chuyên viên tư vấn và đào tạo của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam tại Cần Thơ, đã từng có lời khuyên với An Giang: "Thà bảo vệ lấy dòng sông với những cảnh quan tự nhiên và môi trường nước trong lành còn hơn đánh đổi tất cả để có tiền. Chính trong tương lai, con người sẽ gây ra những tác hại rất khó khắc phục do ô nhiễm môi trường mang lại. Đó là bài học mà nước Đức chúng tôi đã phải trả giá và phải mất 180 năm sau mới khắc phục được".

 


Thả nuôi hơn 604 nghìn ha tôm nước lợ

Nguồn tin: ND, 26/3/2006
Ngày cập nhật: 24/6/2006

Ông Vũ Dũng, Vụ trưởng nuôi trồng thủy sản (Bộ Thuỷ sản) cho biết: Từ đầu năm đến nay, các địa phương thả nuôi 604.479 ha tôm nước lợ vụ 1, chủ yếu là diện tích nuôi tôm sú; với số lượng giống thả 14,2 tỷ con tôm cỡ P15.

Với diện tích tôm nuôi trên, các địa phương hoàn thành 100% diện tích so mục tiêu đề ra. Diện tích nuôi tôm công nghiệp của cả nước hiện đạt hơn 60 nghìn ha, chiếm khoảng 10% tổng diện tích nuôi tôm.

Tại các địa phương như Thái Bình, Thanh Hoá, Ninh Bình, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh…đã xảy ra tình trạng tôm chết rải rác, với tỷ lệ tôm chết khoảng 10% số tôm thả nuôi. Các địa phương có diện tích tôm nuôi bị chết nhiều nhưng chưa thành dịch như: Cà Mau có hơn 10 nghìn ha, Ninh Bình 435 ha, Thái Bình 300 ha…, chủ yếu tôm nuôi bị nhiễm bệnh đốm trắng.

Sau khi đến các địa phương trên tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tôm chết, ông Vũ Dũng cho rằng: Đa số diện tích tôm nuôi chết là do người dân thả tôm không đúng thời vụ, thường thả sớm hơn lịch thời vụ cho phép; chủ yếu xảy ra tại vùng chuyển đổi mạnh từ diện tích trồng lúa, cói, làm muối kém hiệu quả nhưng chưa bảo đảm quy trình kỹ thuật về cải tạo, xử lý môi trường.

Do thiếu vốn nên người nuôi thường mua tôm giống của tư thương không bảo đảm chất lượng; thời tiết diễn biến phức tạp như mưa nhiều ở các tỉnh phía bắc, nắng nóng ở miền trung, đồng bằng sông Cửu Long ảnh hưởng đến đô mặn của nước trong ao nuôi, gây sốc cho tôm; hệ thống thủy lợi cho vùng nuôi tôm chưa bảo đảm.

Hằng năm, trước khi bước vào thả nuôi tôm vụ 1, Bộ Thuỷ sản chỉ đạo thường xuyên đến các địa phương thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp đối với nuôi tôm như: đầu vụ, các địa phương chỉ đạo nông dân trước khi thả nuôi tôm cần phải bảo đảm quy trình cải tạo ao, đầm và thả tôm đúng lịch thời vụ; giữa vụ, cần quản lý tốt môi trường ao nuôi, kiểm soát dịch bệnh, chủ động đối phó với mưa, bão; cuối vụ, chỉ đạo thu hoạch tôm nuôi đúng thời vụ, tránh mưa, bão, kiểm soát chặt chẽ việc bơm, chích tạp chất. Tuy nhiên, tình trạng tôm chết năm nào cũng xảy ra, gây thiệt hại trực tiếp cho người nuôi tôm.

Để hạn chế tình trạng tôm chết có thể gia tăng trong thời gian tới, Vụ nuôi trồng thủy sản khuyến cáo: các địa phương chú ý đến mực nước trong ao, đầm nuôi phải bảo đảm; tích cực sử dụng các chế phẩm sinh học cho xử lý đáy ao, đầm, chất thải nuôi tôm; kiểm soát chặt chẽ nguồn nước cấp và nước thải từ các ao, đầm nuôi tôm; nên thay đổi đối tượng nuôi thủy sản trong vụ sau khi thu hoạch tôm.

Việc đưa các đối tượng nuôi thủy sản khác như cá rô phi đơn tính, cá bớp, cá điêu hồng, cua, ghẹ; trồng rau câu sẽ góp phần xử lý chất cặn bã từ vụ nuôi tôm trước; cải tạo môi trường ao nuôi; hạn chế xảy ra dịch bệnh đối với vụ nuôi tôm năm sau.

Tạ Quang Dũng

 


An Giang: 3.100 trang trại đạt thu nhập 100 triệu đồng/năm

Nguồn tin: BCT, 23/6/2006
Ngày cập nhật: 23/6/2006

 


Giá trị sản lượng cá rô phi của Trung Quốc tăng mạnh

Nguồn tin: Fistenet, 22/6/2006
Ngày cập nhật: 23/6/2006

 


Chuyên nghiệp hóa nuôi trồng thủy sản

Nguồn tin: TBKTSG, 20/6/2006
Ngày cập nhật: 23/6/2006

Sau bước đầu thành công của Cà Mau với con tôm sinh thái và An Giang tỏ vẻ “thích nghi” với một số mô hình nuôi cá sạch, nhiều người bắt đầu tính đến việc “chuyên nghiệp hóa” việc nuôi thủy sản... Phải “sạch” mới bền.

 


KẾT QỦA NUÔI TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN THỦY SẢN Ở CÀ MAU

Nguồn tin: CM, 22/6/2006
Ngày cập nhật: 23/6/2006

 


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang