• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Cà Mau: nuôi cá đồng đạt hiệu quả kinh tế

Nguồn tin: SGTT, 21/3/2006
Ngày cập nhật: 23/3/2006

Đó là nhận xét của nông dân trong vùng ngọt hóa tại tỉnh Cà Mau; ngay cả Chủ tịch UBND huyện U Minh Đỗ Văn Sơ cũng đồng tình với ý kiến trên.

Chúng tôi trở lại thăm một loạt các lâm- ngư trường thuộc rừng tràm U Minh hạ, hiện là mùa khô hanh, nắng nóng gay gắt. Nông dân và nhân viên lâm trường đang tất bật với 2 việc, một là lo phòng chống cháy rừng (PCCR), hai là lo thu hoạch cá đồng, vì đã tới mùa vụ chính.

Cá đồng tưởng không còn đất sống sau những năm nông dân trong tỉnh ồ ạt nuôi tôm, cũng may ở U Minh hạ vẫn còn nhiều hộ dân nhận thức được con tôm nhiều rủi ro khó lường, còn con cá đồng được nông dân nuôi từ bao đời nay; vì vậy ngay từ đầu, bà con giữ nước ngọt, tiếp tục nuôi cá để phát triển kinh tế gia đình và làm giàu.

Hiện, cá lóc ở thị trường Cà Mau bán ra 30.000 đồng/kg, cá khô sẽ là 250.000 đồng/kg, cá bổi giá 15.000 đồng/kg, nếu cá khô là 300.000 đồng/kg, cá trê 40.000đồng/kg. Riêng cá rô có giá tới 60.000 đồng/kg. Với mức giá như vậy, so với giá tôm vẫn còn chênh lệch, nhưng nông dân muốn có thu hoạch 1 tấn tôm thì không dễ, ngoại trừ nuôi tôm công nghiệp, ngược lại ở U Minh hạ có rất nhiều hộ thu hoạch một năm 1 tấn cá đồng, bình quân 30.000 đồng/kg thì cũng cho thu nhập 30 triệu đồng/năm.

Riêng đối với các lâm ngư trường thì năm nay trúng đậm mùa cá đồng, ít nhất mỗi lâm- ngư trường có thu hoạch từ 5 đến 10 tấn cá là chuyện thường. Anh Trần Văn Đằng, nông dân ở xã Khánh Bình cho chúng tôi biết, cá đồng hiện nay đang lên ngôi, bởi vì ngày càng khan hiếm, trong khi nhu cầu thưởng thức cá đồng của người tiêu dùng rất lớn.

Theo báo cáo của ngành thủy sản thì sản lượng cá đồng trong tỉnh giảm 50% so với cách đây 10 năm. Năm 1996, sản lượng cá đồng của Cà Mau là 80.000 tấn, hiện giờ khoảng 40.000 tấn. Vùng Nam Cà Mau như: Đầm Dơi, Cái Nước một thời nhiều cá đồng thì bây giờ hầu như không còn nữa. Trao đổi với chúng tôi, ông Lý Văn Thuận, cán bộ ngành thủy sản tỉnh cho biết, tiềm năng cá đồng của tỉnh rất lớn, nếu biết khai thác thì chỉ nuôi cá đồng cũng đã đẩy kinh tế vùng Bắc Cà Mau đi lên không thua kém gì vùng nuôi trồng thủy sản phát triển. Nếu sắp tới đây, cá đồng được chế biến xuất khẩu thì giá trị kinh tế sẽ ngang hàng với con tôm và nuôi cá đồng sẽ ít rủi ro hơn nuôi tôm.

Hiện nay các lâm- ngư trường liên kết với nông dân, tổ chức nuôi cá đồng theo các hình thức: nuôi nhỏ lẻ với quy mô hộ và tổ chức nuôi cá quy mô lớn. Lâm trường có đất đai, nhân dân bỏ công sức để nuôi giữ, đến mùa thu hoạch bán ra và chia nhau, hai bên cùng có lợi. Cách làm này vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao đồng thời gắn trách nhiệm của nông dân trong việc quản lý, bảo vệ rừng.

Hiện nay, ở Cà Mau có 3 huyện tổ chức nuôi cá đồng hiệu quả, đó là huyện Trần Văn Thời, huyện U Minh và huyện Thới Bình. Chị Phạm Thị Hoài ở xã Khánh Hưng cho biết, trước đây gia đình chị cũng rất thích nuôi tôm, nhưng thời gian qua chị thấy nuôi tôm có lúc được, lúc mất, nhiều người nợ nần chồng chất, vì nuôi tôm thất bát.

Có một câu hỏi được đặt ra, nếu như cá đồng phát triển mạnh, số hộ dân trong tỉnh tổ chức nuôi cá ngày càng nhiều thì liệu cá đồng có ế ẩm như các loại con khác không ? Hiện nay, ngành thủy sản tỉnh đang có dự án xuất khẩu cá đồng thông qua việc chế biến, do vậy nhà nông có thể yên tâm về đầu ra. Nếu người nuôi cá đồng trong tỉnh ngày càng nhiều, dự án xuất khẩu cá đồng được thực hiện thì rõ ràng trong tương lai, việc nuôi cá đồng sẽ hiệu quả hơn nuôi tôm.

Theo TTXVN


Cà Mau: tôm khô, mực khô chưa có thương hiệu

Nguồn tin: SGTT, 22/3/2006
Ngày cập nhật: 23/3/2006

 


An Giang: giảm trên 25.000 tấn cá tra nuôi

Nguồn tin: SGTT, 22/3/2006
Ngày cập nhật: 23/3/2006

Do qui mô nuôi trồng thủy sản đang giảm mạnh kể cả nuôi lồng bè và ao hầm, quí 1/2006 sản lượng cá tra, cá ba sa nuôi ở tỉnh AnGiang chỉ đạt 51.600 tấn, giảm 25.300 tấn so cùng kỳ năm 2006.

Theo thống kê gần đây của ngành nông nghiệp An Giang, tổng số lồng bè đang nuôi cá tra, cá ba sa trong tỉnh chỉ còn 604 bè, giảm 1.387 bè so với đầu năm 2005. Nguyên nhân do năm 2005 gía cá tra sụt giảm dưới giá thành nuôi kéo dài gần 10 tháng, trên 1.500 hộ nuôi cá tra, cá ba sa trong bè lỗ nặng phải nghỉ nuôi hoặc chuyển sang nuôi các loài cá khác. Do vậy đến nay, chỉ còn gần 6.000 hộ nuôi cá tra ao hầm, đăng quầng, giảm hơn một nửa so với năm ngoái.

Do lượng cá nuôi giảm mạnh, cung thấp hơn cầu nên giá cá tăng từ chưa tới 10.000 đồng/kg cuối năm 2005 lên 14.000 đồng/kg cá tra thịt trắng, đã vậy còn có hiện tượng người nuôi "ghìm" cá chờ giá cao hơn nên hiện nay hầu hết các nhà máy chế biến thủy sản trong tỉnh chỉ hoạt động cầm chừng, chỉ 45 đến 50% công suất, một số doanh nghiệp đến hạn giao hàng phải mua cá nguyên liệu với giá cao để sản xuất.

Theo TTXVN

 


Cargill xây nhà máy thứ 6 tại VN

Nguồn tin: NLĐ, 22/3/2006
Ngày cập nhật: 23/3/2006

Ngày 22-3, tập đoàn Cargill của Hoa Kỳ chuyên về lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm đã khởi công xây dựng nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi với công suất thiết kế 150.000 tấn/năm tại Long An, với vốn đầu tư ban đầu 12 triệu USD. Đây là nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi thứ 6 của Cargill tại VN, sẽ đi vào hoạt động vào đầu năm 2007, nâng tổng công suất chế biến của các nhà máy của Cargill tại VN lên hơn 700.000 tấn/năm.

Đại diện tập đoàn Cargill cho biết, việc xây dựng nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi thứ 6 là sự minh chứng Cargill có một tầm nhìn rất lạc quan về môi trường đầu tư ở VN. Từ nay đến 2010, Cargill sẽ xây dựng thêm 2-3 nhà máy mới tại VN để khai thác thị trường VN và khu vực châu Á.

L.Cường


Thượng nguồn sông Sài Gòn: Cá bè chết hàng loạt, thiệt hại hơn 4,5 tỷ đồng

Nguồn tin: SGGP, 23/3/2006
Ngày cập nhật: 23/3/2006

Cách đây vài ngày, hơn 40 bè cá điêu hồng và cá lăng tại khu vực thượng nguồn sông Sài Gòn (điểm giáp ranh giữa hai tỉnh Bình Dương và Tây Ninh, cách Nhà máy Chế biến cao su Dầu Tiếng 4,5 km) bị chết hàng loạt.

Lượng cá chết khoảng trên 180 tấn. Ước tính thiệt hại trên 4,5 tỷ đồng. Hầu hết những bè cá này đang độ phát triển, sắp đến kỳ thu hoạch (cá điêu hồng đạt từ 300 -500 gram/con và cá lăng từ 400-600 gram/con). Đây là số bè cá của 16 hộ dân vừa di dời khỏi hồ Dầu Tiếng cách nay 2 tháng, theo lệnh giải tỏa của chính quyền địa phương.

Theo người dân ở đây, cá chết là do ô nhiễm nguồn nước. Trước khi cá chết, họ thấy có một dòng nước ô nhiễm màu nâu từ phía thượng nguồn chảy xuống. Sau đó, cá trong bè nổi lên và lần lượt chết hết. Do lượng cá chết quá lớn, người nuôi không thể tiêu thụ được, hôi thối cả một vùng.

H.H.N

 


Thiếu hụt nghiêm trọng cá tra, basa nguyên liệu

Nguồn tin: SGGP, 23/3/2006
Ngày cập nhật: 23/3/2006

 


Chống ô nhiễm môi trường nước: Cần kiên quyết hơn!

Nguồn tin: BCT, 22/3/2006
Ngày cập nhật: 22/3/2006

Tôm cá chết nhiều nơi; dịch bệnh heo gà phát sinh không còn tính mùa vụ, bệnh tật gây nguy hại cho người ngày càng phức tạp, nhiều bệnh mới bí hiểm, khó chữa trị xuất hiện ngày càng nhiều hơn... là hệ lụy tất yếu của sự phát triển khập khiễng, nặng về thu nhập kinh tế mà thiếu sự quan tâm chất lượng môi trường sống; buông lỏng quản lý, giám sát và thiếu những hành động thiết thực cho môi trường. Những gì đã, đang diễn ra chỉ mới là khúc dạo đầu, là hồi chuông cảnh tỉnh cho cộng đồng. Nó đang đặt ra vấn đề: Các nhà quản lý phải có trách nhiệm điều tiết việc đầu tư khai thác các nguồn tài nguyên sao cho hài hòa, đảm bảo môi trường sản xuất được bền vững, môi trường sinh sống của người dân được duy trì tốt, an toàn... Còn những người đang trực tiếp đầu tư, thu lợi từ sự khai thác tài nguyên, lao động, đất đai trên mọi vùng đất nước hãy biết tiết chế, nếu không sẽ tự hại mình và hại cả người khác, sẽ không còn lợi nhuận thậm chí “mất cả chì lẫn chài”!

Việc phá rừng ngập mặn nuôi tôm trước đây, hay phong trào nuôi tôm trên cát ven biển miền Trung vừa qua; chuyện phá vườn dừa, vườn nhãn và nhiều loại cây trồng khác để đưa con tôm sú nước mặn vào nội đồng với mong muốn đổi đời của nông dân Bạc Liêu, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang... là những bài học về môi trường vẫn còn nguyên giá trị. Và hiện nay đến con cá tra, cá ba sa: nông dân Đồng bằng sông Cửu Long tổ chức nuôi bè không đủ nên mở rộng nuôi ao hầm, rồi bổ sung thêm loại hình nuôi đăng quầng... đến nỗi nguồn nước lũ khổng lồ của dòng Cửu Long vẫn không tống khứ đi hết được tình trạng ô nhiễm thì thật là quá sức tưởng tượng. Chắc chắn sẽ khó tránh khỏi những hậu quả tai hại cho nghề nuôi thủy sản như vừa diễn ra và cho cả thời gian tới.

Theo chúng tôi, muốn sớm khắc phục tình hình, để môi trường nước được cải thiện tốt hơn, cần áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp. Cụ thể:

- Tất cả những cơ sở, các nhà máy công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thuộc mọi ngành nghề, lĩnh vực, qui mô dù đóng ở địa bàn nào mà có phát sinh nước thải, rác thải (cả trong sinh hoạt của con người), dù độc hại ít hay nhiều, đều phải tuân thủ vấn đề xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn mới được đưa ra môi trường. Cơ sở nào thải nước, rác thải trực tiếp ra sông rạch, làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí cần phải bị xử lý thật nghiêm khắc và khắc phục xong mới cho hoạt động. Trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc cố tình tránh né việc xử lý chất thải nên có biện pháp chế tài cao nhất là cưỡng chế cho ngừng hoạt động vĩnh viễn và truy tố trước pháp luật, chứ không nên chỉ dừng lại ở mức xử lý phạt hành chính và vẫn cho hoạt động bình thường. Vì xử lý như thế thì họ sẽ không bao giờ tự giác thực hiện nghiêm những qui định của pháp luật.

- Những cơ sở chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản, sản xuất kinh doanh cây con giống... mang tính chất và qui mô công nghiệp, bán công nghiệp, dù tập trung hay nằm phân tán, đều phải có hệ thống xử lý chất thải, nước thải đạt tiêu chuẩn theo qui định thì mới cho đưa ra môi trường. Đặc biệt, khuyến khích làm hệ thống xử lý biogas để sử dụng được nguồn khí sinh học vào nhiều việc hữu ích nhằm tiết kiệm nhiên liệu.

- Nước thải, rác thải tại các chợ, chất thải sinh hoạt đô thị, khu dân cư và của ngành y tế cần phải được tổ chức thu gom, xử lý hợp lý và triệt để hơn, không để chảy, đổ trực tiếp ra sông rạch và tham gia làm ô nhiễm môi trường như hiện nay.

- Riêng trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp truyền thống, ngành chức năng cũng cần tiến hành qui hoạch vùng, qui mô, loại hình sản xuất hợp lý, không để mở rộng vùng nuôi trồng đến độ mất an toàn. Đồng thời, cần tăng cường quản lý giám sát việc tồn trữ mua bán, sử dụng hóa chất, thuốc kháng sinh, các loại nông dược... sao cho an toàn, đúng qui định về chủng loại và đối tượng. Không để người dân sử dụng bừa bãi gây nên nạn ô nhiễm môi trường và tồn lưu trên sản phẩm.

NGUYỄN VĂN THƯỚC


Tỉ phú cá rô

Nguồn tin: BCT, 22/3/2006
Ngày cập nhật: 22/3/2006

Đến chợ Cái Chanh, khu vực Thạnh Thắng, phường Thường Thạnh, quận Cái Răng, hỏi thăm nhà Hai Tỷ nuôi cá rô thì hầu như ai cũng biết. Tên trong giấy của ông ghi Trang Văn Thái, còn tên thường gọi là Hai Tỷ. Mấy năm gần đây, nhờ nuôi cá rô mà thu nhập của ông đã lên đến bạc tỉ nên bà con gán cho biệt danh “Tỉ phú cá rô ”.

Bá nghệ

Hôm trước tôi đã phôn vào nhà “đặt cọc ” buổi gặp ông ngày hôm sau, nhưng khi đến nhà ngó trước sau chẳng thấy bóng dáng ông đâu.Cô con gái út của ông chạy ra niềm nở: “Bữa nào cha em không đi đá banh là ở nhà suốt để lo cho mấy con cá. Hôm nay, ba nói có việc bận đột xuất không đi không được, anh ngồi chờ một tí”. Ngồi lâu sốt ruột, tôi tản bộ vòng vòng tham quan cơ ngơi của ông. Điều khá ấn tượng với tôi là trong khuôn viên sản xuất rộng nhưng mọi thứ từ ao nuôi, cây trồng xen và nhiều vật dụng linh tinh khác được xếp đặt thứ tự. Bao bọc các ao là những con đường nội bộ được trải đá, tráng xi măng có thể đi lại bằng xe hai bánh…

Một lúc sau, ông Hai Tỷ về. Bước xuống “xe ôm” ông vội vã đi vào nhà miệng lầm bầm : “Tốn mấy cuốc xe mất cả trăm ngàn mà còn bị phạt bạc triệu thật là tức”. Thấy tôi ngơ ngác, ông giải thích: “Bây giờ tôi không còn làm đơn lẻ mà đã thành lập hợp tác xã nuôi thủy sản rồi. Giấy phép con dấu đã có nhưng chưa đăng ký mã số thuế nên mấy ông thuế mời ra và ghi biên lai phạt 1.300.000đ vì đăng ký trễ. Quá ức, tôi cự: “Nhà nước khuyến khích làm ăn tập thể, tôi thành lập hợp tác xã cũng vì lẽ đó nay do chưa hiểu luật đăng ký thuế trễ, chứ đâu phải trốn thuế…”. Như đã trút hết cái tức, ông dịu giọng: “Chắc mình phải nhờ địa phương hướng dẫn thêm cách giải quyết”. “Chuyện nuôi cá của chú mấy năm nay ra sao?” – tôi chủ động lái qua chuyện khác. “Ờ năm nay cũng kiếm được vài trăm triệu” – ông đáp lời.

Ông bồi hồi nhớ lại: Năm 1960, lúc đó tuổi chỉ mới đôi mươi, vì là trưởng nam trong gia đình, nên cha mẹ xếp đặt lấy vợ sớm để có cháu ẵm bồng. Gặp lúc giặc giã, ông không muốn “nối giáo cho giặc” đã phải trốn chui trốn nhủi mới thoát đi quân dịch. Khi đất nước hòa bình, ông cũng như những gia đình khác bắt tay vào chăm sóc, cải tạo lại mảnh vườn thửa ruộng của mình. Theo truyền thống sản xuất ở đây, ban đầu ông trồng một vụ lúa mùa trên diện tích 5 công cha mẹ cho, đến những năm 80 chuyển sang trồng quít. Cây cho trái bán được vài mùa thì cả vườn bị bệnh vàng lá. Ông kiên trì phá hết và trồng mới lại, nhưng rồi diện tích vừa trồng cũng lần hồi bị rũ lá, trơ cây. Hết vốn trồng lại, ông đành bỏ mảnh vườn xơ xác, chuyển qua nghề “thương hồ”. Ròng rã hơn 5 năm trời trên chiếc ghe bầu năm tấn, ông cùng vợ rong ruổi khắp nơi lấy gạo chợ, nước sông đỡ dạ, gặp hàng nào cũng quơ đi bán lại kiếm chút ít tiền lời đem về nuôi con. Ông nhớ lại: “Có hôm ngoài trời mưa rả rích, tôi và bả nằm co trong khoang ghe mà không kềm được nước mắt vì nhớ con, nhớ nhà…”.

Muốn giàu nuôi cá

Ông kể tiếp: “Người ta bảo “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Sau mấy năm bôn ba tìm kế sinh nhai, thấy hổng khá, tôi bàn với bả trở về bám vườn ruộng một lần nữa xem sao. Đầu tiên, tôi lên liếp trồng rẫy, nhưng những năm đó đồ rẫy chưa có giá như bây giờ, nên mần mãi mà cũng không lo đủ cái ăn cho bầy con 11 đứa”.

Trằn trọc suy tư, những đêm đọc báo, xem đài thấy có nhiều nông dân trúng cá, tôm trở thành triệu phú, vậy là ông quyết định chuyển sang nuôi tôm, rồi cá lóc , cá tai tượng… Lúc đầu, chưa nắm kỹ thuật, nên vụ nào cũng từ lỗ đến xém lỗ. Không nản chí, sau mỗi vụ nuôi, ông có thêm một ít kinh nghiệm. Cái nào còn “dốt” thì chạy học thêm các nơi. Nghiên cứu kỹ đặc tính sinh học từng loại thủy sản nước ngọt, ông thấy con cá rô là dễ nuôi hơn hết, bởi ngày xưa mấy vùng đất phèn vàng như nghệ cá rô vẫn sống được. Vậy là ông quyết định chọn con cá rô đồng làm đối tượng nuôi chính. Không có vốn thuê cơ giới đào ao, ông huy động toàn bộ thành viên trong gia đình đào bằng tay nửa công đất, rồi thả nuôi 25.000 con giống. Sau 6 tháng, ông thu hoạch hơn 1,2 tấn cá thịt, bán gần 30 triệu đồng, lãi ròng hơn 15 triệu đồng.Thấy mòi làm ăn được, ông mạnh dạn xin vay vốn ngân hàng 50 triệu đồng mướn máy khoan đất thổi thêm 2 ao, diện tích mỗi cái 1 công đất (1.000m2), thả nuôi 100.000 con giống. Vụ đó, do thu hoạch vào lúc thời tiết lạnh, năng suất không cao, nhưng ông cũng có lãi hơn 50 triệu đồng. Có bao nhiêu tiền lãi từ cá ông đều gói ghém sang thêm được 8 công đất, mở rộng diện tích nuôi. Bằng cách “ tích tiểu thành đa”, đến nay ông đã có 8 ao nuôi diện tích 10.000m².Vụ vừa rồi, ông thả nuôi đến 700.000 con cá rô giống, tổng thu nhập 850 triệu đồng, thực lãi 400 triệu đồng. Tính chung, từ vụ nuôi năm 2002 đến 2005 ông đã thu lãi ròng hơn 700 triệu đồng. Bằng số tiền nầy ông đã xây cất lại căn nhà, mua thêm máy khoan đất, máy xay thức ăn cho cá… Vụ nuôi năm nay ông tiếp tục đầu tư vét ao sâu hơn và thả 800.000 con cá rô nuôi ghép 50.000 con cá tai tượng, 2 triệu con cá sặt rằn. Với nét mặt rạng rỡ, ông tự tin nói: “Nếu đến thu hoạch mà giá cá rô 27.000 đồng một ký như bây giờ, thì thu nhập của tôi đạt bạc tỉ như chơi. Theo ông, nuôi cá muốn lời nhiều phải thực hiện 4 đúng: đúng nước, đúng giống, đúng thức ăn và quan trọng là phải đúng thời vụ. Nếu vào mùa lạnh cá trên 4 tháng tuổi sẽ kém ăn , mang trứng không lớn, do đó phải canh làm sao tránh được những tháng đó.

Mặc dù làm giàu nhờ nuôi cá, nhưng tên tuổi của ông Hai Tỷ nổi nhất xóm lại nhờ cái nghề “ mụ cá ”. Tuy trình độ học vấn không cao , nhưng chỉ qua mấy ngày dự học lớp tập huấn của phường tổ chức, người ta thấy ông hối hả chuẩn bị ao cho cá đẻ. Ông nói: “Mình hơn người ta ở chỗ gan dám làm, vừa làm vừa học, lúc đầu cũng trật vuột chứ có tài cán gì”. Và cái tính chịu khó ấy đã giúp ông thạo nghề hơn. Ông nói vui: “Bây giờ tôi nhìn cá lội là biết ngay con nào đực- cái, con nào giống tốt sai con”. Hiện tại, ông có trong tay 2.500 con cá rô bố mẹ tốt, với lượng con giống hùng hậu này, mỗi năm ông cho xuất ao gần 10 triệu cá bột, đáp ứng đủ lượng con giống cho từng vụ nuôi trong gia đình và cung ứng một số cho bà con trong khu vực.

Không chỉ làm giàu cho mình, ông còn luôn sẵn sàng sẻ chia kinh nghiệm làm ăn cho nhiều hộ khác. Chú Nguyễn Minh Khoa, ở chợ Ông Cữu khu vực Thạnh Hòa, có đến 10 công vườn nhưng vẫn không khấm khá. Qua tham quan mô hình và được ông Hai Tỷ tư vấn về kỹ thuật, bán chịu con giống, chú Khoa đã mạnh dạn đầu tư thả nuôi hết các mương vườn. Thế là liên tiếp trong 2 vụ năm 2004 –2005, chú Khoa đã thu lãi hơn 100 triệu đồng từ con cá rô. Ông Nguyễn Văn Tính, Bí thư chi bộ khu vực Thạnh Thắng, nói : “Anh Hai Tỷ đang dẫn đầu khu vực này về làm kinh tế. Từ mô hình của anh, đến nay đã có hơn 20 hộ mạnh dạn làm theo. Những hộ mới nuôi gặp khó, anh đều nhiệt tình hướng dẫn bằng kinh nghiệm của mình. Anh Hai Tỷ hiện là Chi hội phó Chi hội người cao tuổi, còn là… tiền đạo cánh giỏi, đội trưởng đội bóng lão tướng khu vực.Gia đình anh là điển hình về phong trào thể dục thể thao, ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”. Còn ông Lương Hồng Quang, Phó Chủ tịch Hội nông dân quận Cái Răng, nhận xét: “Ông Hai Tỷ không những là nông dân tiêu biểu của phường mà còn là nông dân sản xuất giỏi cấp quận, thành phố nhiều năm liền. Hiện chúng tôi đang đề nghị Trung ương hội tặng bằng khen cho ông. Với ý tưởng muốn có thêm nhiều người làm giàu như mình, ông đã năng nổ vận động 8 hộ khác cùng viết đơn xin thành lập hợp tác xã nuôi thủy sản Thạnh Thắng. Có một người giỏi nghề và nhiệt tình như ông làm chủ nhiệm, tôi tin rằng hợp tác xã này sẽ ăn nên làm ra”.

Ông Hai Tỷ tỏ bày: “Thời buổi này, muốn làm lớn phải làm tập thể. Có vào tập thể thì các doanh nghiệp sẽ thuận tiện hơn trong ký hợp đồng bao tiêu, bên cạnh xã viên còn hợp tác với nhau nhiều khâu nhằm giảm chi phí sản xuất, tăng thêm lợi nhuận. Chính vì lẽ đó, khi được xã viên tín nhiệm bầu làm chủ nhiệm hợp tác xã, biết rằng trách nhiệm của mình nặng nề hơn, nhưng tôi vẫn gắng sức hoàn thành nhiêm vụ”.

Tuổi ông Hai Tỷ năm nay đã gần ngưỡng “thất thập”, nhưng ông vẫn xông xáo như ngày nào. Thấy ông tất bật việc nhà, việc hợp tác xã, người thân khuyên ông xin từ chức chủ nhiệm hợp tác xã cho “khoẻ thân”. Nhưng ông trả lời chắc nịch: “Người ta tín nhiệm mình thì mình cũng không được phụ bạc.Tuy lo nhiều, nhưng giúp được bà con chòm xóm “ ghi bàn” là mình đã thấy vui ở trong lòng”.

Phú Khởi

 


CHƯƠNG TRÌNH PHỐI HỢP HOẠT ĐỘNG GIỮA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM VÀ BỘ THUỶ SẢN NĂM 2006

Nguồn tin: Fistenet, 10/3/2006
Ngày cập nhật: 22/3/2006

 


Khắc phục tình trạng thiếu nguyên liệu cá tra, ba sa": Doanh nghiệp thương thảo tăng giá

Nguồn tin: BCT, 20/03/2006
Ngày cập nhật: 22/3/2006

 


Nuôi cá bống mú thành công tại CaDet (Bình Đại)

Nguồn tin: Btre, 21/03/2006
Ngày cập nhật: 22/3/2006

Nhằm đa dạng hóa nghề nuôi thuỷ sản, Trại thực nghiệm Cadet (Bình Đại) thuộc Trung tâm khuyến ngư Bến Tre đã nuôi thử nghiệm thành công cá bống mú. Với diện tích 8.000m2, thả nuôi 5.000 con, mật độ bình quân 0,5 con/m2. Sau 10 tháng, cá đạt trọng lượng bình quân từ 0,6 - 1,2kg/con, tỷ lệ hao hụt khoảng 30%, sản lượng đạt trên 2 tấn cá thương phẩm.

Đây là loài cá ngon, có giá trị xuất khẩu cao, thị trường tiêu thụ chủ yếu là Đài Loan, Hàn Quốc. Giá cá thương phẩm hiện nay là 110.000 đồng/kg, trừ chi phí, người nuôi còn lãi 50.000 đồng/kg.

Nguyễn Bảy

 


Cua biển hồi sinh!

Nguồn tin: BCT, 21/3/2006
Ngày cập nhật: 22/3/2006

Trước năm 1995, phong trào nuôi cua biển nổi lên khá rầm rộ tại các tỉnh ven biển ĐBSCL. Thế nhưng sau đó, cua nuôi bị lấn át bởi “làn sóng” nuôi tôm sú. Có điều, “ước mơ vàng” từ con tôm sú, với nhiều người, vẫn cứ là... ước mơ, thậm chí phải lận đận vì con tôm sú! May mà cua biển đã kịp thời “tái xuất giang hồ”…

Biển lành... cua hội!

Gia đình bên vợ tôi bán tiệm tạp hóa sát bên sông Băng Cung, xã An Thạnh, huyện Thạnh Phú (Bến Tre) nên chuyện tôi nhập vào những người đi rập cua, cào cua trên sông nước ở đây không khó gì. Mỗi chuyến đi bắt cua giống đôi ba ngày, rất đông ngư dân chèo xuồng đến trước tiệm nhà tôi. Họ mua gạo, mua nhiều thứ cần thiết khác cho một chuyến đi… Tôi bắt chuyện với anh Nguyễn Văn Tài (Tư Tài), một người đi cào cua trên sông Băng Cung, đoạn con sông chảy qua xã Mỹ Hưng. Tư Tài xởi lởi: “Nào giờ chỉ có đi rập cua. Còn đi cào cua là từ mới xuất hiện trong năm nay”. Rồi anh Tư giải thích: Đi rập cua là để bắt những con cua biển lớn cỡ nắm tay trở lên. Rập cua làm bằng hai thanh tre uốn cong, buộc xéo nhau thành hình chữ X, phía dưới là khoảng lưới vuông vức khoảng 3 gang tay. Chính giữa chữ X treo mồi chình (con chình) vì cua rất thích... Khi thả cái rập cua xuống đáy sông, đánh hơi gặp mùi chình, các chú cua xông tới giành mồi. Trên xuồng, bất thần người đi rập giựt cái rập và kéo lên. Cua “hết hồn” rơi xuống lưới, thế là bị tóm. Còn đi cào cua là bắt cua giống ở các bãi, bờ ven sông. Chẳng là, một hai năm gần đây, cua con được sinh sản nhiều vô số kể ngoài cửa biển. Theo con nước lớn, cua con tràn rất sâu vào các sông trong vùng nước mặn ở ven biển ĐBSCL; cua con quến thành từng về đeo bám vào các bập lá dừa nước ven sông. Để dễ bắt loại cua giống này, người ta cứ chèo xuồng thả men theo hai bên bờ sông, chờ lúc nước ròng, người đi bắt chỉ cần khoảng lưới dài chừng thước tây, thế là cào bắt cua con ở những bập lá hay nơi những bãi triền ven sông. “Hiện nay, có người mỗi ngày đi cào cua giống bán đôi ba trăm ngàn đồng. Của trời cho, ham lắm…”, anh Tư vui vẻ khoe.

Tôi xuống xuồng anh Lê Văn Thơm (Sáu Thơm) đi thử một chuyến rập cho biết. Sáu Thơm nhắc khéo: “Có mang theo… “nước mắt quê hương hông?”. Sáu Thơm chép miệng: “Tối, luộc cua, tôi ông lai rai… Đêm trên sông nước, lạnh lắm!”.

Tháng ba, bầu trời xanh cao trong vắt, gió chướng muộn nườm nượp kéo về thổi thông thống trên sông Băng Cung. Trên sông Băng Cung nước đã mặn lè, một hoạt cảnh vô cùng sống động với từng đoàn xuồng kéo nhau đi rập cua. Một đoàn xuồng đi rập cua khoảng 30 chiếc, mà theo Sáu Thơm cho biết, để tiết kiệm sức chèo, tất cả hùn tiền lại rồi mướn một chiếc ghe máy làm đầu tàu để kéo cả đoàn xuồng đi hết điểm này đến điểm khác… săn cua. Xuồng chúng tôi ra đến vàm Ông Lễ trên sông Hàm Luông thì dừng lại ở đó, Sáu Thơm chọn địa điểm “ngon ăn” rồi lần lượt thả rập cua xuống sông. Tất cả đã mai phục sẵn sàng, chỉ còn chờ con nước lớn. Giọng Sáu Thơm khẽ khàng: “Nước sông bắt đầu lớn hoặc sắp giựt ròng, tức nước chảy, thì cua mới đi ăn mồi”.

Hoàng hôn buông nhanh nơi cửa sông Hàm Luông, con nước trên sông cũng bắt đầu nhửng lớn. Sáu Thơm chèo xuồng đến một chiếc phao trắng nổi sóng sánh trên mặt sông để làm dấu cho cái rập cua đã thả xuống nước. Trên xuồng, Sáu Thơm chồm người xuống, tay vớ lấy sợi dây từ cái rập rồi giựt mạnh lên. Anh cười đắc chí: “Vô mánh. Con cua này chắc chừng nửa ký lô…”.

Giờ đã tới màn lai rai. Đứng trên xuồng, Sáu Thơm gọi í ới qua những xuồng bạn đang rập cua gần đó: “Tựu, tựu… mấy cha ơi…”. Trong lúc lúi húi luộc cua, Sáu Thơm tâm sự: “Ở vùng này, bây giờ ai cũng nuôi tôm, ruộng lúa cứ biến mất dần, mất dần. Nhưng ngặt nỗi, nuôi tôm như… mua vé số và tôi cũng là một người muốn… chết giấc vì tôm! Trước đây giống cua biển rất hiếm, muốn có con giống để nuôi mua giá mắc thấy mồ. Còn bây giờ, bỗng dưng…”. “Không bỗng dưng đâu anh Sáu à. Chắc là biển lành… cua mới tựu về, sinh sản như rươi” - tôi nói với anh Sáu như vậy.

Trước nguồn cua giống xuất hiện nhiều vô kể, thời gian gần đây, những người đi rập cua biển (cua lớn) tiện thể làm luôn rập cua giống. Chiếc rập cua giống chẳng khác gì chiếc rập cua lớn, chỉ có phần lưới dưới rập là dùng lưới có khoảng hở nhỏ hơn. Còn mồi để “dụ” cua giống, thay vì cua lớn là mồi chình thì cua giống là con ruốc… Sáu Thơm khoe: “Cua giống cỡ đầu đũa tôi bán cho người nuôi 500 đồng/con, bằng cỡ ngón tay 1.000 đồng/con. Mỗi chuyến đi rập cua tôi bán cho họ cả thùng thiếc. Đỡ lắm…”.

Chờ cho đến Trung thu

Hai năm qua, diện tích nuôi cua, không chỉ ở Bến Tre mà nhiều nơi khác như Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, đều tăng nhanh. Hiện nay, ở những vùng ven biển các tỉnh này, có thể nói “nhà nhà nuôi cua”. Hai nguyên nhân chủ yếu đưa diện tích nuôi cua tăng mạnh là: nguồn cua giống từ thiên nhiên rất dồi dào, giá rẻ, và nuôi tôm sú bị chết tràn lan, nên nông dân trở bộ sang nuôi cua với hy vọng gỡ gạc. So với trước đây (lúc phong trào nuôi cua trong vuông rộ lên ở ĐBSCL, khoảng năm 1993), môi trường nuôi cua trong vuông bây giờ đã được cải thiện hơn rất nhiều, nhất là hệ thống cấp thoát nước vào vuông nuôi cua - sự thừa hưởng từ hệ thống thủy lợi mặn nuôi tôm sú. Đây là điều kiện tốt giúp con cua phát triển nhanh, ít bệnh bởi những người nuôi cua bật mí là con vật bò ngang này vốn ăn tạp nhưng khi ở thì chúng chọn chỗ ở “rất sang” (sạch). Nuôi cua từ con giống còn nhỏ cỡ đầu đũa, hình thức nuôi rất thoáng. Thoạt đầu, trên một vuông nuôi cua, người ta khỏi cần dừng vách lá hay lưới bao quanh vuông, cứ thả nuôi, cho cua ăn mồi, cho cua tự do cư trú, bao giờ cua chớm lớn thì mới dừng lưới quanh vuông để giữ chân cua. Một hình thức nuôi khác là thả cua nuôi xen trong ao nuôi tôm sú quảng canh hay bán công nghiệp. Thức ăn cho cua cũng nhẹ hơn gấp nhiều lần so với thức ăn dành cho tôm sú, thường cua rất thích ăn mồi con ruốc tươi hoặc ruốc khô. Cua cũng rất thích ăn mồi… cá biển ương thối. Song, người nuôi ngại cho cua ăn những thứ trên vì nước trong vuông nuôi bị ô nhiễm. Cua giống từ nhỏ cỡ đầu ngón tay, nuôi chừng 6 tháng sẽ trở thành cua Y (cua vô hạng để bán, con khoảng ½ kg), nuôi khoảng 8 tháng cua sẽ có gạch điều. Và theo chu kỳ sinh sản của cua, đến dịp Tết Trung thu là thời điểm chín muồi cua có gạch điều, cua bán có giá nhất trong năm…

Anh Tám Em, một gia đình nuôi thủy sản tại xã An Thạnh, thổ lộ: “Năm 2005, khi nuôi tôm sú, mấy đứa em gái tôi thả thêm cua giống xuống ao tôm. Kết quả: Tôm “chai” (nuôi lâu lớn) còn con cua thì lại về ngược. Lúc thu hoạch cua, vài ba bữa đã thấy em nó mang ra chợ một hai bao cua, bán 1-2 triệu đồng, cứ vậy mà tụi nó bắt cua lên dài dài, bán lai rai đôi ba tháng. Bạc chục triệu như chơi…” Và Tám Em thốt lên: “May mà có… con cua…”. Quả vậy, “cái khó ló cái khôn”. Rất nhiều người nuôi thủy sản ở ven biển ĐBSCL đã “gỡ gạc” lại những mùa tôm thất bát từ con cua biển và hiện nay, họ rất hy vọng vào vụ thu hoạch cua 2006 sắp đến. Mừng quả là có mừng. Song, đến đây, tôi và anh Tám Em lại gặp nhau ở một mối lo. Tôi nói: “Cha… nhà nhà nuôi cua, cung nhiều hơn cầu là cái chắc. Bởi lẽ, cua đang xuất khẩu là cua sống, nguyên con (nhưng số lượng cũng hạn chế), chớ hàng cua chế bien xuất khẩu để tạo đầu ra lớn, giá trị kinh tế cao, thì chưa nghe nói đến nhiều…”. Tám Em tư lự: “Sau Tết Trung thu 2005, cua gạch điều có lúc lên trên 100.000 đồng/kg. Thôi, hãy chờ đến Tết Trung thu năm nay coi sao…”.

PHAN LỮ HOÀNG HÀ


Trần Văn Thời có 30 hộ nuôi cá đồng công nghiệp

Nguồn tin: CM-RTV, 20/3/2006
Ngày cập nhật: 21/3/2006

Nghề nuôi cá đồng công nghiệp phát triển khá mạnh ở huyện Trần Văn Thời trong mấy năm gần đây. Hiện nay, trên địa bàn huyện có 30 hộ thực hiện mô hình này với diện tích khoảng 12 hecta.

Nuôi cá đồng công nghiệp cho người nông dân thu nhập khá cao trong khi tỉ lệ rủi ro rất thấp. Theo tính toán, một vụ nuôi từ 4,5 – 5 tháng sẽ cho năng suất hơn 10 tấn/hecta. Trung bình, cứ 1 ngàn mét vuông nuôi cá cho mức thu nhập khoảng 60 triệu đồng/vụ, sau khi trừ chi phí, người nuôi có lãi 30 triệu.

Nuôi cá đồng công nghiệp đã khẳng định hiệu quả kinh tế, tuy nhiên để thực hiện mô hình này, người dân cần phải có vốn tương đối lớn. Bên cạnh đó, tình trạng trộm cắp cá cũng làm cho họ không mạnh dạn đầu tư./.

PV: Trần Tuấn

 


Nuôi thủy sản ở bán đảo Cà Mau

Nguồn tin: ND, 20/3/2006
Ngày cập nhật: 21/3/2006

Bán đảo Cà Mau có các vùng sinh thái nước ngọt-mặn-lợ đan xen. Ðể khai thác lợi thế này, các đơn vị trong vùng tiếp tục chỉ đạo chuyển đổi sản xuất bền vững. Với bước đi và cách làm phù hợp đã mở rộng diện tích nuôi đa con đạt hiệu quả cao, phấn đấu trở thành một vùng nuôi trồng, xuất khẩu thủy sản chủ lực.

Hiệu quả từ một chương trình đầu tư

Bán đảo Cà Mau (BÐCM) có diện tích tự nhiên gần một triệu ha, gồm toàn bộ địa bàn hai tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và các huyện An Biên, An Minh của tỉnh Kiên Giang. Nằm giáp Biển Ðông và Biển Tây, với chiều dài bờ biển hơn 307 km, BÐCM có hàng chục cửa sông lớn ăn sâu vào nội địa, tạo những lợi thế để phát triển kinh tế nông-ngư-lâm nghiệp. Với nhiều vùng sinh thái đa dạng, mặn-ngọt-lợ đan xen, cho nên ở đây đã hình thành, phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện với nhiều loại cây con, nhất là nuôi trồng và khai thác thủy sản.

Ðể khai thác thế mạnh của vùng kinh tế này, từ những năm 90 của thế kỷ trước đến nay, Chính phủ đã cho triển khai nhiều dự án, công trình về thủy lợi, giao thông, điện... với nguồn vốn đầu tư rất lớn, với quyết tâm và mục tiêu là dẫn ngọt từ sông Hậu về tưới tiêu, tăng mùa chuyển vụ, tăng sản lượng cây trồng, vật nuôi trong toàn vùng. Tiêu biểu trong những dự án này là chương trình thủy lợi dẫn ngọt từ sông Hậu về cho vùng Quản Lộ Phụng Hiệp. Ðể đưa nước ngọt về tắm mát, chảy sâu vào nội đồng, với khoảng cách gần 200 km từ sông Hậu về, trong đó điểm xa nhất là Cà Mau, là một việc làm gian nan, phức tạp bởi tính đặc thù của toàn vùng là địa hình kênh rạch cắt khúc, chế độ thủy văn bán nhật triều, đất thường xuyên bị xoáy lở, nửa mặn vào mùa khô, nửa ngọt vào mùa mưa... Với đặc điểm này, toàn bộ hệ thống thủy lợi của vùng BÐCM trong thời gian qua được đầu tư lớn, xây kiên cố vững chắc để trữ nước. Từ năm 1990 đến nay, nhiều công trình thủy lợi gồm kênh, cống cấp 1, 2 đã hình thành và hơn 8.000 km kênh thủy lợi nội đồng được đưa vào khai thác, khép kín cho toàn bộ tuyến quốc lộ 1A. Ðáng kể nhất là hệ thống cống đập âu thuyền Tắc Thủ, với vốn đầu tư gần 80 tỷ đồng, nằm trên địa bàn tỉnh Cà Mau, được đưa vào sử dụng cuối năm 2005. Công trình đầu mối này có khả năng ngăn mặn, giữ và tiêu thoát nước trực tiếp cho phần lớn diện tích các huyện U Minh, Thới Bình của Cà Mau và một phần diện tích của các huyện Giá Rai, Phước Long và Hồng Dân của tỉnh Bạc Liêu. Các công trình thủy lợi đã phát huy hiệu quả; là những cống đầu mối hữu ích giúp địa phương chủ động đóng mở cống điều tiết mặn, ngọt phục vụ chuyển đổi sản xuất cây trồng, vật nuôi, nhất là cho nuôi tôm. Ngoài ra, ngành nông nghiệp và nhân dân trong vùng đã tích cực làm thủy lợi: đắp đê, đào kênh, xây cống... để đáp ứng yêu cầu thâm canh, tăng vụ, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi. Việc dẫn ngọt từ sông Hậu đã về "tắm mát", chảy sâu vào đồng đất 70 nghìn ha của Bạc Liêu, 50 nghìn ha của Cà Mau và 66 nghìn ha của Kiên Giang. Hệ thống thủy lợi này cũng tạo điều kiện giúp nông dân nâng vòng quay của đất lên gần hai lần, diện tích sản xuất lúa 2-3 vụ tăng hơn 200 nghìn ha; tổng sản lượng lúa tăng gần một triệu tấn. Cùng với chương trình ngọt hóa, các địa phương trong vùng tích cực triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng về điện, đường, trường, trạm, nước sạch, vệ sinh môi trường, đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo. Ðến nay, đường xe hai bánh đã đến 100% số xã, ấp trong toàn vùng, trong đó 60% số xã có đường ô-tô. Riêng điện lưới quốc gia đã về đến tất cả các xã, cụm dân cư, khu kinh tế kỹ thuật với 80-85% số hộ dân nông thôn sử dụng điện; bộ mặt nông thôn khởi sắc.

Hướng đến nghề nuôi trồng thủy sản bền vững

Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bạc Liêu Lương Ngọc Lân cho rằng: Những năm gần đây, toàn bộ vùng ngọt hóa BÐCM đã có sự thay đổi lớn. Ðó là việc mặn hay ngọt, nuôi tôm hay trồng lúa? Từ thực tiễn sản xuất, với cách nghĩ và cách làm của mình, nông dân ở đây cho rằng, bài toán hiệu quả nhất vẫn là nuôi tôm. Sau năm năm chuyển đổi sản xuất, diện tích nuôi trồng thủy sản của Bạc Liêu lên đến hơn 100 nghìn ha. Doanh thu nuôi trồng thủy sản bình quân đạt 54 triệu đồng/ha/năm. Chuyển đổi sản xuất đã góp phần làm tăng trưởng GDP trung bình 14,5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí cũ giảm xuống còn 5%, trung bình mỗi năm giảm 4.500 hộ nghèo. Trong năm năm vừa qua, Bạc Liêu đã đầu tư hơn 4.200 tỷ đồng xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản và trồng lúa; trong đó vốn ngân sách nhà nước 1.000 tỷ đồng, nhân dân và các thành phần kinh tế 3.200 tỷ đồng. Tuy nhiên, bài toán về thủy lợi, nhất là nguồn nước nuôi trồng thủy sản trong vùng ngọt hóa BÐCM chưa phải đã có đáp số đầy đủ. Gần đây, Bạc Liêu tiếp tục chỉ đạo nhằm tháo gỡ ở những vùng khó khăn về nguồn nước, con giống, kỹ thuật, vốn... Vấn đề môi trường bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng như thủy lợi, nhất là vùng mới chuyển đổi và cộng đồng quản lý của người nuôi, được quan tâm nhiều hơn. Tỉnh cũng xác định, triển khai vùng nuôi an toàn, không có dư lượng thuốc kháng sinh để bảo đảm khả năng xuất khẩu. Ðến nay, Bạc Liêu đã có hơn 40 nghìn ha gieo trồng lúa chất lượng cao, gần 40 ha nuôi thủy sản kết hợp và tiếp tục mở rộng diện tích nuôi đa con lên 60 nghìn ha vào cuối năm 2006; phấn đấu trở thành địa phương đi đầu ở vùng BÐCM trong việc phát triển mô hình sản xuất đa canh, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.

Cà Mau là địa phương bắt đầu nghề nuôi tôm cách đây hơn 20 năm, nhưng đến năm 1999 thì mới trở thành vấn đề nóng bỏng, với nhiều vụ nông dân tự tiện phá bờ, bửa đập để đưa nước mặn vào đất lúa nuôi tôm. Chắt lọc, đúc kết từ thực tiễn sản xuất, đồng thời để đáp ứng nguyện vọng làm giàu của nông dân, năm 2001, Cà Mau chủ trương chuyển đổi sản xuất từ độc canh cây lúa kém hiệu quả sang nuôi tôm trên diện rộng. Ðến nay, toàn tỉnh có khoảng 230 nghìn hộ nuôi tôm trên diện tích gần 250 nghìn ha. Năm 2005, sản lượng tôm nuôi của tỉnh đạt gần 100 nghìn tấn; kim ngạch xuất khẩu 510 triệu USD. Tuy nhiên, năng suất tôm nuôi là quá thấp, chưa tương xứng tiềm năng đất đai và diện tích ngày càng tăng lên.

Giám đốc Sở Thủy sản Cà Mau Phạm Văn Ðức lo lắng: Ðây là điều đáng được suy nghĩ và cần tìm nguyên nhân, đề ra giải pháp tốt hơn cho con tôm trên các vùng chuyển dịch. Kinh nghiệm mà Cà Mau rút ra trong quá trình chuyển đổi lâu nay là khắc phục sự độc canh con tôm; chỉ đạo nông dân nuôi đa con trên cùng diện tích. Không dừng lại ở con số 20-30 nghìn ha hiện nay, Cà Mau phấn đấu nâng diện tích nuôi đa con lên từ 80 đến 100 nghìn ha trong thời gian tới ở tất cả các vùng sinh thái đa dạng của tỉnh. Ðể đạt được mục tiêu, tỉnh tiếp tục triển khai đồng bộ, từ khâu khảo sát, quy hoạch đến bảo đảm thực hiện nghiêm túc lộ trình và các nội dung, mục tiêu quy hoạch; từ việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cấp thoát nước, sản xuất con giống đạt chuẩn, đào tạo hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân trong tổ chức nuôi trồng, phòng, chống dịch bệnh đến việc xác định và xây dựng các mô hình sản xuất mẫu cho nông dân... Chúng tôi đến tham quan mô hình sản xuất đa con của anh Nguyễn Văn Hận ở xã Tân Thành, TP Cà Mau. Với 4 ha đất, những năm đầu chuyển đổi sang nuôi độc canh con tôm, thu hoạch rất kém. Những năm gần đây, anh Hận cải tạo lại thành hai khu, một sinh thái nước mặn-lợ chuyên nuôi tôm, cá, cua kết hợp; phần còn lại đắp bờ bao, nuôi cá chình, bống tượng, trồng lúa, trên bờ trồng rau màu và cây ăn quả. Trừ các chi phí sản xuất, anh Hận còn lãi gần 250 triệu đồng/năm. Kinh nghiệm của anh Hận là, vùng mặn-ngọt của BÐCM rất thích hợp nuôi trồng đa con; phải giữ cả hai bên để có thu hoạch đều, không lo việc mất mùa; bên mặn cho thu hoạch tôm; bên ngọt thu hoạch lúa, rau màu... Ðẩy mạnh sản xuất đa con không còn là chuyện riêng của gia đình anh Hận, giờ đây trở thành việc của đông đảo nông dân xã Tân Thành.

Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản trong toàn vùng BÐCM hiện nay là hơn 430 nghìn ha; trong đó chủ yếu là nuôi sinh thái, nuôi quảng canh cải tiến, nuôi kết hợp tôm-lúa-cá... với số hộ sản xuất đạt hiệu quả cũng tăng rõ rệt. Tuy nhiên, nghề nuôi tôm ở đây còn thiếu vững chắc và không ổn định; tình trạng tôm chết, mất mùa diễn ra thường xuyên. Trong khi đó, ngành chủ quản và nhiều địa phương còn thụ động, chậm triển khai quy hoạch tổng thể cho toàn vùng, trong đó vấn đề chuyển dịch nuôi trồng thủy sản theo hệ sinh thái mặn-ngọt-lợ đan xen chưa được xác lập một cách hợp lý. Ngoài ra, hệ thống dịch vụ cung ứng tôm giống, thức ăn, chuyển giao kỹ thuật, chế biến, kiểm soát môi trường, cũng như cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi thủy sản không theo kịp.

ÐẶC điểm của vùng BÐCM là nước mặn-ngọt-lợ đan xen quanh năm, có thể sản xuất, gieo trồng nhiều loại cây con, nhất là nuôi tôm. Ðể khai thác lợi thế, tiềm năng trong vùng, Chính phủ đã giao cho một số bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủy sản... phối hợp các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang điều chỉnh quy hoạch gắn với chuyển dịch cơ cấu sản xuất phù hợp, sát thực tế hơn. Theo đó, diện tích nuôi trồng thủy sản toàn vùng từ nay đến năm 2010 là ổn định khoảng 400 nghìn ha với các mô hình chuyên tôm, nuôi đa con, nuôi kết hợp tôm-lúa-tôm-rừng cả trong điều kiện mặn, ngọt, lợ. Về sản xuất lương thực, tạo điều kiện giúp nông dân hướng tới làm lúa an toàn, chất lượng cao và trồng cây lâu năm có giá trị kinh tế. Dự kiến, toàn bộ vốn đầu tư cho việc thực hiện dự án điều chỉnh quy hoạch BÐCM là hàng nghìn tỷ đồng, gồm các hạng mục: hệ thống thủy lợi linh hoạt chủ động mặn-ngọt; trạm trại sản xuất con giống, bảo quản chế biến sản phẩm, chuyển giao khoa học-kỹ thuật, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa cho nông dân... Hiện nay, các địa phương trong vùng BÐCM tiếp tục điều chỉnh, triển khai quy hoạch; nông dân tích cực đầu tư, chuyển đổi sản xuất. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, việc điều chỉnh quy hoạch, chuyển đổi sản xuất ở BÐCM phải được các nhà khoa học và đông đảo người dân đồng tình. Phải biết khai thác, biến lợi thế đa dạng sinh thái thành lợi thế kinh tế, trong đó lợi thế số một ở đây là nuôi tôm và nuôi các loài thủy sản có giá trị khác. Các địa phương cũng cần có bước đi và giải pháp cụ thể; không chuyển dịch theo kiểu tự phát tràn lan như đã qua; không phải chỗ nào cũng đưa nước mặn vào sâu nội đồng làm phá vỡ, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái toàn vùng.

NGỌC QUÂN

 


Betagro đầu tư sản xuất thức ăn sạch tại VN

Nguồn tin: NLD, 20/3/2006
Ngày cập nhật: 20/3/2006

 


Đoàn cán bộ tỉnh Ninh Thuận đến tìm hiểu mô hình nuôi tôm sú công nghiệp tại huyện Bình Đại

Nguồn tin: BTre, 20/3/2006
Ngày cập nhật: 20/3/2006

 


Giải pháp bình ổn giá cá tra, basa nguyên liệu chế biến xuất khẩu

Nguồn tin: WAG, 20/3/2006
Ngày cập nhật: 20/3/2006

 


Chỉ còn hơn 600 lồng bè nuôi cá tra, ba sa

Nguồn tin: WAG, 20/3/2006
Ngày cập nhật: 20/3/2006

Điều tra mới đây của ngành Nông nghiệp cho thấy, tổng số lồng bè đang nuôi cá tra, ba sa toàn tỉnh chỉ còn 604 cái. Số lượng này hiện ở mức thấp nhất từ trước đến nay, cụ thể . So năm 2004 giảm đến 1.153 cái và so thời điểm tháng 10-2005 và gần đây lại giảm tiếp 134 cái. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này do nuôi cá tra, ba sa lồng bè không hiệu quả bằng nuôi hầm và đăng quầng.

Toàn tỉnh có 5.917 hộ đang nuôi cá tra hầm, đăng quầng với quy mô diện tích 778 ha.

QUANG DUY


Giá cá tra tăng, người nuôi lại lo!

Nguồn tin: TT, 20/03/2006
Ngày cập nhật: 20/3/2006

 


Tỷ phú dưới chân đèo Lý Hòa

Nguồn tin: ND, 15/3/2006
Ngày cập nhật: 19/3/2006

Dăm năm trước, những người lạc quan nhất cũng khó mà hình dung: có ngày, dải cát trắng quanh năm chỉ nắng, gió và sóng biển dưới chân đèo Lý Hòa (bên con đường thiên lý bắc nam), thuộc xã Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình, lại trở thành nông trại trù phú, rộn rã tiếng xe cộ vào ra như hôm nay. Ngạc nhiên hơn, cơ ngơi bạc tỷ - trang trại nuôi ba ba, ếch, đà điểu lớn nhất nhì tỉnh lại được gây dựng bởi bàn tay một người phụ nữ vốn chân lấm tay bùn. Chị là Nguyễn Thị Minh.

Từ làm thuê, thành bà chủ

Chị Minh sinh ra và lớn lên trên dải cát trắng của huyện Bố Trạch. Người dân nơi này thường nói với nhau, đã là con của miền cát trắng này thì dù dẫm chân trên cát bỏng cũng không được cúi đầu.Với chị, không những không được cúi đầu trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên và càng không được cúi đầu trước cái nghèo, cái khổ. Và, dường như, cái khắc nghiệt của thời tiết đã luyện cho chị cùng con người nơi đây tính cần cù, ham học hỏi.

Ba năm trước, kinh tế gia đình chị không phải quá khó khăn. Nhưng tất cả đều một tay chồng vất vả làm ra; còn chị chưa có nghề ngỗng gì ổn định. "Một hôm, thấy ti-vi đưa tin có người nhờ nuôi ba ba, đà điểu trên cát mà trở nên khấm khá. Tui mới chợt nghĩ: Người ta làm được, răng mình không làm?" - chị kể. "Rứa là tui tìm đến tận nơi có trang trại nuôi ba ba (Thanh Hóa), Ðà Ðiểu (Bình Thuận) xin vừa làm vừa học". Thấy chị thân gái một mình lặn lội, làm việc siêng năng, chị cũng nói thiệt tình nguyện vọng muốn học tập để về quê làm ăn, nên được chủ quý, tận tình chỉ bảo. Ròng rã hàng tháng trời, chị tình nguyện làm đủ mọi việc từ vệ sinh chuồng trại, chuẩn bị thức ăn, phụ giúp nhân giống...

Năm 2003, khi đã có lưng vốn kinh nghiệm, chị quyết định trở về lập trại nuôi đà điểu, ba ba ngay trên dải cát dưới chân đèo Lý Hòa quê mình. Nghe tin chị Minh vay ngân hàng tiền tỷ mở trang trại nuôi ba ba, đà điểu trên cát, người ta không khỏi xì xào. Có người nói chị như thế khác nào đem tiền chôn vùi dưới cát, làm liều rồi có ngày trắng tay. Chị bảo: Người ta can ngăn cũng phải. Ðâu xa chưa nói, chứ còn huyện ni, tỉnh ni chưa có tiền lệ. Tôi nghĩ mình liều thật, nhưng là liều có tính toán, kinh nghiệm, kỹ thuật cả. Tôi tin mình đúng, mình làm được.

Một điều thuận lợi cho chị Minh, vào thời điểm đó, hội khuyến nông, hội nông dân tỉnh đang thí điểm chương trình chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, nên khi chị mạnh dạn trình bày ý định với hội, hội không chỉ giúp chị vay vốn mà cử kỹ sư nông nghiệp về tận nơi thiết kế ao, chuồng, kiểm tra nồng độ nước...

Từ chỗ đi làm thuê, nay chị là chủ một trang trại ước tính hơn 5 tỷ đồng, với hơn chục nhân công. Chị còn thuê hẳn kỹ sư về ăn ở, làm việc ngay tại trang trại.

Làm giàu trên cát trắng

Cách đây hai năm, trại chị Minh chỉ vẻn vẹn 1 ha với vài nghìn con ba ba. Chuồng trại khi đó chỉ là tạm bợ. Nhưng nay, chị mở rộng trang trại thêm 3 ha dọc dưới chân đèo. Ao hồ được xây kè, chuồng trại kiên cố hóa. Theo ông Phan Xuân Hiêm, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Bố Trạch, xét cả mức độ hoàn thiện, sự phong phú và hiệu quả thì trang trại của chị Minh thuộc vào lớn nhất tỉnh.

Chị đang có trong tay 20.000 con ba ba cả thịt lẫn giống; đàn đà điểu 11 con; còn ếch chỉ có thể ước tính khoảng 100.000 con. Chị cho biết: "Mỗi tháng có thể xuất trại 20.000 con ếch giống với giá 1.000đ/con. Ếch thịt bán lẻ cho các nhà hàng, quán cơm theo giá chợ. Ba ba thịt có giá từ 180.000-200.000 đ/kg tùy theo bán buôn hay bán lẻ". Tính sơ sơ, mỗi tháng thu về vài chục triệu đồng.

Ðà điểu hiện rất được giá, trên dưới 250.000 đ/kg, song chị không bán bởi chị xác định vật nuôi "mũi nhọn" vào những năm tới là đà điểu. Tuy nhiên, cái khó là việc nhân giống đà điểu hiện phải chuyển trứng ra Hà Nội thuê ấp sau đó chuyển đà điểu con vào. Như thế giá đắt mà độ rủi ro lại cao. Còn lò ấp Trung Quốc lại không mấy hiệu quả. Tôi mách nước: Nghe nói các cán bộ trại giam Ðồng Sơn (thành phố Ðồng Hới) mới thử nghiệm thành công nhân giống đà điểu bằng lò ấp tự tạo. Chị hồ hởi: "Thiệt hả chú? Rứa là mơ ước lập trại theo kiểu châu Phi của tui ngay tại đây có cơ thành rồi!". Vậy còn đầu ra? - Tôi hỏi. Chị khoát tay: "Không lo mô chú nờ. Mấy bác trên hội (nông dân) nói với hiệu quả bước đầu như ri, việc nhân rộng mô hình nuôi ba ba, đà điểu trên cát chỉ trong nay mai. Chỉ sợ không có đủ mà bán thôi". Nói đoạn, chị xin phép nghe điện thoại vì có tiếng tít tít. Thấy chị bật cái Sam Sung còn vụng về, tôi cố nhịn cười. Chị Minh cũng cười: "Mới sắm. Chỉ biết gọi với lại để khách gọi thôi, chứ dưới đèo đây, điện còn khó lấy mô ra điện thoại bàn". Trở lại chuyện đầu ra sản phẩm, chị bảo: "Ðó, chú thấy chưa, có khách ở Hà Tĩnh đòi xuất ngay hai vạn ếch giống ngay trong sáng ni. Rồi mai phải chở ba ba ra Quảng Trạch cho khách quen nữa".

Sáng chúng tôi đến, cả kế toán lẫn kỹ sư đều đi hỗ trợ kỹ thuật nuôi ba ba thịt cho những trại nhỏ lấy giống thường xuyên ở đây. Chị Hiền, một người làm ở trang trại này từ những ngày đầu cho biết: "Ði lên từ hai bàn tay trắng, tự mày mò, học hỏi rồi có được cơ ngơi như hôm nay nên ai nghèo mà có chí làm ăn chị đều bày vẽ cách chăm sóc, chuồng trại mà không lấy một đồng mặc dù chị có cả một công ty kinh doanh chuyên tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật nuôi ba ba, ếch".

Từ nông dân chân lấm bùn đất trở thành chủ một trang trại bạc tỷ, rồi giám đốc công ty. Chưa bằng lòng, chị đang ấp ủ một dự định táo bạo, chị cho hay: "Tui muốn khách tham quan đến Phong Nha - Kẻ Bàng, biển Ðá Nhảy phải ghé trang trại của tui, cưỡi đà điểu khám phá thiên nhiên còn lắm hoang sơ dưới chân đèo".

Trong khi ngư dân nhiều tỉnh miền trung đang lao đao vì nuôi tôm trên cát thì thành công của mô hình trang trại chị Minh có thể sẽ ra một lối đi mới cho người dân dọc dải cát miền trung này.

 


Kiểm soát chặt chẽ chất lượng tôm giống

Nguồn tin: ND, 17/3/2006
Ngày cập nhật: 19/3/2006

Mặc dù chưa bước vào thời điểm nuôi tôm chính vụ, nhưng tại các tỉnh ven biển, nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đã xảy ra tình trạng tôm nuôi bị chết. Theo báo cáo của các địa phương, từ đầu năm đến nay, diện tích tôm nuôi bị chết khoảng 100 nghìn ha. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa kiểm soát được chất lượng tôm giống.

Vụ nuôi trồng Thủy sản (Bộ Thủy sản) cho biết, tình trạng tôm nuôi bị chết chủ yếu do các nguyên nhân: Thả nuôi không đúng thời vụ vì người dân có tâm lý thả tôm sớm sẽ thu hoạch sớm và bán được giá cao; người nuôi tôm không tuân thủ quy trình kỹ thuật nuôi tôm như cải tạo ao, đầm, hệ thống cấp, thoát nước; chất lượng tôm giống kém, chưa kiểm soát được tình trạng nhập tôm giống từ các địa phương; việc chỉ đạo sản xuất, tập huấn kỹ thuật nuôi tôm tại các địa phương chưa chặt chẽ. Năm 2005, diện tích nuôi tôm của tỉnh Bạc Liêu đạt 112.000 ha, cần đến 11 tỷ con tôm giống. Tuy nhiên, 112 cơ sở sản xuất giống trên địa bàn tỉnh mới đáp ứng khoảng 20% nhu cầu tôm giống. Lượng tôm giống còn lại chủ yếu nhập từ các tỉnh miền trung. Năm 2005, Trung tâm Khuyến ngư tỉnh xét nghiệm 2.326 mẫu tôm giống thì phát hiện gần 50% số mẫu kém chất lượng; trong đó có 941 mẫu nhiễm MBV (bệnh còi), 184 mẫu nhiễm vi - rút đốm trắng. Thanh tra Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản kiểm tra 1.489 phương tiện vận chuyển gần một tỷ con tôm giống nhập vào tỉnh, phát hiện 123 phương tiện vi phạm, với lượng con giống kém chất lượng lên đến hàng triệu con. Từ đầu vụ đến nay, tỉnh Trà Vinh có 6.400 hộ thả nuôi với 338 triệu con tôm giống trên diện tích 9.337 ha. Nhưng ngành chỉ mới kiểm dịch được 66,1 triệu con giống sản xuất tại địa phương và 17 triệu con giống nhập. Được biết, năm 2006, nhu cầu tôm giống của Trà Vinh khoảng ba tỷ con, trong khi hơn 110 trại sản xuất giống trong tỉnh mới đáp ứng được khoảng 45% nhu cầu, số còn lại phải nhập từ các nơi khác về. Ông Phạm Văn Đức, Giám đốc Sở Thủy sản Cà Mau nhận định: năm 2006, nông dân trong tỉnh thả nuôi 240.000 ha, cần 11 tỷ con tôm giống, đa số phải nhập từ các tỉnh. Nếu như các năm trước, tỷ lệ tôm giống kém chất lượng chiếm 70-80% lượng tôm giống thả nuôi, thì nay giảm xuống còn 50%, vẫn ở mức đáng lo ngại.

Từ nhiều năm nay, giá trị xuất khẩu tôm luôn chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản, chủ yếu là từ tôm nuôi. Tuy nhiên, việc nuôi tôm hằng năm thường gặp khó khăn, nhất là đầu vụ luôn thiếu tôm giống, dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán tôm giống. Ở nhiều địa phương, do không kiểm soát được chất lượng tôm giống, nên người dân mua phải tôm giống nhiễm bệnh, gây thiệt hại đáng kể. Bài học rút ra từ các năm trước cho thấy, việc quản lý chất lượng tôm giống tại nơi sản xuất, trên đường lưu thông, đến nơi tiêu thụ sẽ quyết định đến an toàn dịch bệnh tôm nuôi. Việc nuôi tôm liên tục 2-3 vụ/năm đẫn đến mùa khô không đủ nguồn nước cấp, nhiệt độ trong ao nuôi tôm biến đổi lớn làm cho tôm nuôi bị chết hàng loạt. Việc nuôi tôm liên tục trên một diện tích đã làm môi trường vùng nuôi nhanh chóng bị ô nhiễm, phát sinh mầm bệnh gây hại cho tôm nuôi. Nhiều nơi khi tôm nuôi vừa bị chết do nhiễm bệnh đã tiến hành thả tôm giống ngay, không có thời gian xử lý tiêu trùng.

Chủ động phòng, tránh dịch bệnh xảy ra trong vụ nuôi tôm, ngay từ đầu năm, Bộ Thủy sản đã chỉ đạo các sở Thủy sản tăng cường kiểm soát chất lượng tôm giống, khuyến cáo nông dân chỉ nên nuôi một vụ tôm trong năm. Vụ còn lại có thể luân canh như cấy lúa hoặc nuôi các đối tượng thủy sản khác nhằm làm sạch môi trường ao, đầm nuôi thủy sản, có thời gian ngắt vụ để diệt mầm bệnh. Năm 2005, ngành thủy sản và chính quyền các địa phương đã tích cực tập trung chỉ đạo thời vụ nuôi tôm, môi trường vùng nuôi, kiểm soát chất lượng tôm giống, nên đã hạn chế đến mức thấp nhất diện tích tôm nuôi bị chết. Đồng chí Nguyễn Việt Thắng, Thứ trưởng Bộ Thủy sản cho biết: Việc nuôi tôm có tính chất mùa vụ, thời điểm cần thả giống tương đối tập trung nên việc sản xuất và cung ứng tôm giống đã gặp nhiều khó khăn khi các địa phương chưa chủ động được nguồn tôm bố, mẹ, mà còn phụ thuộc khai thác tự nhiên hoặc phải nhập khẩu tôm bố, mẹ. Phần lớn tôm bố, mẹ đưa vào sản xuất không rõ nguồn gốc, không được kiểm dịch, bị khai thác triệt để mà chưa có biện pháp quản lý số lần sinh sản của tôm bố, mẹ. Chất lượng tôm giống chưa bào đảm do chưa kiểm soát chặt chẽ điều kiện sản xuất giống theo tiêu chuẩn ngành. Các cơ sở chưa thực hiện công bố chất lượng giống, chưa có nhãn mác, không rõ nguồn gốc, chưa được kiểm dịch tại nơi sản xuất. Sự chỉ đạo, phối hợp giữa các cấp tại một số địa phương chưa chặt chẽ, khi cấp huyện không cho thả tôm thì cấp xã lại cho thả tôm giống, tạo điều kiện cho người bán tôm giống đến tiêu thụ…

Để vụ nuôi tôm năm nay thắng lợi, hạn chế thiệt hại cho nguời nuôi tôm ngành thủy sản, chính quyền địa phương cần thực hiện các biện pháp như: Kiên quyết không cho người dân thả tôm không đúng thời vụ; tăng cường công tác khuyến ngư như tập huấn kỹ thuật nuôi, phòng bệnh tôm; bảo đảm lượng tôm giống sạch bệnh, kịp thời vụ, giá hợp lý; công tác quản lý nuôi tôm như mùa, vụ, kế hoạch, nhu cầu con giống phải được quan tâm ngay từ đầu vụ; việc sản xuất tôm giống phải được quản lý chặt chẽ, cần đưa các cơ sở sản xuất tôm giống vào khu sản xuất tập trung để kiểm soát chất lượng tôm giống trước khi đưa đến nơi tiêu thụ; các hộ sản xuất cần được tổ chức thành các tổ, nhóm, hiệp hôi sản xuất giống và nuôi để thực hiện quản lý cộng đồng có trách nhiệm, giữ cho môi trường nuôi bền vững, sản phẩm bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; thong qua các hội nghề nghiệp, đội sản xuất, khuyến ngư cơ sở tổ chức ký hợp đồng tiêu thụ tôm giống chất lượng cao với các địa phương nuôi tôm để phân phối chỉ tiêu, có kế hoạch chuẩn bị, sản xuất giống có trách nhiệm và tiêu thụ được sản phẩm; các địa phương cần củng cố, xây dựng hệ thống chi cục bảo vệ nguồn lợi, chi cục quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản có đủ năng lực thực hiện kiểm soát chất lượng tôm giống.

TẠ QUANG DŨNG


Nhân giống thành công cá lăng

Nguồn tin: SGGP, 17/3/2006
Ngày cập nhật: 18/3/2006

Khoa Thủy sản Trường ĐH Nông Lâm TPHCM đã nghiên cứu, lai ghép và ấp nở thành công cá lăng con. Trại thực nghiệm của trường đã kích thích sinh sản nhân tạo loạt cá lăng nghệ bằng phương pháp gieo tinh bán khô và ấp nở thành công 4 loài cá lăng đó là: cá lăng vàng (Mystus nemurus- Valenciennes, 1839), cá lăng nha đuôi đỏ (Mystus wyckioides- Chang và Faux, 1949), cá lăng hầm (Mystus filamentus - Chang và Faux, 1949) và cá lăng nghệ (Mystus sp).

Thạc sĩ Ngô Văn Ngọc, giảng viên Khoa Thủy sản, cho biết, sau khi gieo tinh, trứng được khử dính và ấp bằng bình Weis. Ở nhiệt độ nước 30oC, thời gian phát triển phôi cá lăng vàng là 20 giờ tính từ lúc trứng đã được thụ tinh. Cá bột 1 ngày tuổi bắt đầu biết bơi. Ở khâu ương nuôi từ cá bột lên cá hương, với nhiệt độ nước 29-30oC, sau khi nở khoảng 60 giờ, ấu trùng cá lăng vàng bắt đầu biết ăn, dù lúc này cơ thể vẫn còn noãn hoàng. Sau khi nở 72 giờ (3 ngày tuổi), cá đã tiêu hết noãn hoàng và bắt mồi rất mạnh.

Khi được 4 ngày tuổi, cá ăn được trùn chỉ (Tubifex). Ở giai đoạn này, cá lăng vàng có tốc độ tăng trưởng khá nhanh và sự phân đàn không đáng kể (kích thước cá hương khá đồng đều): 14 ngày tuổi, cá có chiều dài 2,7-2,9cm. Qua kết quả thu được trong đợt nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo này, có thể khẳng định cá lăng vàng có sức sinh sản cao, ăn tạp, có thể nuôi mật độ dày và tăng trưởng nhanh.

Cá lăng (Mystus) là loài cá tự nhiên, thịt ngon, thơm, bán được giá cao... nên chúng bị săn bắt gần cạn kiệt. Trong các loài cá lăng thì cá lăng nghệ (Mystus sp) được xem là loài cá có bề ngoài hấp dẫn nhất: kích thước cơ thể tương đối lớn trong họ Bagridae (0,8-1,4kg/con), toàn thân bao phủ một màu vàng nghệ trông rất bắt mắt, và không chỉ là một món ăn đặc sản trên bàn tiệc mà còn có thể nuôi làm cảnh.

Chúng sống và phát triển tập trung ở các vùng nước ngọt và nước lợ nhẹ ở miền Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long thuộc vùng nhiệt đới. Trong đó, nguồn cá lăng nha giống và cá thương phẩm chủ yếu thu ngoài tự nhiên nhưng sản lượng ngày càng hiếm, không đủ đáp ứng cho nhu cầu nuôi và tiêu dùng. Chính vì vậy những năm qua trại thực nghiệm thủy sản Trường ĐH Nông lâm TPHCM đã tìm kiếm và nghiên cứu sinh sản nhân tạo loài cá đặc sản này.

Theo các nhà khoa học, cá lăng nha là loài lớn nhất trong các loài cá lăng. Ngoài tự nhiên thỉnh thoảng người ta bắt gặp những con lăng nha nặng trên 10kg, cá biệt có con nặng đến 18kg. Còn trong điều kiện nuôi, cá lăng nha một tuổi có trọng lượng khoảng 2-2,5kg/con. Hiện nay, trại thực nghiệm thủy sản ĐH Nông lâm TPHCM đã chuyển giao quy trình sản xuất giống nhân tạo cá lăng nha cho nông dân và các cơ sở kinh doanh giống có nhu cầu. Ngoài ra, trường cũng có thể chuyển giao quy trình sản xuất giống cá lăng vàng và cá lăng hầm. Hiện nay, trường đã chuyển giao công nghệ cho các địa phương tự lai ghép giống như Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận, Long An, Bến Tre, Vĩnh Long, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai…

QUỐC HÙNG

 


An Giang: nuôi lươn mùa nghịch: hiệu quả gấp đôi

Nguồn tin: SGTT, 17/3/2006
Ngày cập nhật: 18/3/2006

Từ 7 hộ nuôi lươn đầu tiên ở xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang năm 2002, đến nay phong trào nuôi lươn trong bể đất lót ni lon trong tỉnh đang phát triển mạnh, đặc biệt là vào mùa nghịch. Hiện nay, lươn đang vào mùa thu hoạch, thương lái đến mua tận nơi với giá rất cao loại I là 80.000 đồng/kg, loại II là 65.000 đồng/kg và loại III là 50.000 đồng/kg, cho lợi nhuận gấp đôi so với mùa nước nổi, vụ chính trong năm.

Mô hình nuôi lươn trong bể đất lót ni lon ở huyện Châu Thành rất đơn giản, nhu cầu diện tích thấp mỗi bể chỉ từ 30m2 đến 70m2 nên người nuôi có thể tận dụng được diện tích đất trước sân, trống xung quanh nhà để nuôi lươn. Các bể nuôi lươn được dựng dã chiến bằng tre, trúc, bao ni lon xung quanh, bên dưới lót thêm lớp đất thịt pha cát, cho nước vào khoảng 0,5 mét, thiết kế thêm ống thoát nước để thay nước mỗi ngày, trên mặt nước thả lục bình để tạo môi trường thiên nhiên, bóng mát, giữ ổn định nhiệt độ cho lươn sinh sống. Chỉ sau 5 tháng nuôi là các bể lươn cho thu hoạch 70% lươn loại I có trọng lượng từ 0,2 đến 0,5 kg/con, 20% lươn loại II từ 0,1kg đến dưới 0,2kg/con và 10% lươn loại III dưới 0,1 kg/con

Đến nay, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang đã mở rộng diện tích nuôi lươn trên 19.000 m2, thu hút 475 hộ thả nuôi trong 755 bể tại khắp 13/13 xã thị trấn, trong đó nhiều nhất là xã Vĩnh Hanh, Vĩnh Bình và Cần Đăng. Theo thống kê đã có 80% hộ thu được lãi to, gấp 4 lần vốn bỏ ra, hoàn toàn không có hộ lỗ vốn.

Với lợi nhuận thu được từ nuôi lươn này, các hộ sẽ thả nuôi lươn liền vụ nhằm tận dụng hết được lao động nhàn rỗi trong gia đình bởi lươn dễ nuôi, không tốn công sức và thời gian chăm sóc. Lươn hiện là con nuôi đang có thị trường rất ổn định, nên kế hoạch năm 2006 huyện Châu Thành khuyến khích các hộ dân phát triển diện tích bể nuôi lên 20 ha. Để ăn chắc, Trung tâm Khuyến nông huyện Châu Thành đã chủ động phối hợp với các xã tổ chức lớp tập huấn cho nhân dân về thiết kế bể nuôi thích hợp, đặc tính của lươn, quan trọng nhất là chọn con giống, kỹ thuật nuôi, dinh dưỡng chăm sóc để bổ sung kinh nghiệm, kỹ thuật nhất là cho hộ mới thả nuôi lần đầu.

Theo TTXVN

 


Sóc Trăng: cảnh báo chất lượng tôm giống

Nguồn tin: SGTT, 17/3/2006
Ngày cập nhật: 18/3/2006

Tỉnh Sóc Trăng vừa đưa ra cảnh báo về chất lượng tôm giống và biện pháp phòng ngừa cần thiết nhằm bảo đảm cho vụ nuôi tôm 2006 đạt thành công lớn. Cụ thể theo kết quả phân tích gần đây nhất có đến trên 70% mẫu tôm giống bị nhiễm bệnh hoặc không đạt chất lượng, trong đó phổ biến nhất là bệnh thân đỏ đốm trắng. Ngoài ra, một số tỉnh lân cận có diện tích nuôi tôm lớn: Trà Vinh, Cà Mau cũng đang có tình trạng tôm nuôi bị chết do bệnh. Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Sóc Trăng đã khuyến cáo bà con cần chuẩn bị thật kỹ ao nuôi và tuân thủ nghiêm ngặt qui trình kỹ thuật, chọn con giống chất lượng, xử lý tốt môi trường nước, tuân thủ nghiêm ngặt lịch thời vụ. Cụ thể, nông dân cần tránh tình trạng thả nuôi ồ ạt khiến thiếu con giống cục bộ, những trang trại có diện tích tôm nuôi lớn cần thả rải vụ ra nhiều đợt vừa có lợi trong lựa chọn con giống đầu vụ vừa tránh được tình trạng thu hoạch đồng loạt, mất giá lúc cuối vụ. Đặc biệt, các hộ dân chú trọng chọn giống tốt đã qua kiểm dịch của ngành chức năng, không nên mua giống trôi nổi trên thị trường, không rõ nguồn gốc.

Tỉnh Sóc Trăng phấn đấu mở rộng diện tích nuôi tôm sú lên 48.000 ha trong năm 2006 trong đó có 20.000 ha tôm nuôi theo qui mô công nghiệp. Phục vụ cho nhu cầu nuôi tôm, toàn tỉnh có mạng lưới gần 300 cơ sở kinh doanh giống, trên 260 cơ sở chuyên doanh thức ăn và thuốc thú y thủy sản cần được quản lý về chất lượng và các yêu cầu nghiêm ngặt khác bảo đảm cho nghề nuôi tôm phát triển.

Cùng với khuyến cáo nhân dân có những bước đi cần thiết, thích hợp trong vụ nuôi năm 2006, tỉnh Sóc Trăng cũng đang siết chặt các biện pháp quản lý con giống, tăng cường kiểm tra, kiểm soát về dịch tễ nhằm bảo đảm có con giống tốt đáp ứng nhu cầu của người dân, kiên quyết loại bỏ ngay những lô giống qua kiểm dịch không đạt chất lượng và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm bị phát hiện.

Theo TTXVN


Săn tìm cua “nhướn”- hái ra tiền

Nguồn tin: QDND, 16/3/2006
Ngày cập nhật: 17/3/2006

Hiện nay, ở các địa phương thuộc vùng sát biển, huyện biển Thạnh Phú tỉnh Bến Tre đang sôi động với hoạt động “kinh tế” rất mới là: săn - vớt bắt cua “nhướn”. Kể từ tháng đầu năm 2006 đến nay, ngày càng có thêm nhiều ngừơi đến các khu vực cồn bãi, cửa sông cửa biển, đất rừng ngập mặn sát biển Thạnh Phú để kiếm tìm vớt bắt cua “nhướn” !

Theo các kỹ sư, cán bộ, nhân viên của phòng thủy sản huyện Thạnh Phú và cán bộ chính quyền các xã sát biển của huyện thì đây là năm đầu tiên xuất hiện loại cua này. Chị Huỳnh Thị Vũ ở thị trấn Thạnh Phú giải thích: cua “nhướn” là con cua biển giống còn nhỏ, tới mức phải “nhướn” mắt lên cho thật kỹ thì mới... hình dung ra nổi đó là... con cua !. Bởi vì nó quá nhỏ bé tới mức thoạt nhìn chưa ra rõ là con cua. Đây cũng là năm mà lượng cua biển giống tràn vào vùng biển Thạnh Phú với mật độ. Do đang phát triển mạnh mẽ phong trào nuôi cua biển nên nguồn con giống người nuôi tự đi mua ở các cơ sở sản xuất giống nhân tạo không thể đáp ứng đủ được nhu cầu cho nên khi có nguồn cua con “trời cho”, bà con lập tức đổ xô đi lùng bắt. Từ đó, sinh ra việc mới hoàn toàn: săn tìm vớt bắt cua “nhướn”

Dụng cụ “đồ nghề” của “nghề” đi bắt cua “nhướn” cũng thật đơn giản: một chiếc vợt nhỏ gọn với một cái chai, hũ, lọ. Chỉ cần chịu khó lội sình kiên trì bền chí đợi lúc triều xuống nước ròng cạn kiệt thì “nhướn" mắt tìm kiếm thật kỹ trong các hang hốc của các gốc bần, đước, mắm những chú cua con bé tí đang trú ẩn hoặc đang mải nhởn nhơ trong đó rồi bị " mắc cạn " và rồi cứ hễ thấy thì dùng vợt vớt ra cho ngay vào lọ hoặc hũ là xong. Càng tìm bắt được nhiều càng tốt.

Giá bán cua “nhướn” phổ biến ở tại Thạnh Phú hiện nay: 500 đồng/con loại bé cỡ bằng hạt tiêu đến bằng đầu đũa, 1.000 đồng/con loại cỡ hạt me đến bằng đầu ngón tay út là hai cỡ có nhiều nhất. Chẳng những rẻ hơn mà cua giống tự nhiên này sinh trưởng tốt, tăng trọng rất nhanh, chỉ sau hơn 3 tháng thả nuôi là đạt cỡ cua thịt loại I./.

Thanh Hùng

 


Săn "cá vua"

Nguồn tin: BBD, 14/3/2006
Ngày cập nhật: 17/3/2006

Cá niên là loại cá chỉ sống ở những nơi nước chảy mạnh, nhiều đá. Thức ăn của chúng chủ yếu là các loại rong rêu và con hà bám trên đá. Cá niên ở các sông suối của huyện An Lão (Bình Định) hơi giống cá diếc nhưng màu vàng sáng và nhỏ hơn, thông thường chỉ bằng hai ngón tay, thỉnh thoảng mới bắt được cá cỡ 3-4 ngón tay. Trước kia, người An Lão thường mua cá niên về cúng tất niên hoặc cúng giỗ dịp cuối năm, làm tiệc mừng minh niên. Nhiều người còn giành mua cho được cá niên để ăn lấy hên vào đầu năm mới. Cá niên được xem là "cá vua" của vùng núi rừng.

"Công nghệ" đánh bắt lạ đời!

Để có chuyến đi săn cá niên trên, tôi đã phải năn nỉ mấy đứa bạn rồi sắp xếp mất mấy ngày mới được. Trước đó, Hoàng bàn ra: "Bây giờ kiếm cá niên cực lắm, năm nay trời lại lạnh và mưa bất thường hơn mọi năm". Hơn nữa, các bạn tôi đều đã qua thời "sáng đi học, chiều lội sông trèo núi", muốn có súng nọc, gương lặn thì phải đi mượn. Tuy vậy, trước sự nài nỉ dai dẳng của tôi, đám bạn cũng xiêu lòng, chạy đi chuẩn bị đồ nghề. Để đánh bắt cá niên, có nhiều cách nhưng cách quen thuộc nhất là sử dụng súng nọc và gương lặn (gần giống như kiểu gương thường thấy của các thợ lặn chuyên nghiệp).

Súng nọc là súng tự chế, lấy một khúc cây tương đối cứng rồi đẽo gọt cho nhẵn, tạo hình dạng gần giống cây súng thật, dài khoảng một cánh tay. Phía trước "nòng" súng gắn một ống kim loại (thường dùng van hơi xe đạp) để định vị hướng đi của cần súng. Cần là cây thép thẳng, kích thước như sợi dây điện trần, dài hơn thân súng, đầu trước mài nhọn để khi bắn đâm xuyên thân cá dễ dàng.

Có đủ "ngư cụ", chúng tôi, gồm bốn đứa, leo lên hai chiếc xe gắn máy lao nhanh trong cơn mưa phùn giá rét khá đậm đến vùng núi thuộc vùng kinh tế mới ở xã An Tân, huyện An Lão, Bình Định. Sau khi gửi xe ở nhà người quen, chúng tôi mang đồ cuốc bộ gần cây số mới tới sông. Lòng vòng một hồi, chúng tôi cũng chấm được "ngư trường" là một đoạn sông nước chảy khá xiết, sát bờ sông bên kia là dãy núi Hóc Đèn của xã vùng sâu An Hưng, nơi sinh sống của đồng bào H’re. Cá niên là loại cá chỉ sống ở những nơi nước chảy mạnh, nhiều đá. Thức ăn của chúng chủ yếu là các loại rong rêu và con hà bám trên đá.

Lặn ngụp từ nửa buổi sáng tới trưa, chúng tôi thu hoạch được hơn một tá cá cỡ từ một rưỡi đến hai ngón tay. Xách xâu cá giơ lên, Hoàng cười: "Chỗ này chắc được nửa ký, ra chợ phải mất 100.000 mới có chứ không giỡn đâu". Thế là chúng tôi được thưởng thức món cá niên nướng thơm lừng với bánh tráng, thêm chút rượu gạo trên bãi đá cuội giữa lòng sông lộng gió.

Ngoài cách bắt cá bằng súng nọc như trên, còn có hai kiểu khác là câu và đánh lưới, cũng rất đặc biệt. Chú Bốn Niệm, một thợ câu lão luyện "bật mí": "Khi câu, cần câu phải được nhúng hoàn toàn trong nước, dìm gần sát đáy sông nhưng không để chạm đáy do cá niên là loài ăn ở đáy và rất nhát". Do vậy, cần câu phải làm từ cây tre đặc để dễ chìm. Cần càng dẻo càng tốt vì khi cá dính câu phải kéo cần từ từ, chầm chậm để cá không rớt ra do hàm cá niên rất mảnh, dễ rách. Sợi cước và lưỡi câu cũng phải rất nhỏ để cá không nhìn thấy. Mồi câu cá niên cũng đặc biệt, là bọ nhảy hoặc bọ đá, hai loài giáp xác sống dưới nước.

Bọ nhảy thì sống trong những đống chà dưới sông, gần giống tép con nhưng mình ngắn hơn và thẳng chứ không cong như tép. Còn bọ đá, loại mồi cá niên thích nhất, giống như con rệp, sống dưới các hòn đá dưới sông mà phải là những tảng đá ở chỗ nước đừng (không chảy) nhưng không phải là nước tù đọng mà phải kề dòng nước chảy. Do cá niên chỉ ăn mồi động nên người câu phải một tay dìm cần một tay giữ cần và đưa tới đưa lui liên tục, làm cho mồi như còn sống, đang di động. Thời gian đi câu tốt nhất là sáng sớm.

Lưới đánh cá cũng phải tự chế chứ không có bán trên thị trường. Lỗ lưới rất nhỏ, cỡ vừa ngón tay út. Các hạt chì làm chìm lưới được gắn với mật độ rất dày để có thể giữ được lưới đứng yên và chìm sát đáy sông vì nơi giăng lưới là chỗ nước chảy xiết, lưới dễ bị cuốn trôi. Chỉ cần có một khe hở ở đáy là cá thoát ra không còn một con. Vì vậy, một tấm lưới dài khoảng 13-14 sải tay phải mang theo từ 6-8 kg chì, mỗi hạt chì cách nhau một phân. Đánh lưới thì phải đi ban đêm, xách theo đèn pin. Hiện tại, cách đánh bắt bằng lưới được sử dụng phổ biến vì tính hiệu quả. Hai người đi kéo lưới một đêm có thể thu được 2,5-3 kg cá.

"Cá vua" của núi rừng

Theo chú Bốn Niệm, cá niên ở các sông suối của vùng An Lão hơi giống cá diếc nhưng màu vàng sáng và nhỏ hơn, thông thường chỉ bằng hai ngón tay, thỉnh thoảng mới bắt được cá cỡ 3-4 ngón tay. Càng đi xa càng có cơ hội gặp được cá to, dân mê cá niên ở An Lão còn nhớ có người từng bắt được một con cá niên lớn bằng chiếc dép Lào ở thượng nguồn sông Kôn, con sông lớn nhất tỉnh Bình Định, thuộc xã vùng cao An Toàn, tiếp giáp với tỉnh Kon Tum, nơi chỉ có đồng bào Ba Na cư ngụ.

Trước kia, người An Lão thường mua cá niên về cúng tất niên hoặc cúng giỗ dịp cuối năm, làm tiệc mừng minh niên. Nhiều người còn giành mua cho được cá niên để ăn lấy hên vào đầu năm mới. Lúc đó, cá có rất nhiều, được bán ở chợ dưới dạng nướng, kẹp trên vỉ, mỗi vỉ từ 2 đến 4-5 con tùy cá lớn, nhỏ. Người mua đem về nướng lại cho nóng giòn, bày lên mâm cúng, xong lấy cá dầm với nước mắm ngon để ăn với cơm. Cá niên được xem là "cá vua" của vùng núi rừng.

Cá phải được nướng bằng than củi, khi nướng, mỡ cá chảy ròng ròng, mùi thơm bay xa cả mười mét, nhà này nướng cá, nhà hàng xóm cũng ngửi thấy mùi thơm. Do có mùi vị độc đáo nên cá niên nướng mà không ướp gia vị mới ngon. Thịt cá đã thơm ngon nhưng ruột cá còn đặc biệt hơn, vừa đắng vừa dai dai, nhân nhẫn, nhiều người ăn một lần đâm ghiền.

Ngoài cách ngon nhất là nướng, cá niên còn được sử dụng làm gỏi. Cá sống được làm sạch, xắt ra, vắt chanh, thêm gia vị, mắm muối rồi trộn lẫn với rau dừng (đọt non cây lộc vừng) và lá dớn non (một loại cây giống dương xỉ, mọc ven sông). Vị cá cùng vị chát của rau dừng, vị nhớt của lá dớn làm cho món gỏi trở thành mồi nhậu rất bắt.

Trước kia, người bắt cá thường chỉ đi gần, sáng đi thì trưa về hoặc tối đi thì khuya hay sáng sớm về do cá niên rất nhanh hư. Cách bảo quản thời đó là nướng hoặc ướp muối nên khi về tới nhà cá hầu như mất hết mùi vị đặc trưng. Vài năm trở lại đây, nhờ có đá lạnh nên vùng đánh bắt cá được mở rộng hơn nhưng lượng cá lại ngày càng ít đi. Do vậy, có lúc phải đi cả chục cây số, hai ngày mới về. Anh Hai Lẫm, một "ngư dân cá niên" hàng đầu cho biết: "Mùa cá các năm trước, tui chèo ghe đi từ xế chiều, mang theo 5 tấm lưới, sáng sớm về có thể kiếm được 4-5 ký cá nhưng năm nay chỉ bắt được 2-3 ký, có hôm chỉ được nửa ký". Dù vậy, nghề đánh bắt cá niên vẫn hấp dẫn vì nó là loại cá "ăn một lần nhớ mãi", bán được giá, không sợ ế.

Người đánh bắt cá niên bỏ nghề cũng nhiều nhưng hiện vẫn còn khoảng 4 nhóm đánh bắt chuyên nghiệp, biết đan lưới, "chế" đèn pin…, còn đánh bắt nghiệp dư thì rải rác khắp nơi. Cá hiếm dần nên giá rất cao. Mùa cá năm 2004, giá cá đã chế biến là 100.000 đồng/kg thì sang mùa 2005 đã lên 150.000, mùa 2006 lại tăng lên 200.000, sau Tết còn lên tới 250.000 đồng/kg. Nhờ vậy mà mùa cá niên 2006, anh Hai Lẫm kiếm được gần 6 triệu đồng trong chỉ hơn một tháng.

Theo SGGP thứ bảy

 


Bảo vệ MTST và NLTS ở đầm Thị Nại: Sẽ áp dụng các biện pháp "căn cơ" hơn

Nguồn tin: BBD, 14/3/2006
Ngày cập nhật: 17/3/2006

 


Tái diễn xung điện, xiếc máy trên đầm Thị Nại

Nguồn tin: BBD, 14/3/2006
Ngày cập nhật: 17/3/2006

 


Xây dựng 4 mô hình nuôi tôm thân thiện môi trường

Nguồn tin: BĐ, 16/3/2006
Ngày cập nhật: 17/3/2006

Nhằm hạn chế tình hình dịch bệnh tôm do môi trường nuôi bị ô nhiễm gây ra, Trung tâm Khuyến ngư tỉnh đã hỗ trợ 22,6 triệu đồng cho 4 mô hình nuôi tôm thân thiện với môi trường (thả tôm nuôi xen với các loại cá rô phi, cá chua…) trên địa bàn tỉnh. Trong đó, có 1 mô hình nuôi tôm bán thâm canh thân thiện môi trường triển khai ở huyện Tuy Phước, với diện tích 4 ha; 3 mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến thân thiện môi trường triển khai ở các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ và TP Quy Nhơn, có diện tích 5.000 m2/mô hình.

Các hộ dân tham gia mô hình còn được Trung tâm Khuyến ngư tập huấn và hướng dẫn kỹ thuật nuôi tôm thân thiện với môi trường. Hiện nay các mô hình này đang tiến hành thả giống, sau 4 tháng nuôi sẽ thu hoạch để đánh giá hiệu quả, nếu thành công sẽ nhân ra diện rộng.

Ngọc Thái

 


Nông dân nuôi cá lóc khốn đốn

Nguồn tin: SGGP, 16/3/2006
Ngày cập nhật: 17/3/2006

Trung tuần tháng 3-2006, giá cá lóc rớt xuống chỉ còn 12.000 đồng/kg, nhưng nhiều thương lái không chịu mua. Tình trạng này đã làm cho hàng trăm hộ nuôi cá lóc ở Hậu Giang, Cần Thơ rơi vào cảnh "dở khóc dở cười". Nếu bán giá 12.000 đồng/kg, tính bình quân nông dân lỗ 4.000 đồng/kg so với giá nuôi cá. Trong khi đó, nếu kéo dài thêm thời gian nuôi phải tốn thêm thức ăn, cá lớn rất khó bán.

C.P - B.Đ


Tình trạng thiếu cá tra nguyên liệu ngày càng trầm trọng

Nguồn tin: BCT, 15/3/2006
Ngày cập nhật: 16/3/2006

 


Nuôi ngọc trai nước ngọt: nghề lắm công phu?

Nguồn tin: BCT, 16/3/2006
Ngày cập nhật: 16/3/2006

Năm 2002, ở Cồn Tiên thuộc xã Tiên Long, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, xôn xao chuyện một người phụ nữ dám bỏ ra bạc tỉ để nuôi ngọc trai nước ngọt. Sau nhiều lần thất bại, chị đã thành công. Chị thành lập hẳn Công ty TNHH Bối Ngọc để cho ra đời những sản phẩm nữ trang sang trọng từ những viên ngọc nuôi tại Bến Tre. Mới đây, 2 sản phẩm ngọc trai của công ty đạt huy chương vàng tại Hội chợ quốc tế phụ nữ do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức ở TPHCM. Báo Cần Thơ có cuộc trò chuyện với người phụ nữ làm nên chuyện bất ngờ này - chị Nguyễn Thị Thu Cúc.

* Cơ duyên nào đưa chị đến quyết định một việc làm mà nhiều người cho là mạo hiểm?

Từ lúc nhỏ, tôi đã rất thích ngọc trai và muốn sở hữu những viên ngọc trai thật, mà trước đây mình đi mua người ta nói thật nhưng không phải thế. Mê, rồi thấy mình có điều kiện, nên tôi quyết định nuôi trai lấy ngọc. Trước khi làm việc này, tôi có tham khảo qua sách và được biết trai có hai loại. Một loại sống ở nước mặn và một loại sống ở nước ngọt. Tôi thuê đất ở Cồn Tiên để nuôi trai nước ngọt vì vùng này quanh năm không bị ảnh hưởng nước mặn, điều kiện thiên nhiên tốt, môi trường phù hợp.

Vì là công việc hoàn toàn mới, nên thời gian đầu tôi liên tục bị thất bại. Trai chết hàng loạt, phải đi nhiều nơi để tìm hiểu nguyên nhân. Giữa lúc gần như bế tắc, thì tôi mới biết trai chết nhiều do điều kiện sinh thái vùng nuôi. Trai nước mặn người ta nuôi trong lồng, nên tôi cũng nuôi trong lồng, nhưng hoàn toàn không phù hợp. Ở vùng nước ngọt có nhiều sinh vật đeo bám vào con trai, làm trai bị mất sức rồi yếu dần, chết. Nhờ theo dõi kỹ, nên mình tìm ra nguyên nhân và và áp dụng cách nuôi thả tự do. Và công việc tiến triển thuận lợi, đến nay với diện tích 45.000 m2 mặt nước tôi thả nuôi 200.000 con trai.

* Việc nuôi trai nước ngọt của chị đã thành công và tạo ấn tượng trên thị trường. Chị có dự định tiếp tục đầu tư nhiều hơn?

- Hiện tại, ngọc trai công ty thu được có nhiều màu như: trắng hồng, hồng đỏ, màu lam, màu đen tuyền... Chúng tôi đang cải tiến kỹ thuật nuôi để có những viên ngọc trai thêm đa dạng, đẹp hơn. Số lượng thu ngọc hiện tại rất thấp. Khảo sát thị trường, chúng tôi nhận thấy khách hàng đang chuyển sang ưu chuộng ngọc trai thiên nhiên, nên tôi sẽ đầu tư mở rộng diện tích, số lượng nuôi.

Hiện tại, từ ngọc trai Cồn Tiên, công ty chế tác ra nhiều sản phẩm nữ trang như bộ sưu tập theo mùa xuân, mùa cưới, bông tai, dây chuyền, nhẫn, lắc tay... Có cả những viên ngọc trai đặc sắc được dành bán rời cho những người thích mẫu lạ tự làm.

* Khách hàng đánh giá thế nào về sản phẩm ngọc trai từ Bến Tre?

- Tết rồi có những Việt kiều từ Úc về, cũng là những người nghiên cứu về ngọc trai. Khi thấy sản phẩm ngọc trai của Bối Ngọc, họ đánh giá rất cao, vì lớp ngọc dày gấp 2-3 lần các loại ngọc trai khác, nên họ quyết định mua về nước để bán. Thường ngọc trai nuôi nước biển mỏng, còn ngọc trai được nuôi ở Cồn Tiên có nhiều viên dày trên 1,5 ly. Sản phẩm ngọc trai Bối Ngọc hiện đang được trưng bày ở số 39, đường Thủ Khoa Huân, quận 1, TPHCM. Không chỉ hướng tới những khách hàng lớn tuổi, công ty còn thiết kế các sản phẩm cho giới trẻ, vì ngọc trai rất cần thiết để góp phần làm tăng vẻ đẹp, sang trọng, quí phái... Tại Bến Tre, công ty cũng có gian hàng trưng bày, nhưng chủ yếu là giới thiệu sản phẩm ngay tại quê hương mình, chứ mọi giao dịch đều ở TPHCM.

* Nhiều người cho rằng ngọc trai “chính hiệu” giá quá cao, chị nghĩ thế nào về thị trường của mặt hàng này?

-Ngọc trai là sản phẩm kén chọn khách hàng, nên với người am hiểu về giá trị thì dễ, còn những người chưa am hiểu cho rằng giá cao. Giá của ngọc trai nước biển có nhiều loại và nhiều giá không so sánh được. Hàng trăm hoặc hàng chục ngàn USD mỗi viên ngọc là chuyện bình thường. Cũng có khi ngọc được bán rất rẻ nhưng chất lượng ngọc thì khó đoán. Người xưa thường nói “ngọc ngà châu báu”, do vậy ngọc không thể rẻ như nhiều chỗ bán hiện nay. Có những viên ngọc giới thiệu là cao cấp, nhưng giá chỉ ngoài một trăm ngàn đồng một viên, thì dứt khoát không phải là ngọc có chất lượng cao. Tôi lên mạng thấy viên ngọc trai ở một công ty của Nhật chào giá đến 1,55 triệu yên!

Với sản phẩm ngọc trai của chúng tôi thì những người trung lưu có thể sử dụng được, giá từ 60 USD tới vài trăm USD một viên tùy theo kích cỡ, độ trong sáng của ngọc.

* Vậy giữa ngọc giả và thật, theo chị cần phân biệt những điểm cơ bản nào?

- Có nhiều “viên ngọc giả cao cấp” thì rất khó nhận ra, nhìn bằng mắt thường không thể biết nếu không phải là những người chuyên về lĩnh vực này. Những điều cơ bản để xác định ngọc thật là ánh ngọc thể hiện được độ dày của lớp ngọc. Ngọc giả thì nhẹ, không mát, không có ánh ngọc. Để chắc chắn mua sản phẩm ngọc trai không bị lầm, cần chọn những loại có thương hiệu rõ ràng. Tôi đã đăng ký thương hiệu ở Cục sở hữu trí tuệ cho sản phẩm ngọc trai của mình với tên Pearlight (ngọc sáng). Để tạo niềm tin hơn đối với khách hàng, Công ty Bối Ngọc sẵn sàng thu mua sản phẩm ngọc trai của công ty bán ra, nếu như khách có yêu cầu. Đây là điều mà nhiều cửa hàng bán ngọc trai khác không dám áp dụng.

* Xin cám ơn chị!

CAO DƯƠNG (Thực hiện)

 


5 vấn đề cần giải quyết để nuôi trồng thủy sản Đông Hòa - Phú Yên phát triển

Nguồn tin: BPY, 15/3/2006
Ngày cập nhật: 16/3/2006

Đưa nghị quyết Đại hội XIV Đảng bộ tỉnh Phú Yên vào cuộc sống

5 vấn đề cần giải quyết để nuôi trồng thủy sản Đông Hòa phát triển

(Trích tham luận tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XIV của đồng chí Lê Hùng Tấn, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Đông Hòa)

Đông Hòa có 5 xã ven biển: Hòa Hiệp Bắc, Hòa Hiệp Trung, Hòa Hiệp Nam, Hòa Tâm và Hòa Xuân Nam, dân số 44.797 người, chiếm 45% dân số toàn huyện; có bờ biển dài gần 30km. Đây là địa bàn chiến lược quan trọng về kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng, có nhiều lợi thế trong việc phát triển kinh tế thủy sản, nhất là lĩnh vực nuôi trồng thủy sản với diện tích tự nhiên là 1.500 ha; trong đó vùng tôm hạ lưu sông Bàn Thạch 1.100ha.

Nuôi trồng thủy sản ở khu vực này những năm 1995-2003 đã tạo được bước phát triển lớn của cả vùng, góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của huyện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả phấn khởi đó, những năm gần đây, đặc biệt là từ năm 2003-2005, khu vực này gặp không ít khó khăn. Do cơ sở hạ tầng kỹ thuật vùng nuôi đầu tư chưa đúng mức, chỉ phù hợp với nuôi quản canh, đến bán thâm canh nên không đáp ứng yêu cầu phát triển nuôi thâm canh, tăng vụ. Mặt khác, người nuôi chạy theo lợi nhuận, không chấp hành quy chế quản lý vùng nuôi tập trung, thả nuôi mật độ cao; chất lượng giống kém, bệnh tôm xảy ra liên tiếp; công tác bảo vệ môi trường sinh thái vùng nuôi còn nhiều bất cập; nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là đa dạng hóa đối tượng nuôi, còn nhiều hạn chế. Từ đó làm nảy sinh những yếu tố bất lợi từ nội vùng, tình trạng nuôi tôm thua lỗ kéo dài, đời sống nhân dân trong vùng đang gặp nhiều khó khăn.

Để tổ chức việc nuôi trồng thủy sản bảo đảm hiệu quả, bền vững, theo tôi cần tập trung giải quyết một số vấn đề cấp bách sau đây:

Một là: các giải pháp để phát triển lĩnh vực nuôi trồng thủy sản mà dự thảo Báo cáo chính trị đưa ra là phù hợp; cần phải đầu tư đúng mức các vùng nuôi trồng thủy sản, đầu tư hạ tầng kỹ thuật như đầu tư các khu công nghiệp và phải quản lý vùng nuôi phát triển bền vững. Vì đây là nghề cho hiệu quả kinh tế cao nhất (gấp 4-6 lần so sản xuất lúa), là ngành kinh tế mũi nhọn.

Hai là: Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về nuôi trồng thủy sản, đặc biệt trên các lĩnh vực: quản lý chất lượng tôm giống, quản lý các cơ sở sản xuất và các đại lý bán thức ăn, thuốc phòng trị bệnh thủy sản. Kiên quyết chóng việc sản xuất tôm giống, sản xuất thức ăn tôm kém chất lượng, để ổn định sản xuất và bảo vệ quyền lợi người nuôi.

Ba là: Hệ thống thủy lợi ở các vùng nuôi tuy có đầu tư nhưng chưa đúng mức và chưa phát triển kịp trình độ nuôi. Hệ thống thủy lợi ở các vùng nuôi cần có hệ thống cấp thoát độc lập, có hệ thống xử lý nước thải để bảo vệ môi trường sinh thái chung. Riêng ở huyện Đông Hòa, tỉnh đang có dự án đầu tư hệ thống thủy lợi cho vùng nuôi trồng thuỷ sản ở hạ lưu sông Bàn Thạch. Đảng bộ và nhân dân trong huyện hết sức phấn khởi và sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất để tỉnh sớm hoàn thành dự án này.

Bốn là: Trong khi chờ triển khai dự án, trước mắt huyện tổ chức quy hoạch lại các vùng nuôi phát triển theo hướng đa dạng hóa, luân canh, xen canh các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế. Đây là điều kiện tiên quyết để phát triển nuôi trồng thủy sản đảm bảo hiệu quả và bền vững.

Qua các hội nghị tổng kết, hội thảo huyện chúng tôi xác định sẽ hình thành 3 vùng nuôi sinh thái:

+ Vùng 1: Luân canh 1 vụ lúa, cói và 1 vụ tôm.

Qui mô diện tích từ 100 đến 150 ha, nằm cuối vùng tôm có độ mặn thấp, nguồn nước ngọt dồi dào. Trước hết, năm 2006 chúng tôi qui hoạch 70ha để nuôi theo mô hình này.

Về biện pháp sẽ giữ nguyên hiện trạng, đầu tư xây dựng các cống điều tiết ngăn mặn, giữ ngọt ở các vị trí đầu mối hoàn thiện hệ thống giao thông nội đồng. Như vậy, có thể canh tác 1 vụ lúa từ tháng 12 đến tháng 3 và 1 vụ tôm từ tháng 4 đến tháng 9.

+ Vùng 2: Nuôi cá và thủy đặc sản nước lợ.

Qui mô diện tích từ 150 đến 200ha, chủ yếu phát triển ở vùng giao thoa giữa vùng nước ngọt và nước thải của vùng nuôi khi thủy triều dâng, đặc điểm của vùng này là giàu dinh dưỡng, tích tụ nhiều chất hữu cơ nên nuôi tôm kém hiệu quả, năng suất, sản lượng không ổn định, nhưng phù hợp cho nuôi cá rô phi đơn tính, cá chẽm, cá đối, cá măng.

+ Vùng 3: Chuyên nuôi tôm.

Qui mô diện tích từ 700 đến 800 ha, trước mắt tôm sú vẫn xác định là đối tượng chính, nhưng ở mỗi ao nuôi chúng tôi chỉ đạo phải dành 10-15% diện tích để chắn khung lưới nuôi ghép cá rô phi đơn tính, cá diêu hồng; những nơi có điều kiện thì xây dựng ao xử lý nước thả cá rô phi, diêu hồng, rong biển và vẹm xanh. Mục đích nhằm xử lý giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Trong vùng này, nhất là khu vực gần cửa sông nuôi xen cá mú, cá giò, cá hồng bạc, cua xanh, ghẹ xanh, nhằm chia nhỏ diện tích nuôi tôm, hạn chế được dịch bệnh có thể bộc phát.

Năm là: Phải tổ chức xây dựng và thực hiện nghiêm túc Quy chế vùng nuôi trồng thủy sản tập trung: Để thích ứng với xu hướng của thị trường xuất khẩu thủy sản, yêu cầu chất lượng sản phẩm ngày càng cao và an toàn không dư lượng hóa chất, truy xuất nguồn gốc cả dây truyền sản xuất từ khâu sản xuất giống, nuôi thương phẩm, chế biến, bảo quản đến khâu tiêu thụ cuối cùng. Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi phải xây dựng và thực thi quy chế quản lý vùng nuôi tập trung là yêu cầu bức bách.

Một số kiến nghị:

Để tạo điều kiện cho huyện phát triển trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản vùng hạ lưu sông Bàn Thạch trong năm 2006 và những năm tiếp theo, chúng tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau:

1- Đề nghị tỉnh sớm hoàn thành và triển khai dự án xây dựng hệ thống thủy lợi phục vụ cho vùng nuôi trồng thủy sản ở hạ lưu sông Bàn Thạch.

2- Cần có sự chỉ đạo thống nhất từ cấp tỉnh đến cấp xã trong việc tổ chức xây dựng quy chế vùng nuôi và quản lý vùng nuôi. UBND tỉnh cần ban hành những chính sách quản lý cụ thể và nên nghiên cứu thành lập các tổ chức quản lý từ tỉnh đến cơ sở (chẳng hạn như mô hình quản lý thủy lợi của thủy nông Đồng Cam…), có biện pháp chế tài thích đáng đối với những hành vi vi phạm.

3- Về dịch bệnh tôm xảy ra liên tiếp và không thể khắc phục được, trước hết là do độc canh một đối tượng, mầm bệnh tích lũy, tiềm ẩn nên luôn đe doạ đến hiệu quả nuôi trồng thủy sản và thực tế đã xảy ra nhưng chưa có giải pháp khắc phục. Vấn đề này xin kiến nghị: Tỉnh ủy có Nghị quyết chỉ đạo các ngành chức năng như: ngành Khoa học – Công nghệ, Thủy sản cần nghiên cứu các đối tượng nuôi mới, xây dựng các mô hình trình diễn chuyển giao khoa học, công nghệ nhiều đối tượng mới có giá trị kinh tế cao, có khả năng nuôi được như: cá mú, cá hồng, cá chẽm, cá rô phi đơn tính, cua, ghẹ, rong câu…v.v… nhưng người dân còn thiếu thông tin, quy trình kỹ thuật nuôi và mô hình trình diễn theo phương thức dạy nghề.

- Tổ chức chỉ đạo sản xuất ở vùng nuôi cần phải theo quy chế quản lý vùng nuôi tôm tập trung. Trên thực tế, một số vùng nuôi chưa xây dựng quy chế nuôi, tổ chức sản xuất theo kiểu tự phát, cơ chế quản lý chưa thống nhất về mùa vụ, việc sử dụng nguồn nước chưa chú trọng,… Đặc biệt, ở những hồ tôm bị bệnh còn tùy tiện thải nước ra môi trường chung không qua xử lý nên môi trường bị ô nhiễm, dịch bệnh dễ phát sinh và lây lan trên diện rộng. Vấn đề này rất phức tạp, ngoài trách nhiệm của huyện, chúng tôi xin kiến nghị các ngành chức năng của tỉnh quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ cho huyện.

4- Tạo cơ chế có tính khả thi nhất để thực hiện sự liên kết 4 nhà: Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông. Đồng thời phía Nhà nước cần có chiến lược thị trường để tiêu thụ sản phẩm cho người nuôi.

5- Qua nhiều năm nuôi tôm bị thất bại, nông dân đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn đầu tư sản xuất trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Đề nghị tỉnh cần có giải pháp khoanh nợ, giãn nợ, tiếp tục giải quyết cho nông dân được vay vốn để phát triển sản xuất.


Giá cá tra, ba sa xuất khẩu tăng 20-25% so cuối năm 2005

Nguồn tin: WAG, 15/3/2006
Ngày cập nhật: 16/3/2006

 


VĨNH LONG, CẦN THƠ: Trúng mùa cá bông lau

Nguồn tin: NLĐ, 15/3/2006
Ngày cập nhật: 16/3/2006

Ngư dân Cần Thơ, Vĩnh Long đang vào mùa đánh bắt cá bông lau, loài cá đặc sản ngon nổi tiếng của sông Hậu.

Chị Bé Sáu, một chủ vựa chuyên mua bán cá bông lau ở chợ khu vực 2, thị trấn Cái Vồn, huyện Bình Minh, cho biết: Năm nay cá bông lau xuất hiện trên sông Hậu nhiều hơn mọi năm liên tiếp trong mấy con nước, mỗi ngày chị mua vào trên 200 kg, nhiều con nặng trên 10 kg. Giá cá bông lau bán tại vựa hồi đầu mùa trên 40.000 đồng/kg, hiện nay còn 30.000 đồng/kg vì đang thu hoạch rộ.

N. San


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang