• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Quy hoạch 5 vùng kinh tế sinh thái thủy sản

Nguồn tin: VNECONOMY, 18/01/2006
Ngày cập nhật: 22/1/2006

Đối với lĩnh vực nuôi trồng, sẽ phát triển mạnh ở tất cả các loại mặt nước.

Thủ tướng Chính phủ vừa có Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.

Mục tiêu tổng quát là xây dựng thủy sản thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, có sức cạnh tranh cao, có kim ngạch xuất khẩu lớn, có khả năng tự đầu tư phát triển, góp phần đáng kể phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các vùng ven biển, hải đảo.

Theo Quy hoạch này, trong thời kỳ từ năm 2006 – 2010, bình quân mỗi năm sản lượng thủy sản dự kiến sẽ tăng 3,8%, giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 10,63%, lao động nghề cá tăng 3%; nhằm đạt tổng sản lượng đến năm 2010 từ 3,5 – 4 triệu tấn (trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 2 triệu tấn, khai thác hải sản từ 1,5 – 1,8 triệu tấn, khai thác nội địa đạt 0,2 triệu tấn), giá trị kim ngạch đạt 4 tỷ USD (năm 2005 đã xuất khẩu đạt 2,65 tỷ USD), số lượng lao động nghề cá đạt 4,7 triệu người (năm 2005 khoảng 3,6 triệu người).

Mục tiêu phát triển bền vững

Quan điểm phát triển của Quy hoạch chỉ rõ: “Phát triển ngành thủy sản nhanh và bền vững trên cơ sở khai thác, sử dụng tốt mọi tiềm năng về đất đai, mặt nước và lao động, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học – công nghệ sản xuất; tiếp tục chuyển dịch cơ cấu các ngành nghề sản xuất – kinh doanh, có cơ cấu hợp lý giữa khai thác với nuôi trồng, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái”.

Đối với lĩnh vực khai thác, những giải pháp chính được xác định là tiếp tục chuyển nhanh cơ cấu nghề khai thác ven bờ theo hướng ổn định sản lượng khai thác đánh bắt, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, chuyển từ nghề khai thác ven bờ sang nghề khai thác xa bờ, nghề nuôi trồng thủy sản hoặc dịch vụ, du lịch; quản lý chặt chẽ việc đóng mới, cấp giấy phép khai thác để giảm dần số tàu nhỏ khai thác ven bờ, đồng thời duy trì và củng cố số tàu khai thác xa bờ; phát triển các mô hình tổ chức kinh tế tập thể, tổ chức các đội tàu theo nghề để khai thác có hiệu quả và giúp nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Với mức sản lượng 1,5 – 1,8 triệu tấn/năm, dự kiến sẽ khai thác từ vùng vịnh Bắc Bộ 0,27 triệu tấn, vùng biển miền Trung 0,37 triệu tấn, vùng biển Đông Nam Bộ 0,71 triệu tấn, vùng biển Tây Nam Bộ 0,2 triệu tấn, vùng giữa biển Đông, cá nổi đại dương và hợp tác khai thác ở vùng biển quốc tế 0,25 triệu tấn.

Theo đó, số lượng tàu thuyền năm 2010 sẽ được giữ ở mức 50.000 chiếc (năm 2005 có khoảng 91.000 chiếc), trong đó số lượng tàu có công suất máy lớn hơn 75 CV là 6.000 chiếc, từ 46 – 75 CV là 14.000 chiếc...

Đối với lĩnh vực nuôi trồng, sẽ phát triển mạnh ở tất cả các loại mặt nước, trong đó chú trọng nuôi trồng hải sản trên biển ở vùng ven bờ, gắn với mô hình quản lý cộng đồng, hình thành các tổ chức kinh tế tập thể, đảm bảo giải quyết việc làm cho lao động nghề cá chuyển nghề, vừa bảo vệ nguồn lợi thủy sản; hình thành những vùng nuôi công nghiệp tập trung có khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn, áp dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường và là nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu.

Trong cơ cấu sản lượng khoảng 2 triệu tấn/năm, nuôi nước ngọt dự kiến sẽ đạt 0,98 triệu tấn, nuôi nước mặn lợ đạt 1,02 triệu tấn, nuôi biển đạt 0,2 triệu tấn. Diện tích đưa vào nuôi trồng từ 1,1 – 1,4 triệu ha, trong đó nuôi nước ngọt từ 0,5 – 0,6 triệu ha, nuôi mặn lợ từ 0,6 – 0,8 triệu ha.

Đối với lĩnh vực chế biến, sẽ nâng cấp đồng bộ về cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, đổi mới trang thiết bị các cơ sở chế biến thủy sản hiện có và phát triển thêm để nâng tổng công suất cấp đông lên 3.500 – 4.000 tấn/ngày vào năm 2010; các cơ sở chế biến (công nghiệp) đều đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện an toàn vệ sinh và thú y thủy sản; đa dạng các mặt hàng thủy sản chế biến, nâng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng có giá trị gia tăng và tươi sống, với sản lượng đưa vào chế biến đạt 891.000 tấn.

Để đạt giá trị kim ngạch 4 tỷ USD, công tác xúc tiến thương mại, thông tin và dự báo thị trường... sẽ được chú trọng tăng cường để giữ vững các thị trường truyền thống, phát triển thị trường mới, đặc biệt chú ý vươn tới các thị trường Trung Quốc, châu Phi, các nước Ảrập, Nam Mỹ...

Đồng thời, các địa phương, doanh nghiệp, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam cũng được yêu cầu tích cực tổ chức tiếp thị trên các thị trường, cả trong nước và nước ngoài, nhanh chóng xây dựng thương hiệu, quảng bá thương hiệu, có các biện pháp chặt chẽ để giữ vững và nâng cao uy tín của thương hiệu.

5 vùng kinh tế - sinh thái thuỷ sản

Đặc biệt, Quy hoạch đã chia cả nước thành 5 vùng kinh tế – sinh thái thủy sản, từ đó xác định hướng đi thích hợp, phát huy lợi thế của từng vùng.

Theo đó, vùng Đồng bằng sông Hồng sẽ tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản trên các loại mặt nước ngọt, mặn lợ, đặc biệt là các vùng ruộng trũng, eo vịnh, với một số đối tượng chủ yếu như: cá rô phi, tôm các loại, cá song, cá giò, cá vược, vẹm xanh, trái cấy ngọc...; nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp hợp lý để khai thác có hiệu quả các ngư trường khai thác trọng điểm và vùng đánh cá chung theo Hiệp định hợp tác nghề cá vịnh Bắc Bộ; nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có; hình thành các trung tâm hậu cần dịch vụ nghề cá ven biển.

Vùng Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung: tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản mặn lợ, đặc biệt phát huy thế mạnh nuôi biển, tập trung vào một số đối tượng chủ yếu như: tôm các loại, sò huyết, bào ngư, trái cấy ngọc, cá song, cá giò, cá hồng...; hình thành các vùng sản xuất giống tập trung; tăng cường đầu tư để phát triển khai thác xa bờ; nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có và phát triển thêm một số nhà máy; hình thành các trung tâm hậu cần dịch vụ nghề cá ven biển.

Vùng Đông Nam Bộ: phát triển nuôi nước ngọt hồ chứa và nuôi biển với một số đối tượng chủ yếu là: cá song, cá giò, cá rô phi, tôm các loại...; đầu tư phát triển hợp lý đội tàu khai thác xa bờ; nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có; hình thành các trung tâm hậu cần dịch vụ nghề cá ven biển.

Vùng ĐBSCL: phát triển nuôi trồng thủy sản trên tất cả các loại mặt nước, đặc biệt là nuôi tôm, cá tra, ba sa, sò huyết, nghêu và một số loài cá biến; củng cố và nâng cấp đội tàu đánh bắt xa bờ hiện có; nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có và phát triển thêm một số nhà máy...

Vùng miền núi trung du phía Bắc và Tây Nguyên: phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nhất là nuôi cá hồ chứa, phát triển các mô hình VAC với các đối tượng chủ yếu như: cá rô phi, tôm càng xanh, cá chép, trắm cỏ... phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại chỗ.

Đức Long

 


Ếch Thái không hái ra tiền

Nguồn tin: TT, 20/1/2006
Ngày cập nhật: 21/1/2006

Háu ăn, thậm chí ăn thịt lẫn nhau; bụng to, đùi nhỏ, lại khá lười biếng... là những đặc điểm dễ thấy nhất ở ếch Thái Lan. Chúng đã ồ ạt “đổ bộ” vào VN và phong trào nuôi ếch Thái nổi lên khoảng gần một năm nay. Nhưng...

Nuôi 100, hao hụt 57!

Năm 2005 là thời điểm đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của phong trào nuôi ếch Thái ở nhiều tỉnh, thành. Nếu năm 2004 tại TP.HCM chỉ lác đác một số ít hộ nuôi loại ếch này mang tính thử nghiệm, thì đến cuối năm 2005 qua thống kê sơ bộ đã có đến khoảng 300 hộ nuôi ếch Thái với các qui mô khác nhau.

“Đây là tốc độ phát triển rất nhanh đối với loại vật nuôi còn rất mới” - các nhà chuyên môn của Trung tâm Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và khuyến nông TP.HCM nhận định. Không những vậy, phong trào nuôi ếch Thái nhanh chóng lan ra nhiều tỉnh, thành cả nước và khu vực đồng bằng sông Cửu Long cũng là một trong những nơi có số lượng nuôi lớn.

Ông Đặng Ái Việt - chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng và bảo vệ nguồn lợi thủy sản TP.HCM - cho biết chỉ trong năm 2005 lượng ếch giống nhập qua cửa khẩu TP.HCM khoảng trên 4 triệu con và ếch bố mẹ trên 8.000 con. Còn ở 17 trại ếch giống khu vực TP.HCM đã xuất bán ra thị trường khoảng 2,5 triệu con, gồm giống sản xuất tại chỗ và nhập khẩu.

Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu, đánh giá nhiều khía cạnh..., Trung tâm Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và khuyến nông TP.HCM chính thức phát “tín hiệu” không mấy lạc quan: hiệu quả của mô hình nuôi ếch công nghiệp ở TP.HCM trong năm 2005 là rất thấp.

Kết quả của đợt khảo sát thực tế ở các hộ nuôi ếch theo mô hình nuôi công nghiệp tại thành phố này cho thấy chỉ có 73 hộ nuôi (chiếm 36,5%) là hòa vốn hoặc có lãi. TS Trần Viết Mỹ - giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và khuyến nông TP.HCM - nói qua nghiên cứu thực tế đã cho thấy trung bình cứ nuôi 100 con ếch là hao hụt 57 con (tương đương 57%), một tỉ lệ hao hụt lớn.

TS Mỹ cho biết thêm ngay khi thả giống đã hao hụt khoảng 26%, rồi hao hụt do bệnh tật khoảng 10%, các nguyên nhân khác như môi trường, chăm sóc... khoảng 21%. Trong khi đó, các nhà chuyên môn tính toán tỉ lệ ếch sống bình quân thấp nhất phải đạt 55% mới có khả năng đảm bảo có hiệu quả kinh tế.

Đó là chưa kể đến yếu tố đầu ra của ếch Thái đang “bí”. Chính vì ếch Thái có cặp đùi nhỏ so với trọng lượng cơ thể nên việc tìm đường xuất sang thị trường các nước không phải là chuyện dễ dàng. Nói chung việc tiêu thụ sản phẩm ếch công nghiệp có khó khăn, giá cả biến động và thấp, chưa đánh giá được khả năng tiêu thụ.

Chớ nên chạy theo phong trào

Một nhà khoa học Trường ĐH Nông lâm TP.HCM cho rằng trước mắt không nên khuyến khích người dân thả nuôi rộng rãi, chỉ có thể nuôi ở mức độ nhất định. Quan tâm đến góc độ chất lượng con giống, Trung tâm Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và khuyến nông TP.HCM lưu ý: ếch công nghiệp là con giống lai nên dễ xảy ra tình trạng thoái hóa giống, ếch con chậm lớn, thích nghi kém với môi trường dẫn đến chết hàng loạt, gây thiệt hại cho người nuôi.

Cũng với thái độ cẩn trọng, TS Nguyễn Tuần - Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2 - bày tỏ quan điểm: ở thời điểm này không nên phát triển ồ ạt ếch Thái và người dân cũng không nên chạy theo phong trào nuôi ếch công nghiệp.

Theo ông Tuần, nếu việc nuôi ếch Thái được khuyến khích phát triển mạnh, rộng rãi thì chỉ làm giàu cho những người bán giống mà thôi! Lý do: đây là vật nuôi còn mới mẻ, chưa có những nghiên cứu sâu để hiểu rõ về những vấn đề nuôi ếch Thái... và hiệu quả kinh tế bước đầu cho thấy là không cao, có thể người dân sẽ gặp khó khăn khi nuôi với qui mô lớn. Mặt khác loài ếch này ăn thịt lẫn nhau làm tỉ lệ hao hụt khá lớn trong quá trình nuôi.

Trong khi đó, Trung tâm Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và khuyến nông TP.HCM cũng khuyến cáo nếu nuôi ếch Thái Lan trong ao và trong vèo lưới thì vấn đề phát tán giống nuôi ra môi trường bên ngoài rất khó kiểm soát.

Theo trung tâm này, nên hạn chế phát triển nuôi ếch trong ao và trong vèo lưới; cần có biện pháp đảm bảo an toàn, đồng thời tuyệt đối không để giống nuôi thất thoát tràn lan ra môi trường xung quanh.

QUỐC THANH

 


Vùng biển Kiên Giang: Báo động kiểu khai thác hủy diệt nguồn lợi thủy sản

Nguồn tin: BCT, 20/1/2006
Ngày cập nhật: 21/1/2006

 


Nuôi cá hồi ở Sa Pa

Nguồn tin: TT, 20/1/2006
Ngày cập nhật: 20/1/2006

TT - Một loại cá chỉ có ở châu Mỹ, châu Âu, sống trong môi trường "nước động", nhiệt độ thấp, thường ngược dòng để đẻ trứng rồi... tự chết.

Đó là cá hồi vân (còn gọi là cá hồi ráng) giờ được nuôi ngay dưới chân "nóc nhà Đông Dương" - đỉnh Phanxipăng, tại thác Bạc, huyện Sa Pa (Lào Cai)...

Dưới chân thác Bạc (độ cao 1.700m), một dãy nhà mái tôn đơn sơ dựng lên. Gần chục chiếc bể nhỏ đường kính 2-5m được đặt trong dãy nhà. Ba bể lớn đường kính 10-15m phía ngoài và tiếp theo là ba cái “ao nhân tạo” (đào đất và lót nilông, mái lưới...) lớn hơn cứ nối tiếp nhau theo kiểu ruộng bậc thang. Rồi gần 1.000m đường ống dẫn nước từ thác Bạc về trại. Du khách thắc mắc, người Mông ở Sa Pa thì tò mò, ai cũng bảo đúng là ngược đời, ai lại đưa cá ở đâu đâu về nuôi trên núi đá...!

Thế nhưng vào những ngày đầu xuân 2006, đúng một năm sau khi dự án nuôi cá hồi được khởi động, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 (VNCNTTS1) Bộ Thủy sản, chính thức thông báo: dự án nuôi cá hồi tại VN đã thành công. Những con cá được nuôi trong nguồn nước lấy từ đỉnh những ngọn núi cao nhất VN.

Ăn ngủ cùng cá hồi

Có lẽ thạc sĩ Nguyễn Văn Thìn - VNCNTTS1, phụ trách kỹ thuật của trại - đã “đắm say” với con cá hồi. Sau hơn một năm, anh vẫn nhớ như in tất cả những gì liên quan đến trại cá, quá trình ấp nở, lớn lên của con cá hồi. Không cần sổ sách, anh vanh vách kể: ngày 21-1-2005, lô hàng 25.000 trứng cá Hồi được nhập và chuyển đến Sa Pa. Trong vòng một tuần sau đó, trứng đã nở với tỉ lệ cao không ngờ, trên 90%. Ngày 8-2-2005, trại tiếp tục nhập thêm 25.000 trứng và tỉ lệ nở đạt 97%.

Thạc sĩ Thìn ví việc nuôi cá vất vả hơn nuôi con mọn. Gần chục chuyên gia, kỹ thuật viên, nhân viên trại cá như bà đỡ đã thật sự ăn ngủ và lúc nào cũng chỉ nghĩ đến cá hồi. Kỹ thuật viên Nguyễn Thị Trọng (kỹ sư công nghệ sinh học), phụ trách môi trường, cho biết cá hồi chỉ sống ở nước trong sạch, nhiệt độ không quá 150C, nước phải luôn “động”, oxy trong nước phải đạt đúng chỉ số cho phép.

Chỉ cần một trong các yếu tố trên thay đổi, cá sẽ “phơi bụng, lập lờ nổi hết”. Chính vì điều kiện nuôi ngặt nghèo như thế, gần chục kỹ thuật, nhân viên, thậm chí huy động cả bảo vệ, phải chia ca túc trực bên bể cá trong suốt một năm qua. Mọi người không có khái niệm nghỉ ca bởi sẽ được huy động “cứu cá” bất kể lúc nào. Hơn nữa tất cả đều là người dưới xuôi lên núi tình nguyện “ba cùng” với trại cá bằng tình yêu khoa học chứ không phải vì đồng lương...

Tháng 8-2004, dự án nuôi cá hồi tại VN (tổng kinh phí 4 tỉ đồng) được khởi động với sự giúp đỡ của Đại sứ quán Phần Lan, tỉnh Lào Cai và Bộ Thủy sản.

Các chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu thủy sản Phần Lan và Trung tâm Đổi mới nghề cá Phần Lan ghi nhận “dự án nuôi cá hồi ở Sa Pa, VN đã tiến triển rất tốt, đạt mục tiêu”.

Bộ Thủy sản đã đồng ý cấp 8 tỉ đồng (năm 2006-2007) để nâng cấp trại cá hồi Sa Pa thành Trung tâm Nghiên cứu nuôi trồng cá nước lạnh.

Có những đêm mưa trời Sa Pa rét cắt da cắt thịt nhưng người canh cá vẫn phải thức, cứ nửa tiếng, một giờ lại vác đèn leo núi gần một cây số dọc đường ống, ngược lên thác để kiểm tra có rác, lá cây trôi vào đường ống hay không. “Chỉ cần rác làm tắc ống, không kịp khắc phục thì 15-20 phút là cá nguy to.

Đã bị một lần như thế, mưa làm tắc ống 15 phút làm hàng ngàn con cá con chết uổng”. Còn hằng ngày, nhất là khi nước trong bể “nóng” lên 160C, anh em ca trực liên tục đo nồng độ oxy trong bể, vận hành các máy sục khí, dàn mưa..., tất cả đều làm thủ công. Tết này Nguyễn Văn Thìn cùng một nửa quân số của trại sẽ phải lần thứ hai ăn tết ở trại cá...

Cá hồi sẽ bơi về... Đà Lạt

Hiện đã có một số nơi xin được chuyển giao và khá thành công trong việc nuôi cá hồi. Công ty TNHH Thiên Hà (Lào Cai) đã xây dựng trang trại gần thác Bạc và mua lại của trại 14.000 cá hồi con. Sau gần nửa năm nuôi, tỉ lệ cá sống khá cao, giờ Thiên Hà cũng đã có cá thương phẩm bán ra thị trường với giá 140.000 đồng/kg.

Trung tâm Nghiên cứu thủy sản Lai Châu cũng mua lại 500 con về nuôi thử. Đặc biệt, theo PGS-TS Lê Thanh Lựu, viện trưởng VNCNTTS1, UBND tỉnh Lâm Đồng đã đồng ý cấp đất, tạo mọi điều kiện “mời” viện xây dựng một số trại nuôi cá hồi ngay tại Đà Lạt.

Còn tại nơi sinh ra “cá hồi VN”, ông Hoàng Văn Long - phó giám đốc Sở Nông nghiệp & phát triển nông thôn Lào Cai - cho biết tỉnh đánh giá việc nuôi cá hồi sẽ mở ra hướng làm ăn mới cho địa phương. Tuy nhiên do kinh phí đầu tư khá lớn, kỹ thuật cao nên trước mắt tỉnh khuyến khích các doanh nghiệp phát triển nuôi cá hồi tại Lào Cai.

PGS-TS Lê Thanh Lựu cho biết hai ba năm tới “chi phí đầu tư nuôi cá hồi sẽ giảm”. Trại cá hồi đã chọn lựa được 2.000 cá bố mẹ để nuôi đẻ trứng và nếu không có gì thay đổi, cuối năm 2007 hoặc đầu 2008 “chúng ta sẽ chủ động được cá giống, không phải nhập nữa”. Ngay trong năm 2006 cũng sẽ nghiên cứu để sản xuất thức ăn cho cá ngay tại VN.

Trong tương lai không xa, người dân VN được thưởng thức món cá đặc sản xứ lạnh này. Đó cũng là tâm niệm của PGS-TS Lựu, Thìn, Thắng, Trọng... cùng các cộng sự của anh.

ĐỨC BÌNH

 


Con tôm Việt ở chợ Thụy Sĩ

Nguồn tin: TN, 19/1/2006
Ngày cập nhật: 20/1/2006

 


Không thấy độc tố sinh học trong mẫu nhuyễn thể hai mảnh vỏ

Nguồn tin: TTXVN, 20/1/2006
Ngày cập nhật: 20/1/2006

Hà Nội (TTXVN) - Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (NAFIQAVED), cho biết năm 2005, ngành thủy sản đã tiến hành phân tích trên 700 mẫu nhuyễn thể 2 mảnh vỏ tại 18 vùng nuôi và kết quả cho thấy tất cả các mẫu đều đạt tiêu chuẩn, không phát hiện thấy độc tố sinh học.

NAFIQAVED cho biết thêm các các lô hàng nhuyễn thể 2 mảnh vỏ xuất khẩu sang thị trường EU đều đạt yêu cầu.

Hiện Liên minh châu Âu (EU) đã công nhận 18 vùng thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ của Việt Nam đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường này./.

 


Cà Mau: Hơn 90% hộ nông dân nuôi cá bống tượng đạt hiệu quả cao

Nguồn tin: BCT, 20/1/2006
Ngày cập nhật: 20/1/2006

Sau hơn 10 năm hình thành và phát triển, nghề nuôi cá bống tượng ở xã Tân Thành, thành phố Cà Mau đã giúp cho nhiều hộ nông dân ở đây thoát nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng, trở thành nguồn kinh tế chủ lực của xã này.

Tân Thành hiện có tổng diện tích nuôi cá bống tượng khoảng 170 ha với 1.464 hộ nuôi, chiếm 58,7% số hộ dân toàn xã, trong đó hơn 90% hộ nuôi đạt hiệu quả kinh tế khá cao, cung cấp cho thị trường nội địa và xuất khẩu 3.000 - 4.000 tấn cá/năm. Theo đó, thu nhập cao nhất từ nuôi cá bống tượng trên dưới 700 triệu đồng/hộ/năm và bình quân từ 50 đến 200 triệu đồng/hộ/năm. Hiện nay, giá thị trường của sản phẩm này khá cao, trên dưới 300.000 đồng kg cá loại I (trọng lượng 0,5-0,8kg/con), 240.000-260.000 đồng/kg cá loại II đã thu hút nhiều hộ nuôi thủy sản ở Tân Thành nói riêng và toàn tỉnh Cà Mau nói chung chuyển sang nuôi cá, xóa dần độc canh con tôm vốn tiềm ẩn những rủi ro, bất lợi.

LÊ HUY HẢI

 


Bà Rịa-Vũng Tàu: Nuôi luân canh tôm và cá rô phi

Nguồn tin: NNVN, 16/1/2006)
Ngày cập nhật: 19/1/2006

Nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, vừa qua, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu đã xây dựng mô hình nuôi cá rô phi đơn tính trên ao tôm. Mô hình này thành công khẳng định phương thức nuôi luân canh 1 vụ cá, 1 vụ tôm, không những đảm bảo hiệu quả kinh tế mà còn giải quyết được những vấn đề môi trường.

Ao nuôi cá rô phi đơn tính của mô hình trình diễn có diện tích 5.000m2, mật độ 3 con/m2, sử dụng thức ăn công nghiệp kết hợp với thức ăn tự chế biến. Sau 6 tháng, cá đạt trọng lượng thương phẩm 500-700g/con. Ước tính sản lượng thu hoạch trên 6 tấn, năng suất tương đương 12 tấn/ha, với giá bán 13.000 - 14.000 đồng/kg, người nuôi có thể thu nhập khoảng 25-30 triệu đồng.

 


Hà Nội: Nghề nuôi thuỷ sản phát triển

Nguồn tin: Nhân Dân, 16/1/2006)
Ngày cập nhật: 19/1/2006

Từ năm 2000 đến nay, xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì đã cải tạo hơn 90ha từ vùng đồng bằng trũng thành những cơ sở nuôi thuỷ sản chất lượng cao, cho thu nhập hơn 100 triệu đồng/ha/năm.

Xã Đông Mỹ là nơi có cơ sở hạ tầng kỹ thuật hoàn thiện như hệ thống điện lưới, đường liên thôn, hệ thống thuỷ lợi…Năm đầu tiên, các hộ chỉ dám nhận 1,2 ha nuôi thuỷ sản theo hai phương thức: nuôi cá trong ruộng lúa; đào ao, hồ, đắp bờ nuôi tôm cá theo phương pháp công nghiệp. Đến nay, diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn xã đã lên tới 90ha với 106 hộ tham gia.

Nhờ có phát triển thuỷ sản, đến nay, toàn xã đã có 35% hộ giàu và nhiều hộ thoát được nghèo. Thành phố cũng đã xét duyệt cho xã lập doanh nghiệp nông nghiệp để tạo cho địa phương sản xuất, kinh doanh tổng hợp làm ra những sản phẩm mang thương hiệu Đông Mỹ.


Có thể Mỹ sẽ nới lỏng quy định ký quỹ tôm

Nguồn tin: VNECONOMY, 19/01/2006
Ngày cập nhật: 19/1/2006

 


Tìm hiểu tình hình sản xuất kinh doanh thủy sản tại các doanh nghiệp chế biến tỉnh An Giang

Nguồn tin: WAG, 17/1/2005
Ngày cập nhật: 18/1/2006

 


Cần tận dụng diện tích mặt nước phát triển thủy sản

Nguồn tin: Binhthuan, 18/01/2006
Ngày cập nhật: 18/1/2006

Tại xã Hàm Trí, huyện Hàm Thuận Bắc, phần đất thuộc khu vực Trại bò giống của tỉnh hiện tại có gần 20ha diện tích mặt nước bỏ trống chỉ có sen mọc đầy hồ. Diện tích mặt nước này được hình thành là do quá trình thi công hồ Sông Quao. Các hồ này nuôi cá thì rất thuận lợi về nguồn nước vì sát tuyến kênh Sông Quao.

Ông Nguyễn Thành Tuyên - Chủ tịch UBND xã Hàm Trí cho biết: "diện tích các hồ này khoảng 20ha hiện đang bỏ trống nhiều năm liền, thật lãng phí, vì không tận dụng được lợi thế sẵn có của địa phương. Một số nông dân ở Hàm Trí muốn mướn diện tích mặt nước này để phát triển thủy sản nhưng chưa rõ thủ tục phải làm thế nào?". nếu không có trở ngại gì, cơ quan chức năng cần có kế hoạch, phối hợp với UBND xã Hàm Trí có hướng phát triển thủy sản nước ngọt ở khu vực này.

MINH THÁI

 


“Vương quốc tôm” đâu chỉ có con tôm?

Nguồn tin: BCT, 18/1/2006
Ngày cập nhật: 18/1/2006

Nhắc đến Cà Mau, nhiều người thường nghĩ ngay đó là “vương quốc tôm” với vùng nuôi thủy sản và ngư trường đánh bắt lớn nhất Đồng bằng sông Cửu Long. Sản lượng khai thác hàng trăm ngàn tấn mỗi năm, đã tạo ra nguồn nguyên liệu phong phú cho chế biến xuất khẩu. Ngoài con tôm đã vươn ra thị trường thế giới, “vương quốc tôm” còn nhiều loài thủy sản như: cá, mực, cua, ghẹ, sò huyết... có thể xuất khẩu thu về nhiều ngoại tệ. Tuy nhiên, những mặt hàng này hãy còn quanh quẩn trong thị trường nội địa. Đâu là giải pháp để tăng thêm giá trị kinh tế cho nguồn lợi thủy sản đó?

Sản phẩm dồi dào...

Ông Lý Thuận, Tổng thư ký Hội chế biến xuất khẩu thủy sản Cà Mau cho biết: “Ngoài con tôm, hàng năm Cà Mau còn trên 100.000 tấn thủy sản khác như: cá, mực, cua, ghẹ... có thể xuất khẩu nếu được chế biến tốt. Tuy nhiên, nó chưa được chú trọng đầu tư đưa vào chế biến để tăng thêm giá trị kinh tế, mở ra cơ hội làm giàu cho nông dân”. Đúng vậy ! Cà Mau dồi dào, phong phú sản phẩm thủy sản ngoài tôm bởi có ngư trường khai thác khoảng 80.000km2, đoàn tàu cá hơn 3.500 chiếc, tổng công suất 326.000 CV, trong đó trên dưới 1.000 phương tiện khai thác đánh bắt xa bờ. Diện tích nuôi thủy sản rộng đến 277.000 ha, gồm: chuyên canh tôm, nuôi tôm công nghiệp, nuôi kết hợp tôm với một số loài cá nước mặn, lợ 236.000 ha; cá nước ngọt 41.000 ha nuôi trên ruộng lúa, dưới chân rừng tràm, ao đìa... cho năng suất khá cao. Năm 2005, tổng sản lượng khai thác đạt 260.000 tấn với cá các loại và một số loài thủy sản khác chiếm 61,5%, còn lại là tôm 38,5%.

Sản phẩm thủy sản ngoài tôm này sẽ tiếp tục tăng lên trong thời gian tới do nông dân đang xóa dần độc canh con tôm vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro, chuyển sang nuôi kết hợp tôm với các đối tượng thủy sản khác. Đặc biệt là khi quy hoạch vùng ngọt hóa Bắc Cà Mau hoàn thành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất thì sản lượng cá, nhất là cá đồng sẽ tăng rất nhanh vừa phục vụ tiêu dùng trong nước vừa có thể chế biến ra nhiều sản phẩm hàng hóa xuất khẩu.

Nhưng còn bị thả nổi

Song, chế biến xuất khẩu thủy sản ở Cà Mau đã qua và hiện nay chỉ tập trung vào con tôm, chiếm tỷ suất gần 97% cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu trong năm 2005. Những mặt hàng cua, cá, mực... xuất khẩu không đáng kể, nhất là cá biển chỉ tiêu thụ nội địa dưới dạng nguyên liệu như: bán cá chợ, phơi khô hiệu quả kinh tế thấp và sản xuất chế biến bột cá làm thức ăn chăn nuôi trên 10.000 tấn/năm, chiếm khoảng 15% sản lượng chế biến thủy sản hàng năm của tỉnh. Năm 2005, sản lượng khai thác thủy sản 260.000 tấn (tôm 100.000 tấn); chế biến thủy sản 70.000 tấn, nhưng trong đó chế biến tôm đông 58.000 tấn, bột cá 10.000 tấn và còn lại hàng thủy sản khác cho thấy công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu ngoài tôm ở Cà Mau chưa phát triển, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức.

Đối với con cá đồng, thời gian qua cũng chỉ dừng lại tiêu thụ nội địa hoặc chế biến theo cách truyền thống phơi khô, làm mắm... Sản phẩm cá đồng không thương hiệu, chưa có thị trường xuất khẩu dù Cà Mau rất nổi tiếng về rừng U Minh Hạ với nhiều loài cá đặc sản chất lượng cao sinh sống dưới tán rừng như: sặt rằn, thác lác, rô đồng, cá lóc, cá trê... được mọi người ưa thích. Ngoài ra, nông dân ở đây đang trong xu thế phát triển mạnh mô hình nuôi một số loài cá sống môi trường nước mặn, lợ và ngọt có giá trị kinh tế cao như: cua, bống tượng, cá chình, cá chẽm, cá kèo...

Sản phẩm thủy sản ngoài tôm phong phú, dồi dào như vậy, nhưng hầu như chưa một doanh nghiệp (DN) chế biến thủy sản nào ở Cà Mau thu mua để giải quyết đầu ra ổn định mặt hàng cua, cá, mực... Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng chủ yếu là Cà Mau quá chú trọng vào tiềm lực con tôm, do con tôm có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ khá tốt, dễ đem lại lợi nhuận hơn so với các mặt hàng thủy sản khác. Vì vậy, con tôm chiếm ưu thế, lấn át những sản phẩm hàng hóa đồng loại nên các DN chỉ tập trung đầu tư chế biến xuất khẩu tôm. Nhiều DN chế biến xuất khẩu ở Cà Mau nói rằng, xuất khẩu sản phẩm ngoài tôm không phải không có thị trường, và nhà máy sản xuất chế biến được sản phẩm từ cá, mực, cua... Tuy nhiên, sản phẩm thủy sản ngoài tôm chủ yếu từ khai thác sông, biển; nuôi nhỏ lẻ và lệ thuộc quá nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời tiết, mùa vụ; công nghệ khai thác đánh bắt chưa phát triển nên nguồn nguyên liệu không ổn định; thiếu công nghệ bảo quản dẫn đến chất lượng không tốt, do vậy DN chưa mặn mà với các loại sản phẩm này, không mạnh dạn chế biến xuất khẩu. Sản phẩm thủy sản ngoài tôm cứ thế bị thả nổi, giá trị kinh tế giảm thấp...

Đâu là tầm nhìn chiến lược?

Lợi thế của Cà Mau là chế biến thủy sản xuất khẩu dẫn đầu cả nước về sản lượng, kim ngạch xuất khẩu do có thiết bị công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất ngang tầm với các nước và thị trường thế giới khá lớn. Đây là điều kiện rất thuận lợi để đưa con cá song hành cùng con tôm vươn ra thương trường quốc tế. Theo các DN, hệ thống 25 nhà máy, xí nghiệp chế biến thủy sản của Cà Mau hiện nay với năng lực sản xuất 102.000 tấn/năm có thể chế biến được những sản phẩm hàng hóa thủy sản ngoài tôm để xuất khẩu và chỉ cần đầu tư bổ sung thêm một số thiết bị chuyên dụng là có dây chuyền công nghệ sản xuất chế biến.

Hiện nay, tỉnh Cà Mau đã chủ trương thực hiện đa dạng hóa sản phẩm trong chế biến thủy sản xuất khẩu và ban hành những chính sách ưu đãi kêu gọi đầu tư xây mới các nhà máy chế biến sản phẩm thủy sản ngoài tôm, thưởng xuất khẩu, hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường. Quy hoạch, đầu tư phát triển mang tính chiến lược hiệu quả lĩnh vực khai thác đánh bắt thủy sản để tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định, nhằm thu hút các DN tham gia. Trên cơ sở đó, phân định việc quản lý ngư trường trên tuyến khơi, tuyến lộng, tuyến ven bờ; đầu tư xây dựng hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá khá đồng bộ ở thành phố Cà Mau, Sông Đốc, Hòn Khoai, Hòn Chuối, Khánh Hội... nhằm giúp ngư dân khai thác đánh bắt đạt kết quả. Quy định mùa vụ khai thác từng vùng, từng tuyến đi đôi với xử lý nghiêm những hành vi vi phạm để vừa đánh bắt đạt sản lượng, chủng loại, vừa bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản tăng nhanh trữ lượng. Ngành chức năng điều tra, khảo sát nguồn lợi thủy sản ở từng vùng, từng tuyến trên ngư trường để xác định đúng trữ lượng, chủng loài và đầu tư phát triển hợp lý cho từng lĩnh vực ngành nghề như: cào, lưới, câu... Chọn hộ ngư dân tay nghề cao, nhiều kinh nghiệm, đủ điều kiện sản xuất và mạnh dạn đầu tư đồng bộ cho từng ngành nghề; không đầu tư tràn lan như đã qua kém hiệu quả, những hộ không có tay nghề, phương tiện công suất nhỏ đánh bắt ven bờ cần có kế hoạch, giải pháp cho hộ chuyển đổi ngành nghề khác. Thực hiện thí điểm vài chục hộ dân khai thác xa bờ từ khâu đầu tư hoàn chỉnh về phương tiện, trang thiết bị hàng hải chuyên dùng, thuyền trưởng, máy trưởng, ngư phủ lành nghề, hướng dẫn kỹ thuật xác định ngư trường đến khâu cung cấp dịch vụ hậu cần nghề cá, bao tiêu sản phẩm, chế biến xuất khẩu. Từ hiệu quả của mô hình thí điểm này tổ chức nhân rộng trên ngư trường và hàng năm có kế hoạch đầu tư phát triển, sắp xếp lại trật tự nghề cá trên biển, đồng thời tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định cho chế biến xuất khẩu, bảo vệ và tái tạo nhanh nguồn lợi thủy sản.

Lĩnh vực nuôi thủy sản, ngoài việc phát triển trong môi trường tự nhiên, Cà Mau quy hoạch đầu tư nuôi tập trung theo quy mô hộ gia đình, hình thức hợp tác, trang trại ở từng vùng, tiểu vùng phù hợp trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chọn giống tốt, chất lượng cao, mời gọi đầu tư liên kết để tạo ra sản lượng cá hàng hóa lớn, đồng đều kích cỡ, đa dạng về chủng loài cung cấp cho chế biến xuất khẩu. Tổ chức thực hiện liên kết “4 nhà”, gồm: nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và Nhà nước. Xây dựng chiến lược đa phương thức mua bán hàng thủy sản, tạo thị trường ổn định thông qua tăng cường đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tìm kiếm khách hàng. Thực hiện các chính sách ưu đãi để thu hút đối tác đầu tư, hợp tác kinh doanh, mua bán sản phẩm trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu thủy sản. Có thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp mới tạo điều kiện thuận lợi cho sản phẩm thủy sản ngoài tôm đủ sức vươn ra thị trường thế giới, tăng thêm giá trị và phát triển mạnh trong thời gian tới.

LÊ HUY HẢI

 


“Vua ếch” Mười Thập

Nguồn tin: BCT, 17/1/2006
Ngày cập nhật: 17/1/2006

“Vua ếch” là tên vui mà người dân An Giang đặt cho Mười Thập, người đầu tiên nuôi và nhân giống ếch thành công tại An Giang và ĐBSCL. Từ hai bàn tay trắng, Mười Thập lập nên cơ nghiệp trị giá hàng tỉ đồng: trang trại nuôi ếch, cung cấp ếch giống và bao tiêu đầu ra uy tín tại khóm Đông Thạnh A-phường Mỹ Thạnh, TP Long Xuyên.

GIAN NAN ĐƯỜNG KHỞI NGHỆP

Là một thanh niên quê Nga Sơn-Thanh Hóa lại thành công với nghề nuôi ếch tận Miền Tây Nam bộ làm nhiều người không khỏi giật mình. Chính cái nghèo khó đã tôi luyện Phạm Đăng Thập (Mười Thập) thành một con người có bản lĩnh như ngày nay. Đôi lúc nghĩ lại anh cười và nói: “Con cháu Mai An Tiêm mà. Phải làm thế nào cho xứng đáng chứ!”.

Đầu thập niên 1990, đất nước đang trong giai đoạn đầu đổi mới, ở cái tuổi 30, Mười Thập vẫn tay trắng trong khi lòng vẫn nung nấu “phải có danh gì đó với núi sông”. Mười Thập kể: “Lúc đó nghèo lắm. 2 vợ chồng và 1 đứa con vào tới Bến xe miền Tây, trong túi chỉ còn 7.000 đồng. Đón xe về Cần Thơ phải mất 12.000 đồng nên lơ xe đuổi xuống. Mình dắt vợ, con lội bộ đến một cây xăng gần đó thì một ông xe tải thấy tội bèn cho quá giang về Vĩnh Long và gửi một xe đò quen cho về Long Xuyên”. Vợ chồng Mười Thập ở nhờ nhà tập thể của người anh ruột (làm công chức tại An Giang) và tìm hướng làm ăn.

Sau nhiều bận suy tính, anh chọn ngọn kinh Ông Cò, xã Vĩnh Khánh, Thoại Sơn để bám trụ và bắt đầu nghề giữ lúa mướn. Khi đến đây, hai vợ chồng chỉ còn cái đồng hồ là vật có giá trị, Mười Thập bán lấy 172.000 đồng để mua 150 con vịt tàu về nuôi... Cuộc sống vô vàn khó khăn. Mùa lũ năm nào người ta cũng thấy anh tập bơi xuồng để bước vào cái nghề hạ bạc của cư dân vùng lũ. Cũng ra giăng lưới, giăng câu nhưng không tài nào dính cá như người địa phương Được cái là đàn vịt đẻ rất sai (anh có bằng trung cấp chăn nuôi). “Chính nó đã giúp mình lập nghiệp”, Mười Thập nói như biết ơn những chú vịt của 15 năm về trước. Cứ thế đàn vịt được gầy lên 500 con rồi 1.000 con và 3.000 con.

Được một số vốn, Mười Thập lại một phen thử thách. Anh lên Long Xuyên mua nhà và xin vào làm tại Công ty Du lịch An Giang, vợ anh thì nấu ăn tại cửa hàng gạo của công ty. Với tấm bằng thuyền trưởng mà anh đã có trong lúc rảnh rỗi theo học ở Thoại Sơn, anh phụ trách lái tàu du lịch cho công ty. Rồi vợ chồng cũng dành dụm mua 30 công đất tại Tri Tôn. Làm du lịch, anh có nhiều dịp đi đây đó, nắm bắt thị trường nhanh nhạy hơn... suy tính kỹ lưỡng anh bàn với vợ trở lại nghề chăn nuôi.

DUYÊN NỢ VỚI CON ẾCH THÁI

Anh bán đất ở Tri Tôn và vay thêm ngân hàng mua 20 công đất tại phường Mỹ Thạnh để mở trang trại nuôi ba ba. Tháng 8-2002, Mười Thập liên hệ khắp nơi để tìm nơi nuôi và cho đẻ ba ba và anh chọn Hà Tĩnh là nơi “tầm sư học đạo”. Mười Thập kể: “Trại giống chỉ đặt vấn đề mua con giống ba ba để nuôi thương phẩm. Nhưng con ếch Thái Lan quả là có duyên nợ với mình. Khi đó đang có một chuyên gia Thái Lan qua chuyển giao công nghệ sản xuất và nuôi ếch Thái cho trại giống này. Mình quyết theo học. Lúc này mình biết có rất nhiều người nuôi nhưng chỉ là ếch đồng nên không lời nhiều”. Mười Thập xin vào làm công nhân tại đây để học nghề nuôi ếch Thái. Với bản tính ham học hỏi, không bao lâu, những tuyệt chiêu từ ông thầy người Thái đã nằm trong đầu Mười Thập. Về An Giang, Mười Thập mang theo 600 con ba ba, 500 con ếch con và 5 cặp ếch bố mẹ. Chính những con ếch đầu tiên này của Mười Thập đã mở ra một phong trào nuôi ếch Thái Lan rầm rộ tại Miền Tây mấy năm qua.

Bà Nguyễn Thị Ngọc Trinh, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang nhận xét: “Chất lượng ếch giống của trại giống Mười Thập rất đảm bảo. Không bệnh tật cũng như không hao hụt khi mua về nuôi. Chính trung tâm cũng mua con giống từ chỗ anh Thập về để sản xuất giống cung cấp cho bà con”.

Mười Thập thú thật “Không có bí quyết gì ghê gớm. Chỉ áp dụng đúng qui trình kỹ thuật, cộng với kinh nghiệm thực tế. Nếu chỉ lơ là một công đoạn là coi như hỏng hết”.

...VÀ CUNG CÁCH LÀM ĂN MỚI

Trang trại ếch 2 ha của Mười Thập giờ đã hoàn thiện với 40 bể sản xuất giống và hơn 6.000m2 nuôi ếch thịt. Mỗi năm anh cung ứng gần 2 triệu con ếch giống cho cả đồng bằng và gần 500 tấn ếch thịt xuất khẩu. Nhưng cái hay của Mười Thập là tin tưởng vào khả năng của mình và chất lượng con giống mình sản xuất. Do đó, tất cả ếch giống bán ra anh đều hợp đồng thu mua lại ếch thương phẩm của bà con với mức giá theo giá thị trường. Mười Thập giải thích: “Chỉ có cách làm đó bà con mới an tâm mua ếch giống của mình. Không chỉ vậy mà mình còn đến tận nhà hướng dẫn bà con cách làm bể nuôi, kỹ thuật chăm sóc và phòng bệnh để bà con nuôi đạt kết quả. Và hiện nay, với sự phát triển mạnh của phong trào thì bà con sẽ bán ở đâu nếu không có người đảm bảo đầu ra”.

Ngoài ra anh còn đầu tư trang trại 1ha tại Củ Chi - TPHCM để nuôi hỗ trợ cùng với các doanh nghiệp ổn định thị trường xuất khẩu và trữ bán nội địa.

Trong những ngày cao điểm lũ vừa qua, trại giống Mười Thập lúc nào cũng tấp nập người đến tìm mua giống. Chỉ cái bảng ghi chi chít tên và số lượng, Mười Thập nói: “Nhu cầu của bà con lớn quá mình không thể nào cung cấp đủ”. Hơn 15 người với số lượng gần 50.000 ếch giống được ghi lại lên bảng để chờ lứa ếch tới. Còn khu vực nuôi ếch thịt của Mười Thập, 6 tháng qua dùng để nuôi trữ ếch thu mua chờ đưa lên TPHCM.

Với kinh nghiệm và bản lĩnh, Mười Thập không dừng lại. Anh bật mí: đang tận dụng bể đẻ của ếch để sản xuất lươn giống. Nếu không có gì trở ngại thì qua Tết này anh sẽ bắt đầu cung cấp giống ra thị trường.

BÌNH NGUYÊN

 


Nghệ An: Năm 2006 phấn đấu khai thác thuỷ hải sản đạt 66.000 tấn

Nguồn tin: Vinanet, 17/1/2006
Ngày cập nhật: 17/1/2006

 


Kiên Giang: năm 2005, khai thác được 305.565 tấn thuỷ sản các loại

Nguồn tin: Vinanet, 17/1/2006
Ngày cập nhật: 17/1/2006

 


Đa dạng đối tượng nuôi trồng thủy sản

Nguồn tin: WBD, 16/01/2005
Ngày cập nhật: 17/1/2006

Mới đây, sở Thủy sản đã phối hợp Cục Thống kê tỉnh tiến hành khảo sát toàn diện tình hình nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh. Qua kết quả khảo sát cho thấy việc nuôi trồng thủy sản hiện nay rất đa dạng, cụ thể: Toàn tỉnh có 451 ha diện tích canh tác tôm thịt, với 590 lượt ha thả nuôi trong 3 vụ; năng suất bình quân 3,31 tấn/ha/năm, sản lượng tôm thu hoạch 1.950 tấn, phần lớn các hộ thả nuôi trong năm 2005 đều đạt hiệu quả kinh tế. Hiện có 492 cơ sở sản xuất tôm giống, tuy nhiên đến thời điểm hiện nay chỉ có 684 trại tổ chức sản xuất với sản lượng 5,15 tỷ con giống. Ngoài giống tôm sú, các loài giống khác như ương tôm hùm giống 30.000 con; ốc hương 30 triệu con; các loại giống khác như bào ngư, cá lăng vàng, cá chim trắng, trê lai, rô phi, chép... khoảng 12 triệu con. Có 900 hộ nuôi trồng hải đặc sản, trồng 720 ha rong sụn, thu hoạch 9.000 tấn; tôm hùm thương phẩm 325 lồng, sản lượng thu hoạch 45 tấn; các đối tượng khác như sò huyết, cá mú, cua, ghẹ, ốc hương 36,7 ha, sản lượng thu hoạch 95 tấn và nhiều hộ gia đình ở huyện Ninh Sơn nuôi cá nước ngọt, sản lượng trên 100 tấn...

 


Lo chuyện an toàn cho con tôm

Nguồn tin: TBKTSG, 13/1/2006
Ngày cập nhật: 16/1/2006

Năm 2005 là năm ngành tôm Việt Nam tiếp tục đương đầu với nhiều trở ngại, khó khăn, nhất là các rào cản kỹ thuật xuất hiện ngày càng nhiều tại các thị trường tiêu thụ lớn. Nhưng đáng mừng là kết quả xuất khẩu vẫn tăng 16% so với năm 2004, đạt 2,74 tỉ đô la Mỹ.

Ông Trần Thiện Hải, Chủ tịch Ủy ban Tôm, thuộc Hiệp hội Chế biến, Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), cho biết nhiều doanh nghiệp đã đạt mức tăng trưởng trên 20% so với năm 2004, như Minh Phú Seafoods Group, Quốc Việt, Vietfoods, Amanda Foods, Út Xi, Seanamico, CP Việt Nam, Camimex, Sea Minh Hải. Riêng Minh Phú Seafoods Group là doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu ngành với trên 130 triệu đô la Mỹ. Về thị trường, Nhật vẫn là nước nhập khẩu tôm Việt Nam nhiều nhất với trên 40% giá trị kim ngạch, kế đến là Mỹ, trên 30%, và EU. Đáng chú ý là tuy tôm Việt Nam bị áp thuế chống bán phá giá ở thị trường Mỹ nhưng mức tăng trưởng của thị trường này cũng đạt hơn 13% so với năm 2004.

Lý giải về những yếu tố góp phần làm nên kết quả này, ông Trần Thiện Hải cho rằng đó là nhờ diện tích nuôi tôm lớn, môi trường nuôi nhìn chung còn khá tốt, các nhà máy chế biến không ngừng được nâng cấp và đầu tư công nghệ mới... Hơn nữa sản phẩm tôm sú, nhất là tôm sú cỡ lớn, của Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh so với một số nước như Thái Lan, Ấn Độ...

Một điều đáng mừng, theo ông Hải, chính là sự bình tĩnh, kinh nghiệm hơn của nhiều doanh nghiệp trong xử lý những diễn biến bất thường của thị trường. Đây cũng là yếu tố tích cực tạo nên hiệu quả chung, qua đó cho thấy doanh nghiệp thủy sản Việt Nam hiện nay đã khá vững vàng và thích nghi tốt với thị trường.

Tuy nhiên vẫn còn không ít hạn chế mà ngành tôm Việt Nam cần khắc phục như hệ thống nuôi, thu mua nhỏ lẻ như hiện tại chưa đáp ứng được các đòi hỏi ngày càng cao về an toàn của thị trường. Việc quản lý chất lượng tôm nguyên liệu yếu kém trong nhiều năm qua đã gây nhiều phiền toái, thậm chí có lúc rất khó khăn trong xuất khẩu cho doanh nghiệp.

Ông Hải cho rằng năm nay doanh nghiệp phải tập trung lo chuyện an toàn, ổn định và khả năng truy xuất nguồn gốc của sản phẩm, đồng thời phải chứng minh sự an toàn đó bằng các phương pháp quản lý có thể kiểm tra được. Nói chung, trước đòi hỏi ngày càng cao của thị trường, các mô hình nuôi tôm hiện nay cần được tổ chức lại, nhất là nuôi quảng canh. Người nuôi phải chịu trách nhiệm an toàn cho con tôm nguyên liệu mà mình sản xuất ra. Khâu lưu thông cũng phải được chấn chỉnh để bảo đảm độ tươi, sạch trong quá trình vận chuyển từ đầm nuôi đến nhà máy. Các nhà sản xuất, xuất khẩu cũng không thể đứng ngoài cuộc, mà phải góp phần vào việc tổ chức lại sản xuất nếu muốn sản phẩm của mình đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, vốn ngày càng khó tính.

Về hướng đi trong những năm tới, ông Hải cho biết tôm sinh thái hay tôm sạch là hướng đi bắt buộc và cần được đầu tư vì nhu cầu thị trường tốt, giá lại cạnh tranh

Phan Văn Kiệt

 


Xuất khẩu Thuỷ sản năm 2005: Về đích đúng hẹn, hoàn thành mục tiêu

Nguồn tin: QDND, 13/1/2006
Ngày cập nhật: 16/1/2006

 


Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020

Nguồn tin: VOV, 14/01/2006
Ngày cập nhật: 15/1/2006

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 10 phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.

Từ năm 2010 và định hướng đến năm 2020, xuất khẩu năm 2020 sẽ ở mức 4,5-5 tỷ USD. Trong đó, các nhóm sản phẩm như tôm, cá tra, basa, cá ngừ đại dương, mực và bạch tuộc, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, cá biển, cá rô phi sẽ là những đối tượng chủ lực phục vụ hoạt động chế biến và xuất khẩu.

Chỉ tiêu tăng trưởng thời kỳ 2006-2010 là sản lượng tăng bình quân 3,8%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng bình quân 10,63%/ năm; lao động nghề cá tăng bình quân 3%/năm.

Theo quyết định của Thủ tướng, cần xây dựng và phát triển ngành thủy sản việt Nam trở thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, có khả năng cạnh tranh cao gắn với đẩy mạnh xuất khẩu và bảo đảm luôn có kim ngạch xuất khẩu cao trong giai đoạn tới; đồng thời, áp dụng nhanh và hiệu quả tiến bộ khoa học, công nghệ trong sản xuất, chế biến; gắn sản xuất, chế biến, tiêu thụ với yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái.

Bộ Thủy sản cho biết, các đơn vị chức năng của Bộ này vừa hoàn tất chương trình lấy mẫu và kiểm tra, phân tích hơn 700 mẫu nhuyễn thể 2 mảnh vỏ tại 18 vùng nuôi trong cả nước theo 5 chỉ tiêu: tảo độc, độc tố sinh học biển, vi sinh vật gây bệnh, dư lượng kim loại nặng, thuốc trừ sâu gốc chlore. 100% mẫu được phân tích, kiểm tra cho thấy đều đạt yêu cầu vệ sinh an toàn, không có độc tố sinh học biển.

Hiện nay, Việt Nam đã được EU công nhận trong danh sách nhóm I các nước được phép xuất khẩu nhuyễn thể 2 mảnh vỏ vào thị trường này với 18 vùng nuôi trồng, khai thác, với tổng diện tích 33.885 ha, đạt sản lượng 141.950 tấn/năm./.

 


Giá hải sản “leo thang”

Nguồn tin: BCT, 14/1/2006
Ngày cập nhật: 15/1/2006

 


ĐBSCL chiếm hơn 72% số trang trại thủy sản cả nước

Nguồn tin: BCT, 15/1/2006
Ngày cập nhật: 15/1/2006

Gần đây, ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nhiều hộ làm kinh tế nông - lâm - ngư đã chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Các tỉnh chuyển đổi cơ cấu sản xuất thủy sản nhanh là: Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh... Năm 1995, ở ĐBSCL chỉ có hơn 2,2% số hộ làm kinh tế thủy sản; hiện nay tốc độ tăng số hộ nuôi trồng thủy sản trong vùng cao nhất nước và chiếm hơn 8,1% so với số hộ nông thôn toàn khu vực. Hiện ĐBSCL có hơn 12.100 trang trại thủy sản, chiếm hơn 72% số trang trại thủy sản của cả nước. Toàn vùng đã phát triển được nhiều mô hình sản xuất chuyên nuôi thủy sản, trang trại nuôi tôm sú công nghiệp, nuôi thủy sản kết hợp với sản xuất lúa, tôm - rừng...

Việc phát triển nuôi trồng thủy sản không chỉ ở vùng nước mặn mà cả vùng nước ngọt với nhiều mô hình cho hiệu quả kinh tế khá cao như: nuôi cá tra, cá ba sa, rô đồng, rô phi trong ao hồ theo hình thức thâm canh, nuôi tôm càng xanh mương vườn, nuôi cá trong lồng- bè. Ngoài ra, người dân ĐBSCL còn đầu tư phát triển nuôi nghêu, sò huyết trên các bãi bồi ven biển nhằm giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo cho hàng trăm ngàn lao động ở vùng nông thôn ven biển.

Q.D


Năm 2006: Bắt đầu dự án nuôi cá hồi châu Âu tại Việt Nam

Nguồn tin: SGGP, 15/1/2006
Ngày cập nhật: 15/1/2006

Dự án đầu tư xây dựng Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản nước lạnh (cá hồi) vừa được Bộ Thủy sản phê duyệt với tổng vốn đầu tư hơn 8,4 tỷ đồng, trên diện tích 1,36ha tại huyện Sa Pa (Lào Cai).

Dự án sẽ được triển khai bắt đầu từ năm 2006. Theo kế hoạch, đến năm 2007, bắt đầu có cá giống và cá thương phẩm để cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước.

Theo ông Lê Thanh Lựu, Viện trưởng Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 (khu vực phía Bắc), trong năm 2005, cơ quan này đã ươm thành công 2 giống cá nước lạnh của châu Âu tại Việt Nam, gồm cá hồi và cá tầm. Đây là chương trình được sự tài trợ của Phần Lan.

Theo đó, 50.000 trứng cá hồi từ Phần Lan đã được nhập vào Việt Nam để ươm thử nghiệm tại Trung tâm Nghiên cứu cá nước ngọt Lào Cai. Kết quả cho thấy, 70% số trứng đã nở và phát triển thành cá thương phẩm với trọng lượng trung bình đạt 1,5 kg/con.

Trong năm 2006, viện sẽ nhập thêm 110.000 trứng cá hồi để ươm giống tại Yên Bái, Lào Cai; đồng thời mở rộng phạm vi nuôi thử nghiệm tại một số khu vực khác như Nghệ An, Thừa Thiên – Huế, Lâm Đồng... Được biết, cá hồi là loài chỉ ưa sinh sản và phát triển ở khu vực có nhiệt độ lạnh 10 C-20 C.

NGỌC THỦY

 


Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang