• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Giải pháp nào cho nghề nuôi hải sản ở vịnh Nha Trang?

Nguồn tin: TTCN, 19/03/2005
Ngày cập nhật: 20/3/2005

TTCN - Hàng chục nghìn dân Nha Trang sinh sống nhờ nghề nuôi hải sản (tôm hùm, cá mú, hồng...) tại vịnh Nha Trang đang hết sức hoang mang, lo lắng trước lệnh di dời toàn bộ lồng bè ra khỏi vịnh.

Việc di dời này là theo thông báo số 685/UB ngày 30-12-2004 của UBND TP Nha Trang.

Lý do đưa ra cho lệnh di dời là việc nuôi hải sản trong vịnh là tự phát, không được sự cho phép của cấp có thẩm quyền, không đúng qui hoạch, không đăng ký kinh doanh, gây mất mỹ quan trên vịnh, làm ô nhiễm nước biển, sắp tới là festival trên biển ở Nha Trang.

Phục vụ kế hoạch giải tỏa vịnh, đầu tháng 1-2005 tỉnh tổ chức chuyến khảo sát khu vực ven biển các huyện Ninh Hòa, Vạn Ninh. Theo kế hoạch di dời, chậm nhất là 31-1-2005 các hộ có hộ khẩu thường trú tại các đảo trong vịnh phải di dời các lồng bè khỏi Vũng Me về Đầm Bấy, các hộ thuộc các xã, phường trong đất liền TP Nha Trang phải di dời lồng bè đến các huyện Vạn Ninh, Ninh Hòa (từ 30-90km), nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế!

Thế nhưng, hai tháng trôi qua kể từ ngày ra thông báo, ngoại trừ khoảng một phần ba số hộ ở Vũng Me (chủ yếu của các hộ trong đất hiện nuôi qui mô lớn) đã di dời về Đầm Bấy và Vũng Ngáng (trong vịnh), phần lớn các hộ ở Vũng Me và các khu vực khác trong vịnh vẫn án binh bất động. Đông đảo các hộ ký tên kiến nghị tỉnh xem xét lại chủ trương di dời, mức hỗ trợ... Lại một hạn chót nữa được ấn định: 16-3 là hạn cuôi đăng ký di dời, sau đó là cưỡng chế.

Qua tìm hiểu, được biết sở dĩ hầu hết các hộ dân chưa thông bởi các lý do đưa ra không mấy thuyết phục, cách thức hình thành và triển khai chủ trương di dời chưa sát với thực tiễn, không coi trọng mục tiêu bảo đảm và tạo điều kiện cho việc làm ăn sinh sống của dân lao động nghèo...

Thứ nhất, về thủ tục, qui hoạch. Lồng bè có kích thước lớn, không phải như chiếc kim, người dân làm công khai ngay trong vịnh, nếu không hợp pháp sao chẳng thấy cơ quan nào ngăn cản? Thậm chí lãnh đạo tỉnh còn ủng hộ bằng cách động viên ngân hàng cho vay ưu đãi từ nguồn vốn xóa đói giảm nghèo. Nghề hình thành ở vịnh Nha Trang đầu thập niên 1990, đến nay vẫn chưa có cơ quan nào cấp phép. Vậy người dân phải xin phép ở đâu, khi nào? (Tuy vậy, UBND phường Vĩnh Nguyên cũng tổ chức cấp số thứ tự lồng bè và thu phí 250.000đ/bè). Qui hoạch nuôi trồng thủy sản ven biển của tỉnh mãi đến đầu năm 2001 mới được lập và đến 2004 vẫn chưa hoàn tất qui hoạch chi tiết. Sao lại trách người nuôi không đúng qui hoạch? Theo qui định hiện hành, nghề nuôi trồng thủy sản qui mô hộ gia đình được Nhà nước khuyến khích, không phải đăng ký kinh doanh, không phải đóng thuế. Sao lại nói không đăng ký kinh doanh?

Thứ hai, về vấn đề ô nhiễm nước biển. Tại báo cáo số 403/BC-DA ngày 6-10-2004 của Ban quản lý dự án khu bảo tồn biển Hòn Mun, các chỉ số quan sát và phân tích cho thấy nguồn nước ở khu vực vịnh Nha Trang chưa thật sự bị ô nhiễm. Ở những khu vực có nuôi trồng thủy sản, hàm lượng chất lơ lửng ở mức 61,60 (+-) 23,12 mg/l (theo TCVN-2000 thì giá trị giới hạn là 50 mg/l đối với chất lượng nuôi trồng thủy sản ven bờ và các bãi tắm).

Tuy nhiên, báo cáo nhận định: nguyên nhân có thể do cả việc nuôi trồng và từ các công trình xây dựng ven biển trôi xuống. Ở các khu vực nuôi, tỉ lệ chất hữu cơ đáy, hàm lượng NO2, NO3, NH3, P2O5 khá cao nhưng nhìn chung hàm lượng vi khuẩn phân tích tại 20 trạm nghiên cứu trong khu vực vịnh vẫn ở mức chưa cao.

Hơn nữa, theo các chủ hộ, chất lượng nước biển trong vịnh là vấn đề sống còn của tôm cá họ đang nuôi nên không ai sợ rác bằng họ. Họ tự tổ chức và thực hiện rất nghiêm túc việc đóng góp tiền chi phí thu gom rác (chủ yếu là vỏ giáp xác- thức ăn cho tôm cá nuôi) giao cho Công ty Vệ sinh môi trường xử lý. Vịnh Nha Trang có kích thước mỗi chiều cả chục kilômet. Tổng diện tích chiếm mặt nước của các lồng bè mới chỉ khoảng 150.000m2 (hàng trăm triệu mét vuông).

Trong vịnh có nhiều khu vực thuận lợi cho việc nuôi trồng (ít sóng gió, đáy bùn, có hải lưu, xa các tuyến tàu thuyền du lịch qua lại...). Để phòng ngừa nguy cơ ô nhiễm tại các điểm nuôi, hoàn toàn có thể giải quyết vấn đề bằng khảo sát, lập qui hoạch chi tiết, qui định số lượng lồng bè theo diện tích mặt nước từng khu vực. Không cần thiết phải giải tỏa trắng toàn vịnh.

Thứ ba, về các khu vực qui định dời tới các huyện. Với cự ly nhiều chục, thậm chí cả trăm kilômet, tổn thất do hư hại lồng bè, vật nuôi là rất lớn. Đơn cử, duy nhất hộ ông Ngô Đình Vũ (166 Bạch Đằng, Nha Trang) tiên phong kéo 28 lồng vào Cam Ranh, dự kiến 16 giờ, phải mất 31 giờ, với tổng chi phí và tổn thất lên đến trên 50 triệu đồng (mức hỗ trợ chỉ là 5,174 triệu).

Hơn nữa, khu vực chủ yếu qui định dời tới là vịnh Vân Phong thuộc huyện Vạn Ninh, nơi đã được qui hoạch thành vùng du lịch trọng điểm, cảng trung chuyển dầu mỏ và container tầm khu vực. Di dời ra Vân Phong khác nào đánh bùn sang ao? Không ít người nuôi ở Vũng Me hiện nay vốn là dân cư ngụ tại Bãi Trũ. Mấy năm trước họ được động viên rời bỏ nơi cư ngụ để nhường chỗ cho khu du lịch Hòn Ngọc Việt, sang Vũng Me lập nghiệp. Nay lại bị buộc đi khỏi Vũng Me để ra Vân Phong, lấy gì đảm bảo họ sẽ được làm ăn ổn định và lâu dài ở đó?

Phần lớn các hộ nuôi đều phải hùn hạp, vay mượn, thế chấp bằng nhiều hình thức. Theo tính toán, chi phí, lợi nhuận khi sản xuất tại chỗ thì sau không dưới 5-7 năm mới thu hồi vốn, sinh lãi. Nếu buộc phải di dời quá xa, các hộ qui mô nhỏ phải bỏ nghề mà không biết tiếp tục mưu sinh bằng gì, các hộ lớn gặp khó khăn vì chi phí tăng quá cao. Nguy cơ thua lỗ, phá sản, dẹp nghề là thấy trước. Hậu quả thất nghiệp, nợ nần phát sinh khôn lường. Đối với nghề bẫy bắt tôm hùm giống (nguồn cung ứng chủ yếu của khu vực) ở phường Vĩnh Hòa và xã Vĩnh Lương, di dời đồng nghĩa với mất nghề. Còn đâu con giống cho nghề nuôi?...

Tại cuộc họp báo do UBND tỉnh tổ chức ngày 23-2 vừa qua, đông đảo phóng viên các báo cũng bày tỏ chưa đồng thuận với việc di dời này.

Nghề nuôi hải sản trong lồng bè ở Nha Trang hình thành từ đầu thập niên 1990 đã nhanh chóng phát triển bởi hiệu quả. Theo thống kê, hiện có hơn 600 hộ nuôi trong khu vực vịnh Nha Trang với khoảng 11.000 ô lồng. Hàng chục ngàn công ăn việc làm được tạo ra cho lao động phổ thông, giảm cơ bản nạn đốt than phá rừng, khai thác hải sản bằng các biện pháp hủy diệt. Nhiều hộ gia đình nhờ đó đã thoát cảnh đói nghèo, khá lên vững chắc. Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các ngân hàng cho vay đưa vào hoạt động này ước tính đã lên đến trên 300 tỉ đồng. Nghề hoàn toàn có thể phát triển và có triển vọng tốt.

Theo giới chuyên môn, nếu quan tâm đúng mức nghề nuôi trồng, Nha Trang hoàn toàn có thể có được qui hoạch hợp lý trong khu vực vịnh mà không ảnh hưởng đến cảnh quan (bằng qui định những khu vực nuôi trong vịnh, chỉnh trang ngăn nắp, bằng qui cách thiết kế nhà lồng bè...), môi trường (mật độ lồng bè, bố trí tại khu vực có dòng nước chảy, nuôi kết hợp nhuyễn thể đáy, trồng rong sụn...). Thậm chí, nếu có thiết kế đẹp, các lồng bè còn có thể trở thành những điểm thu hút khách du lịch tham quan làng nghề độc đáo của dân bản địa, thưởng thức đặc sản tươi sống tại chỗ hết sức thú vị, góp phần khắc phục điểm yếu của du lịch địa phương hiện nay: thừa phòng ngủ, thiếu điểm tham quan, giải trí, mua sắm.

VÕ VĂN TẠO

 


Cá tra, basa nguyên liệu tiếp tục tăng giá

Nguồn tin: AG, 19/3/2005
Ngày cập nhật: 19/3/2005

Từ sau Tết Nguyên đán đến nay, giá cá tra nguyên liệu tiếp tục tăng thêm 200 - 300 đồng/kg. Hiện nay, cá tra nuôi bè, ao hầm và đăng quầng loại thịt trắng giá 12.300 - 12.500 đồng/kg, loại thịt vàng 10.200 đồng/kg. Với mức giá ổn định này, người nuôi cá rất yên tâm đầu tư sản xuất.

Ông Lê Chí Bình, thư ký Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản An Giang (AFA) cho biết, hiệp hội sẽ sớm có những chủ trương, chính sách quy hoạch để nghề nuôi cá ở An Giang dần đi vào ổn định, hạn chế ô nhiễm nguồn nước. Năm 2004, tổng sản lượng nuôi toàn tỉnh 150.000 tấn và kế hoạch năm 2005 từ 180.000 - 200.000 tấn. Xu hướng người nuôi phát triển mạnh ao hầm, đất bãi bồi và giảm nuôi bè. Tuy nhiên, việc đào ao hầm nuôi cũng phải dựa trên quy hoạch của hiệp hội.

QUỐC DŨNG

 


Tôm, cá Việt Nam sẽ không còn bị kiện chống phá giá?

Nguồn tin: ebinhthuan, 19/3/2005
Ngày cập nhật: 19/3/2005

Tôm Việt Nam, một "nạn nhân" của Tu chính án Byrd.

Ngày 10/3, Chủ tịch Tiểu ban Thương mại Hạ viện Mỹ Clay Shaw và hạ nghị sĩ Jim Ramstad cùng trình lên Hạ viện nước này một dự luật nhằm xoá bỏ Tu chính án Byrd. Đối với nông dân và các DN xuất khẩu cá ba sa và tôm của VN, những người từng chịu đòn trực tiếp từ Tu chính án này, đây quả là một sự kiện đáng quan tâm.

Việc hai nghị sỹ trình dự luật bãi bỏ Tu chính án Byrd không nằm ngoài logic của các cuộc vận động quyền lực trong xã hội Mỹ. Nó cho thấy sự ra đời hay bãi bỏ một điều luật luôn gắn chặt với các cuộc vận động hành lang (lobby) của các nhóm lợi ích.

Thực chất, cuộc vận động huỷ bỏ Tu chính án Byrd đã bắt đầu từ tháng 6/2004. Đi đầu trong chiến dịch này là Liên minh hành động ngành thương mại công nghiệp tiêu dùng Mỹ (CITAC), Hiệp hội hùng mạnh của các nhà bán lẻ, các nhà hàng, các nhà phân phối, chế biến, các nhà nhập khẩu Mỹ.

Đạo luật Chống bán phá giá và đền bù trợ cấp (thường được gọi là Tu chính án Byrd) được thượng nghị sĩ Robert Byrd đề xuất và có hiệu lực từ năm 2000. Đạo luật này được sử dụng như một hàng rào bảo hộ thuế quan để chống lại sự thâm nhập của các sản phẩm nước ngoài vào thị trường Mỹ, chẳng hạn như gỗ thân mềm của Canada, thép của EU, và gần đây là sản phẩm tôm của một loạt nước, trong đó có Việt Nam. Trước khi Tu chính án Byrd ra đời, tiền thu được từ việc áp thuế nhập khẩu cao hơn đối với sản phẩm bị quy kết là bán phá giá được chuyển vào kho bạc Mỹ, nhưng nay khoản tiền này được phân bổ cho các doanh nghiệp, tùy theo mức độ bị ảnh hưởng.

Ngay từ khi mới ra đời năm 2000, đạo luật này đã vấp phải sự phản đối dữ dội của các nước trong Khu vực Mậu dịch Bắc Mỹ (NAFTA) và Tổ chức Thương mại Thế giới. Các nghị sỹ Mỹ cũng không mấy thích thú với điều luật ai cũng rõ là phi lý này (thu tiền thuế từ các vụ kiện phá giá trao cho các công ty đi kiện). Thế nhưng, họ vẫn bỏ phiếu dưới áp lực của các nhóm cử tri hưởng lợi. Một phán quyết của Cơ quan phúc thẩm WTO năm 2003 yêu cầu Mỹ huỷ bỏ Tu chính án Byrd chậm nhất vào ngày 27/12/2003 đã không được Chính quyền Mỹ tính đến. Lý do thật đơn giản, cuộc bầu cử Tổng thống sắp gần kề và ông Bush không muốn làm mếch lòng cử tri ở một số tiểu bang có thế mạnh về một số mặt hàng đang khởi kiện (thép, thuỷ sản...).

Đến nay, gió dường như đã đổi chiều. Không còn áp lực của bầu cử, sự vận động ráo riết của những Hiệp hội có tiếng nói và sức mạnh như CITAC đang buộc Chính quyền cũng như các nhà lập pháp Mỹ xem xét lại. Một loạt động thái gần đây cho thấy Tu chính án Byrd có thể bị đem ra bỏ phiếu. Trong Dự toán ngân sách 2005 đệ trình lên quốc hội Mỹ chính quyền Bush đã đề xuất hủy bỏ Tu chính án này. Trong khi đó, Phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ ra báo cáo cho thấy khoản trợ cấp thương mại này đã tạo động lực cho các công ty của Mỹ theo đuổi các vụ kiện chống bán phá giá thay vì nỗ lực tìm kiếm thị trường mới đồng thời có tác dụng tiêu cực đối với ngân sách. Cho đến nay, khoản tiền đền bù theo tu chính án Byrd đã lên tới hơn 1 tỷ USD, và riêng trong năm 2004, con số này là 284 triệu. Số tiền đền bù chắc chắn sẽ còn cao hơn nhiều vì rất nhiều doanh nghiệp Mỹ hiện đang “xếp hàng” để chờ đến lượt.

Và điều hợp logic là một dự luật do hai hạ nghị sỹ đồng bảo trợ đã được đệ trình. Trong một thông cáo của mình, CITAC đã tuyên bố sẽ phát động một chiến dịch vận động dư luận và giới luật gia bãi bỏ Tu chính án Byrd thông qua Nhóm làm việc về Tu chính án Byrd. Cuộc chiến lợi ích giữa các nhà nhập khẩu với giới xuất khẩu và tiêu dùng Mỹ đang đến hồi gay cấn. Có thể nhận định rằng có nhiều khả năng Tu chính án Byrd sẽ được hủy bỏ, hoặc ít ra nó sẽ được áp dụng một cách thận trọng hơn trước. Điều này rõ ràng là có lợi cho những quốc gia xuất khẩu sang thị trường Mỹ, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian xảy ra những việc này thì không hề chắc chắn, và vì vậy doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải luôn luôn sẵn sàng ứng phó bằng cách tìm hiểu thật kỹ thông tin và trang bị cho mình những kiến thức cần thiết về luật khi xuất khẩu sang Mỹ.

Tiến sĩ Kinh tế Vũ Thành Tự Anh, giảng viên Chương trình Fulbright:

Không nên ảo tưởng

Trước sau gì tu chính án Byrd có nhiều khả năng bị huỷ bỏ bởi nó mâu thuẫn với các nguyên lý xử lý tranh chấp thương mại quốc tế, và những thiệt hại mà nó gây ra cho nền kinh tế Mỹ. Năm 2002, cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO đã ra phán quyết rằng Tu chính án Byrd cho thấy Mỹ vi phạm các nghĩa vụ thương mại của WTO. Sau đó, Mỹ kháng nghị nhưng Toà phúc thẩm của WTO tiếp tục giữ nguyên quyết định này, dọn đường cho các đối tác thương mại trả đũa lại Mỹ.

Mặt khác, Tu chính án Byrd cũng đứng trứơc phản ứng dữ dội từ trong nước. Những chi phí phải trả cho các vụ kiện chống phá giá là quá lớn. Trước hết, đó là phúc lợi bị đánh mất đối với người tiêu dùng vì họ sẽ phải trả giá cao hơn cho sản phẩm. Ngoài ra, các nhà xuất khẩu của Mỹ cũng chịu đòn bởi nếu Mỹ áp mức thuế cao hơn chắc chắn sẽ bị trả đũa. Những nước đủ mạnh sẽ áp mức thuế cao hơn đối với các hàng hoá nhập từ Mỹ, được sự cho phép của WTO. Điều này đã xảy ra với mặt hàng dược phẩm và nông sản của Mỹ. Như thế, lợi ích của một nhóm nhỏ các công ty được bảo hộ đang được đánh đổi bằng sự hy sinh của đa số người tiêu dùng và các DN xuất khẩu Mỹ.

Như vậy trước sau gì, Tu chính án này cũng có khả năng bị huỷ bỏ. Tuy nhiên khả năng bao giờ bị huỷ phụ thuộc vào lộ trình của luật pháp Mỹ.

Vậy sự kiện này sẽ có tác động gì tới các DN Việt Nam. Lẽ đương nhiên, nếu Tu chính án Byrd bị huỷ bỏ sẽ rất có lợi cho các DN xuất khẩu của VN. Lợi ích này là có thể đo lường được khi chúng ta so sánh giá trị xuất khẩu vào Mỹ trước và sau khi các phán quyết chống phá giá được thực thi. Việc quy định cho các công ty đi kiện chống bán phá giá được hưởng số tiền thuế thu được từ hàng bán phá giá nhập khẩu đã tạo ra động lực cho các công ty này "hăm hở" đi kiện. Vì thế, bãi bỏ Tu chính án Byrd có thể hạn chế phần nào các vụ kiện chống phá giá.

Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng các DN Việt Nam không nên ảo tưởng rằng nếu Tu chính án Byrd được bãi bỏ thì các vụ kiện chống phá giá sẽ chấm dứt. Một điều tưởng như nghịch lý của thương mại toàn cầu là càng tự do hoá thương mại, các vụ kiện bán phá giá càng nhiều. Hiện tượng này cũng không phải là khó hiểu vì trong nền thương mại tự do, khi tần suất giao dịch ngày càng lớn thì các va chạm, xung đột lợi ích cũng ngày một nhiều hơn. Trong các xung đột đó, những vụ kiện bán phá giá trở nên thường tình. Và luật pháp của các nước cũng thường có xu hướng bảo vệ lợi ích của các hiệp hội, công ty nội địa.

Mặt khác, trong bối cảnh các công cụ hạn chế thương mại ngày càng co hẹp lại, vũ khí cuối cùng được các nước sử dụng nhiều nhất chính là các vụ kiện bán phá giá. Theo một Uỷ ban của WTO, chính EU lại sử dụng vũ khí kiện phá giá nhiều nhất.

Hơn nữa, tỷ lệ thắng của các nguyên đơn trong các vụ kiện phá giá rất cao. Đa số các vụ việc đều kết thúc bằng những phán quyết có lợi cho người khởi kiện hoặc được dàn xếp bằng cách các bị đơn đền bù một số tiền cho nguyên đơn.

Việc các DN VN vừa qua bị kiện bán phá giá xe đạp vào EU, Canada cho thấy chiều hướng này. Vì thế, điều quan trọng là DN phải có động lực và sức sống nội tại, hiểu biết về luật chung của thế giới cũng như có thông tin và chủ động đối phó với các vụ kiện. Rõ ràng từ vụ kiện cá basa cho tới vụ kiện tôm, các DN VN đã có bước tiến khá dài. Nếu như trong vụ kiện cá basa, chúng ta bị động hoàn toàn thì đến vụ kiện tôm, các DN Việt Nam đã chủ động hơn, chuyên nghiệp hơn và biết vận động hành lang các DN Mỹ cùng chung quyền lợi.

Chuyên gia Bùi Kiến Thành:

"Chơi với Mỹ phải biết vận động hành lang"

Việc bãi bỏ Tu chính án Byrd là hợp lý. Trong Quốc hội Mỹ không ai thú vị gì với đạo luật này bởi nó rất phi lý. Nhà nước Mỹ lại đi thu tiền của các nhà nhập khẩu Mỹ để trả cho các công ty đi kiện. Tuy nhiên, Tu chính án Byrd được thông qua trong thời gian có nhiều yếu tố tác động đến hoạt động của Quốc hội Mỹ. Đối với nền chính trị Mỹ, các nghị sỹ QH bỏ phiếu không phải vì tin hay không tin mà do áp lực của đơn bị bầu cử. Trong dịp này, nếu vận động hành lang tốt thì nhiều khả năng, Quốc hội Mỹ sẽ bãi bỏ điều luật này.

Song, tôi cho rằng không có gì mừng vui vì cho dù Tu chính án Byrd có được huỷ bỏ thì các vụ kiện chống phá giá vẫn tiếp tục như thường. Tiền thu được sẽ sung vào công quỹ thay vì trả cho các công ty đi kiện như trước đây. Dĩ nhiên, có thể các công ty đi kiện vì không thấy quyền lợi trực tiếp mà bớt hăm hở kiện tụng. Nhưng nếu họ thấy mình vẫn là nạn nhân và phải chịu sức ép cạnh tranh quá lớn từ bên ngoài thì họ vẫn đi kiện nhằm đẩy giá cao lên. Ở đây là chuyện sống còn của DN.

Câu chuyện ở đây là ứng xử của các DN Việt Nam. Chúng ta phải vận động hành lang như thế nào để những tập đoàn cùng quyền lợi đứng về phía mình. Trong vụ kiện tôm, số người bị thiệt hại gâp 10 lần số người đi khởi kiện. Liên minh hành động ngành thương mại công nghiệp tiêu dùng Mỹ (CITAC) đứng ra vận động hành lang chống lại vụ kiện phá giá. Rõ ràng, các DN Việt Nam cần có những mối liên kết với các tổ chức lobby để vận động các đối tượng, Hiệp hội đồng quyền lợi. Chơi với Mỹ nhất thiết phải biết vận động quyền lực trong xã hội Mỹ đứng cùng với mình. Tôi nghĩ đây cũng là cách xử lý nên có khi đối phó với những vụ kiện tương tự trong tương lai.

Việt Lâm (thực hiện)

 


Báo động tình trạng tôm sú giống kém chất lượng

Nguồn tin: BCT, 19/3/2005
Ngày cập nhật: 19/3/2005

Chi cục Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản tỉnh Trà Vinh cho biết, từ đầu năm đến nay Chi cục đã tiến hành kiểm dịch được hơn 351 triệu con tôm sú giống sản xuất tại chỗ và nhập từ các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và các tỉnh miền Trung. Qua kiểm tra Chi cục phát hiện 78 trường hợp với hơn 17,5 triệu con tôm sú giống có dấu hiệu nhiễm các bệnh đốm trắng, đỏ thân, bệnh MBV... Nhằm hạn chế lượng tôm giống kém chất lượng, nhiễm bệnh, tỉnh Trà Vinh vừa đầu tư hơn 900 triệu đồng trang bị thêm một máy PCR kiểm tra các bệnh đốm trắng, đầu vàng... trên tôm sú; đồng thời tăng cường công tác kiểm tra và quản lý chặt lượng tôm giống nhập tỉnh, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro cho người nuôi. Từ đầu năm đến nay ở Trà Vinh đã có 274 hộ nuôi bị thiệt hại hơn 12,5 triệu con tôm sú do môi trường nước chưa ổn định, nhiễm các bệnh đốm trắng, đỏ thân và bệnh MBV...

Còn tại Sóc Trăng, đến thời điểm này cũng đã có khoảng 320 ha tôm sú (từ 45 -70 ngày tuổi) thả nuôi sớm hơn lịch thời vụ bị thiệt hại do bệnh đốm trắng và sốc môi trường. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh nắng nóng làm nhiệt độ môi trường tương đối cao và nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm tương đối lớn dễ gây sốc môi trường đối với tôm nuôi. Đối phó với tình trạng này, Sở Thủy sản Sóc Trăng khuyến cáo, người dân thường xuyên giữ mức nước trong ao tôm thích hợp: khoảng 0,7m đối với ao nuôi quảng canh cải tiến, khoảng 1,2m đối với những mô hình nuôi tôm công nghiệp.

Q.D- ĐÔNG TRIỀU

 


Phú Yên: Bệnh tôm sú đang phát triển lây lan

Nguồn tin: ePY, 18/3/2005
Ngày cập nhật: 18/3/2005

Phòng NN và PTNT các huyện ven biển của tỉnh ngày 24.2 cho biết: Hiện đã có gần 70 ha (chiếm 18,6% diện tích thả nuôi trong toàn tỉnh) tôm sú nuôi bị bệnh đốm trắng, thân đỏ chết dạt bờ hàng loạt. Nguyên nhân do bà con thả tôm sớm hơn lịch thời vụ 1 tháng, lại thả tôm dày, không kiểm dịch, môi trường nước ô nhiễm, có độ mặn cao...

 


Hai trồng một nuôi

Nguồn tin: ND, 17/3/2005
Ngày cập nhật: 17/3/2005

Năm 2004, ngành nông nghiệp huyện Tam Nông, tỉnh Ðồng Tháp đã xây dựng thí điểm thành công mô hình nuôi thủy sản trên ruộng lúa đạt doanh thu hơn 50 triệu/ha, giúp nông dân nâng cao thu nhập trên cùng một diện tích đất sản xuất, bước đầu thực thi có hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp phù hợp với từng vùng sinh thái ở địa phương.

Sau khi tổ chức đi tham quan thực tế mô hình canh tác hai vụ lúa và một vụ nuôi thủy sản trên ruộng ở tỉnh An Giang và Cần Thơ; đồng thời, được ngành Ngân hàng và Khuyến nông huyện hỗ trợ vốn và kỹ thuật... anh Hứa Văn Ðiển, ngụ ấp Long Thành, xã Phú Thành, huyện Tam Nông đã mạnh dạn đầu tư vốn thực hiện mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng. Anh Ðiển cho biết: "Sau khi thu hoạch lúa hè thu xong, tôi cải tạo mặt ruộng, vét đất đắp bờ đê, làm vệ sinh sạch sẽ bằng vôi bột rồi mua cọc tràm, lưới cước thiết kế một quầng nuôi tôm trên diện tích 2 héc-ta ruộng đang bị nước lũ ngập tràn. Tiếp đó, tôi xử lý nước trong quần thật kỹ không để sót các loại cá lóc, trê, ếch... tấn công tôm. Cuối cùng, tôi đầu tư trên 25 triệu đồng mua 210.000 con tôm Post để thả vào quần nuôi".

Nguồn thức ăn cho tôm chủ yếu là: gạo, cơm dừa và các loại cua, ốc, cá, tép xay nhuyễn... Ðồng thời, anh Ðiển còn sử dụng thức ăn viên công nghiệp có nhiều độ đạm cho tôm càng xanh ăn và phòng ngừa dịch bệnh kịp thời cho tôm đúng theo hướng dẫn của cán bộ khuyến nông huyện... Nhờ thường xuyên kiểm tra, bảo vệ vuông tôm, chăm sóc đàn tôm thật chu đáo nên sau hơn sáu tháng nuôi, anh Ðiển đã thu hoạch trên 3.150 kg tôm càng xanh thương phẩm (bình quân đạt 30 con/kg) bán giá bình quân 75.000 đồng/kg, thu nhập hơn 236 triệu đồng. Sau khi trừ tất cả chi phí đầu tư, công chăm sóc và thanh toán vốn - lãi cho ngân hàng, anh Ðiển còn lãi gần 70 triệu đồng; cộng với nguồn lợi nhuận từ việc canh tác hai vụ lúa hơn 23 triệu đồng.

Như vậy, mô hình canh tác hai vụ lúa - một vụ nuôi tôm trên ruộng, anh Hứa Văn Ðiển đã có tổng nguồn lợi nhuận gần 100 triệu đồng, cao gấp bốn lần so với lúc chưa thực hiện mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng - vật nuôi này. Phấn khởi hiệu quả đã đạt được, anh Ðiển cho biết: "Nuôi tôm càng xanh giống nhân tạo trong mùa nước nổi tuy chi phí đầu tư rất cao nhưng bù lại rất dễ tìm nguồn thức ăn cho tôm, giá thức ăn rẻ, nguồn nước tốt, có thể nuôi số lượng lớn, con tôm tăng trưởng nhanh và khá đồng đều và cho lợi nhuận rất hấp dẫn...".

Năm 2004, ngành nông nghiệp huyện Tam Nông còn hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ vốn, con giống cá rô đồng nhân tạo cho ba hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp Tân Cường, xã Phú Cường áp dụng mô hình nuôi cá trên ruộng mùa nước nổi. Anh Nguyễn Văn Trãi, chủ nhiệm hợp tác xã Tân Cường, người trực tiếp áp dụng mô hình này cho biết: "Tận dụng mùa nước lên cao, tôi đầu tư hơn 100 triệu đồng thuê xáng múc lên bờ bao quanh 2 ha ruộng nhà mình sau khi thu hoạch lúa hè thu xong và cho nước vào, rồi thả nuôi 250 kg cá rô đồng giống. Thức ăn cho cá rô nuôi chủ yếu là: cua, ốc bươu vàng, cá tạp, các loại phế phẩm của nông - thủy sản... do tôi tự chế biến, để hạ giá thành trong chăn nuôi thì nguồn lợi nhuận sẽ cao hơn nhiều. Tôi thấy: Cá rô đồng nhân tạo rất dễ nuôi, ít đòi hỏi kỹ thuật vì cá rất thích nghi với môi trường khắc nghiệt của thiên nhiên và ít bị bệnh... Trong quá trình nuôi chỉ cần cho cá ăn đủ mồi theo chu kỳ phát triển của cá, thức ăn đủ chất đạm cần thiết và quản lý chất lượng nước, rào chắn cẩn thận để tránh thất thoát trong mùa mưa dông, định kỳ xổ sán lãi cho cá là đạt hiệu quả khả quan...". Nhờ thường xuyên theo dõi diễn biến tình trạng tăng trưởng cũng như dịch bệnh của cá để có cách phòng trị kịp thời nên đàn cá rô nuôi của anh Trãi phát triển nhanh, tỷ lệ hao hụt thấp... Sau hơn sáu tháng chăm sóc, anh Trãi đã thu hoạch được hơn 8 tấn cá rô đồng thương phẩm bán giá bình quân 22.000 đồng/kg, thu nhập hơn 176 triệu đồng; trừ chi phí đầu tư và công chăm sóc, anh Trãi còn lãi hơn 37 triệu đồng. Riêng hai vụ lúa, sau khi thu hoạch và trừ tất cả chi phí, anh Trãi còn lãi hơn 32 triệu đồng. Tính chung, mô hình canh tác hai vụ lúa và một vụ nuôi cá trên ruộng, gia đình anh Trãi đã đạt tổng lợi nhuận gần 70 triệu đồng.

Ðánh giá hiệu quả mô hình canh tác hai vụ lúa - một vụ nuôi thủy sản trên ruộng, anh Nguyễn Văn Thông, Phó trưởng phòng Nông nghiệp huyện Tam Nông cho biết: "Ðối với mô hình này cho thấy những kết quả bước đầu rất khả quan. Nó sẽ mở ra triển vọng khai thác tiềm năng của huyện. Thứ nhất là khai thác tiềm năng về mặt nước trong mùa lũ; thứ hai là có ý nghĩa về mặt dân sinh của huyện, thúc đẩy kinh tế của huyện phát triển và khai thác được lợi thế trong mùa nước nổi. Một là tác động quá trình khai thác tiềm năng đối với nông dân nói chung có điều kiện phát triển kinh tế trong mùa lũ, giải quyết được lao động nhàn rỗi cho địa phương. Thứ hai là mở ra được triển vọng xóa đói giảm nghèo cho người dân, có thể tận dụng mùa nước nổi nuôi tôm, cá... Thứ ba là tạo được môi trường sản xuất bền vững đối với thủy sản mùa lũ. Ðây cũng là một trong những chủ trương lớn để khôi phục ngành nghề thủy sản trong một thời gian khá dài mà chúng ta đã không khai thác tiềm năng... Ngành nông nghiệp huyện sẽ nhân rộng mô hình này trong những năm tiếp sau trên những cánh đồng thích hợp của huyện vùng sâu Ðồng Tháp Mười này...".

TRẦN TRỌNG TRUNG

 


Sông Cầu - Ngư dân được mùa khai thác hải sản

Nguồn tin: PY, 17/3/2005
Ngày cập nhật: 17/3/2005

Ngư dân huyện Sông Cầu đang được mùa khai thác hải sản, nhất là ở nghề mành ruốc, lưới cản và pha xúc. Sản lượng hải sản trong hơn 2 tháng qua đạt 2.500 tấn, tăng 83% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cá nội địa chiếm 1.700 tấn và thuỷ sản khác 800 tấn, phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng, chế biến của nhân dân và làm thức ăn cho nghề nuôi trồng thuỷ sản. Tuy sản lượng đánh bắt tăng, nhưng nguồn nguyên liệu để đưa vào vào sơ chế phục vụ xuất khẩu là cá cơm ngần, cá cơm ba lài lại không xuất hiện nhiều như năm trứôc.

Năm 2005 này, huyện Sông Cầu đề ra kế hoạch khai thác 14.000 tấn hải sản, tăng 18,6% so với năm trước.

(Theo T.Hiền, báo Phú yên 1797)

 


Sông Cầu - Lượng tôm hùm giống thả ương giảm 71,4%

Nguồn tin: PY, 17/3/2005
Ngày cập nhật: 17/3/2005

Hơn 2 tháng qua, bà con các xã ven biển ở huyện Sông Cầu đã thả ương tôm hùm giống chỉ được 400 lồng giảm 71,4% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân nguồn tôm hùm giống trong tự nhiên giảm nhiều, do đó giá tôm giống lên rất cao, từ đầu vụ đến nay ở mức 110.000 đồng/con, tăng 55.000 đồng/con so với năm trước. Hiện nay, toàn huyện có gần 14.500 lồng tôm hùm thịt từ năm trước chuyển sang, tôm phát triển tốt, chưa có dấu hiệu dịch bệnh. Đáng chú ý, nhiều người nuôi tôm hùm đã chuyển dần từ hình thức nuôi lồng sát đáy sang nuôi bè nổi như ở Phước Lý (thị trấn Sông Cầu), Xuân Phương, Xuân Thọ 1... nhằm dễ dàng di chuyển, chăm sóc tôm được tốt hơn và giữ gìn môi trường vùng nuôi.

(Theo Kiều Ba, Báo Phú yên 1797)

 


Trà Vinh - Tiền Giang: gần 20 triệu con tôm chết

Nguồn tin: TT, 17/3/2005
Ngày cập nhật: 17/3/2005

Theo Sở Thủy sản Trà Vinh, đến nay đã có hơn 12,5 triệu con tôm sú bị chết của 3.000 hộ thả giống sớm trước Tết Nguyên đán, chiếm hơn 16,5% trong tổng số tôm giống thả nuôi sớm trước lịch thời vụ, tập trung ở xã Hiệp Mỹ Tây (huyện Cầu Ngang), xã Long Hữu (huyện Duyên Hải).

Tôm chết ở thời điểm 20-50 ngày tuổi, bị nhiễm các bệnh đỏ thân và đốm trắng... chủ yếu là ở các ao, vuông nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến. Nguyên nhân là do thả nuôi sớm, môi trường nước chưa ổn định, không tuân thủ lịch thời vụ và quy trình kỹ thuật theo hướng dẫn của ngành thủy sản. Một số vùng do bị ảnh hưởng nắng nóng và khô hạn không thay nước được.

Trong khi đó tại Tiền Giang, thống kê của ngành thủy sản huyện Gò Công Đông cho biết đến nay đã phát hiện khoảng 7 triệu con tôm chết trên diện tích 40ha của 37 hộ ở các xã: Bình Xuân, Bình Đông, Phước Trung, Phú Tân... Hiện ngành thủy sản tỉnh đang kiểm tra nguồn nước, môi trường, thức ăn và hướng dẫn nông dân các biện pháp phòng ngừa bệnh tôm.

K.N

 

Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang